Ý nghĩa
Vía Phật -
Bồ Tát trong năm
---o0o---
HÌNH ẢNH BỒ
TÁT PHỔ HIỀN TRONG PHẬT GIÁO
Thích Pháp Huệ
A.
DẪN NHẬP
Trong cuộc sống, Phật tử chúng ta thường hay ca ngợi và thán phục trước
những tấm lòng hy sinh cao cả, qua hạnh nguyện thể hiện tình thương, giúp
đời của những người đi theo lý tưởng phụng sự xã hội. Hạnh nguyện đó, ít
nhiều cũng đã hé mở cho những thân phận cùng khổ một tia sáng hy vọng, một
niềm tin hướng thượng giữa đời thường. Thế nhưng, tình thương yêu và nghĩa
cử cao đẹp đó vẫn còn nằm trong hữu hạn, với những điều kiện mong cầu.
Song, tìm hiểu qua kinh điển Phật giáo Đại Thừa, chúng ta thấy có nhiều vị
Bồ tát, hạnh nguyện lợi tha thật vô cùng rộng lớn.
Ở đây,
sự nổi bật về hạnh nguyện độ thế, chúng ta thấy có Bồ tát Phổ Hiền, một vị
Bồ tát mà tín đồ Phật giáo thường hay tôn trí, thờ phụng trong các ngôi
chùa ở những nước châu Á có sùng mộ Phật giáo phát triển.
Là người
Phật tử chân thành, chúng ta hiểu thế nào về hình ảnh của vị Bồ tát này để
niềm tin không rơi vào ý thức thần linh, siêu hình, huyền ảo.
B.
NỘI DUNG
I.
Định nghĩa
Giải thích danh hiệu
Theo
Phật giáo Đại Thừa, Bồ tát Phổ Hiền là nhân vật lý tưởng, xuất hiện từ
pháp thân và báo thân Phật. Từ phẩm tính cao thượng của bậc giác ngộ, Ngài
đã xuất hiện như một người bình thường có đầy đủ nguyện lực và công hạnh
rộng lớn. Để nhận chân được hình ảnh vị Đại sĩ này, chúng ta sẽ tìm hiểu
qua các phần dưới đây.
a)
Danh hiệu
Danh
hiệu Bồ tát này nói cho đủ theo âm Hán là Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ tát Ma ha
tát.
Đại Hạnh
là hạnh nguyện sâu rộng, cùng khắp tất cả mười phương Pháp giới mà kinh
Hoa Nghiêm thường ẩn dụ là biển hạnh (Phổ Hiền Hạnh Hải).
Phổ Hiền
– Dịch từ thuật ngữ Phạn Sàmantabhadra – Dịch âm là Tam Mạn Đà Bạt Đà La
hoặc Tam Mạn Đà Bạt Đà, Bật Thâu Bạt Đà, dịch nghĩa là Biến Cát. Nghĩa là
thân tướng và công đức của vị Bồ tát đó có khắp mọi nơi, thuần nhất, diệu
thiện.
Bồ Tát
(BodhiSattva): Dịch âm là Bồ Đề Tát Đóa, hay là Ma Ha Đế Tát Đóa, theo các
nhà dịch cũ gọi là Đại Đạo Tâm Chúng Sanh, Đạo Chúng Sanh v.v… Còn theo
cách dịch của Ngài Huyền Trang trở về sau, gọi là Đại Giác Hữu Tình, Giác
Hữu Tình. Nghĩa là vị có đại tâm cầu đạo nên gọi là Đạo Tâm Chúng Sanh. Vị
cầu Đạo, cầu Đại Giác do đó cũng gọi là Đạo Chúng Sanh. Đại Giác Hữu Tình,
Giác Hữu Tình là vị tự mình nỗ lực giác ngộ và hướng dẫn chúng sanh đều
được giác ngộ. Tát đóa có nghĩa là dũng mãnh, dũng mãnh cầu Bồ Đề nên gọi
là Bồ Để Tát Đóa. Hoặc gọi là Khai Sĩ, Cao Sĩ, Đại Sĩ (vị có nhân cách,
năng lực khai thị cho tất cả chúng sanh đồng giác ngộ).
Ma Ha
Tát – Nghĩa là to, lớn, nhiều. Đây là chỉ cho phẩm tính phổ biến sâu rộng
của Hạnh Nguyện và đủ tư cách làm bậc thượng thủ hướng dẫn chúng hội phát
tâm tu tập vô lượng hạnh nguyện của các đức Như Lai. Do đó, danh hiệu Đại
Hạnh Phổ Hiền Bồ tát Ma Ha Tát có nghĩa là vị Bồ tát có vô lượng công đức
và hạnh nguyện, trùm khắp mười phương cõi nước.
b)
Xuất hiện
Căn cứ
những sưu khảo của các nhà nghiên cứu Phật học, thì danh hiệu Phổ Hiền
được thấy xuất hiện đầu tiên trong kinh Mạn Đà La Bồ Tát, về sau xuất hiện
nhiều ở các bản kinh khác. Đặc biệt, đất nước Trung Hoa có những truyền
thuyết về Bồ tát Phổ Hiền; họ cho rằng đức Phổ Hiền Bồ tát thị hiện hóa
thân tại núi Nga Mi Sơn (một trong 4 đại danh sơn Trung Quốc thuộc tỉnh Tứ
Xuyên) và trên núi có Chùa Quang Tướng là Linh Tràng của Bồ Tát Phổ Hiền
thị hiện giáo hóa.
Ở Việt
Nam, cũng có một số chùa có tôn trí hình tượng Bồ Tát Phổ Hiền, cưỡi voi
trắng 6 ngà hầu bên phải đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Ngài Phổ Hiền là một
trong những vị Bồ Tát mà Phật Giáo đồ Việt Nam rất tôn kính.
c)
Truyền thuyết
Về
sự tích tiền thân Bồ Tát Phổ Hiền, kinh Bi Hoa có nói “Trích Lục Phật học
tạp chí tử Bi Âm” (tập 200-204), minh họa:
Xưa !
Tiền thân đức Phổ Hiền có tên là Năng Đà Nô, người con thứ tư của vua Vô
Tránh Niệm. Nhờ phụ vương khuyên bảo, thái tử đã phát tâm cúng dường đức
Phật Bảo Tạng và chư Tăng trong 3 tháng hạ.
Thuở ấy
quan đại thần là Bảo Hải, thấy thái tử phát tâm dũng mãnh như thế nên
khuyên rằng: “Nay điện hạ đã có lòng làm các việc công đức, vậy hãy hồi
hướng về đạo Vô thượng bồ đề, cầu được thành Phật hơn là cầu phước báo hữu
lậu, nơi cõi trời, cõi người”.
Thái tử
nghe quan đại thần nói như vậy, liền bạch lên đức Phật Bảo Tạng: “Bạch đức
Thế Tôn ! –Nay tôi làm các công đức, tất cả đều xin cúng dường lên đức Như
Lai và đại chúng, xin hồi hướng công đức này hướng về đạo Vô thượng chánh
giác, nguyện phát tâm Bồ Đề, tu tập vô lượng hạnh nguyện Bồ Tát, giáo hóa
mọi loài chúng sanh, cầu chứng ngôi Phật đạo. Và xin hồi hướng để được cõi
Phật trang nghiêm, thanh tịnh, tất cả đều tốt đẹp và sự giáo hóa chúng
sanh sẽ đồng như cõi của Phật Phổ Hiền”. Khi Phật Bảo Tạng nghe thái tử
phát những thệ nguyện, Ngài liền khen ngợi và thọ ký, đồng thời đặt hiệu
cho thái tử là: Kim Cang Trí Tuệ Quang Minh Công Đức. Sau nhiều kiếp tu
hành, thực hiện các thệ nguyện viên mãn, rồi đến thế giới Bất huyến
phương Đông thành Phật hiệu là Phổ Hiền Như Lai.
Từ khi
phát những hạnh nguyện đó và nhờ nhiều đời sinh ra nơi nào cũng tinh tấn
tu hanh đạo Bồ Tát nên Ngài đã thành Phật và đang hóa thân vô số ở các thế
giới để giáo hóa chúng sanh.
II-Hạnh nguyện và biểu trưng.
a-Hạnh nguyện.
Nói
đến hạnh nguyện Bồ Tát Phổ Hiền, kinh Hoa Nghiêm phẩm 40 đã nêu lên 10
Hạnh nguyện và những Hạnh nguyện này tiêu biểu cho tất cả Hạnh nguyện của
Bồ tát. Thế nên, Hạnh nguyện đó còn gọi là Phổ Hiền Hạnh Hải.
1.
Thường lễ kính các đức Phật
(nhứt giả lễ kính chư Phật)
Các
đức Như Lai là những bậc toàn giác, là những vị đã viên mãn hai phần Tự
Lợi và Lợi Tha. Sự lễ kính mười phương ba đời tất cả Phật tức là bày tỏ
niềm tôn kính về nhân cách, công đức và hạnh nguyện viên mãn của những bậc
đã Giác Ngộ. Song, muốn đạt được năng lượng an lạc trong lễ bái, hành giả
cần phải giữ 3 nghiệp (thân, miệng, ý) thanh tịnh; mỗi lễ thân và tâm hằng
nhiếp sâu vào tánh pháp giới. Khi thân tâm chúng ta và đối tượng lễ đã
đồng một thể vắng lặng, thì sự cảm ứng sẽ viên dung, vô ngại, không thể
nghĩ bàn. Sự lễ kính này không phải đồng nghĩa với khái niệm cầu xin để
được ban ơn, giáng phước mà chính là sự trở về cội nguồn tuệ giác, phát
triển vô lượng hạnh nguyện, công đức vốn có nơi bản tâm. Điều này, trong
luận Khởi tín, tổ Mã Minh cho đây là hai điều kiện cần thiết của lộ trình
khai mở tri kiến Phật, đó là sự trỗi dậy, phát huy của bản thể chân như
(nội huân chân như), sự tác động mạnh mẽ của phần tướng, dụng chân như
(ngoại duyên chân như).
2.
Thường xưng tụng công đức của Như Lai (Nhị giả xưng tán Như
Lai)
Công
đức Như Lai hội tụ từ vô lượng kiếp tu Bồ tát hạnh. Xưng tụng công đức đó
cũng tức là khen ngợi, bày tỏ lòng tôn kính các đức Phật. Công đức Như Lai
vô lượng nên lòng tôn kính và ca ngợi của Bồ Tát cũng không cùng tận. Sự
ca ngợi này còn có nghĩa học hỏi, noi gương, trở về nhận ra những công đức
tiềm ẩn nơi Như Lai Tạng tâm của hành giả, để khai thị, hiển bày, làm điểm
tựa và chuyển hóa những ý niệm nhiễm ô, ác dục thành thanh tịnh, trong
sáng.
3.
Thường thờ phụng và cúng dường tất cả chư Phật (Tam giả
quảng tu cúng dường)
Thờ
phụng cúng dường các đức Phật là làm tăng trưởng công đức tự tâm, trong đó
bao hàm cả ý nghĩa học hỏi, noi gương đức tính của bậc giác ngộ. Đây là lý
tưởng tôn thờ cái đẹp, cái toàn thiện, với mục đích gieo trồng các hạnh
lành để trang nghiêm nguồn sống vĩnh cữu. Như trong tất cả pháp cúng
dường, Bồ Tát thường cúng dường bằng cách thực tập theo giáo pháp. Do đó,
kinh Hoa Nghiêm, phẩm nhập pháp giới, Bồ Tát Phổ Hiền kêu Thiện Tài bảo:
“Thiện nam tử ! Trong những cách cúng dường, pháp cúng dường là giá trị
hơn hết”. Bồ tát cúng dường pháp tức sống theo lời Phật dạy, phát triển
các điều lành, siêng làm lợi ích chúng sanh. Đồng thời, trong lộ trình
hành đạo luôn thực hành các hạnh nghiệp của Bồ Tát và mọi hành động đều
chẳng bỏ mất tâm Bồ đề. Sự cúng dường pháp như thế, Bồ tát từng bước thành
tựu nhân cách của Như Lai.
4.
Thường sám hối các nghiệp từ vô thủy đế nay và tuân giữ tịnh
giới (tứ giả sám hối nghiệp chướng)
Sám
hối là ăn năn và ngừa lỗi. Nghiệp là chỉ cho sự tạo tác của ý nghĩ, lời
nói và hành động. Bồ tát thường hay sám hối các nghiệp nhiễm ô nhiều đời.
Và bên cạnh đó còn tuân giữ tịnh giới để phát huy định và huẹâ. Vì bản
chất của giới là ngăn ngừa các ác, lậu, Bồ tát tuân giữ tịnh giới sẽ không
bị các sự lỗi lầm phát sinh, ngự trị trên mảnh đất tâm. Và một khi, không
còn sinh khởi các ác, dục, ái là tâm đã thanh tịnh. Hơn nữa, hành giả tu
tập, sám hối các nghiệp, giữ gìn tịnh giới là để tự hoàn thiện nhân cách,
cũng như tính hiệu quả trong lộ trình thực hiện hạnh nguyện độ sanh. Song,
pháp sám hối của Bồ tát là luôn quán nghiệp chướng vốn không hình tướng,
không có chủ thể, thần linh quyết định. Đã tự gây tạo tội, phước thì tự
thọ nhận kết quả khổ đau hoặc an vui. Vì thế, nếu không tạo tác thì sẽ
không có kết quả thọ báo. Đó là phương pháp quán tội tánh vốn không để đạt
vô sanh.
5.
Thường tùy hỉ công đức của tất cả Phật, Bồ tát cho đến 6 loài
(Trời, Người, A Tu La, Địa, Ngục, Ngạ quỉ, Súc Sanh) và 4 sanh (Noãn,
Thai, Thấp, Hóa) (ngũ giả tùy hỉ công đức)
Trong con đường thực hành Bồ Tát Hạnh, Bồ tát thường tùy hỉ, nghĩa là tâm
thường hoan hỉ với vô lượng công đức của các đức Phật, Bồ Tát và các loài
chúng sanh. Đây là hạnh nguyện dẫn tâm đến thánh thiện, bình đẳng, không
còn phân biệt, vướng chấp theo 4 tướng (tôi, người, các loài và mọi cảm
thọ).
6.
Thường lễ thỉnh tất cả Phật giảng
nói giáo pháp (lục giả thỉnh chuyển pháp luân)
Giáo
pháp là kim chỉ nam cho người tu hành, là thuyền bè đưa người qua bể khổ.
Vì hạnh nguyện lợi tha, Bồ tát thường thỉnh Phật giảng nói giáo pháp để
chúng sanh nương theo tu hành. Do đó, trong các kinh Đại Thừa, Bồ tát Phổ
Hiền thường đại diện chúng hội thưa, thỉnh Phật chuyển pháp luân.
7.
Thỉnh cầu Phật, Bồ tát chớ nhập Niết
Bàn, mà trụ ở thế gian để nói pháp (thất giả thỉnh Phật trụ
thế)
Niết
Bàn là chỉ cho cảnh giới tịch diệt, tức tâm thức đã chuyển hóa tham, sân,
si trở về vô lậu, thể nhập bản thể, đưa đến trạng thái vắng lặng hoàn
toàn. Thường khi hóa duyên đã mãn, các đức Phật và Bồ tát đều nhập Niết
bàn. Nhưng vì lợi ích chúng sanh, Bồ tát luôn thỉnh Phật trụ thế để nói
pháp. Sự thỉnh cầu như thế, không ngoài ý nghĩa là “Thành tựu chúng sanh,
tịnh Phật quốc độ” mà kinh Duy Ma Cật đã khai mở cho hàng Bồ tát cầu Phật
đạo.
8.
Thường theo Phật Tỳ Lô Giá Na học
giáo pháp (bát giả thường tùy Phật học)
Phật
Tỳ Lô Giá Na là pháp thân của tất cả các đức Như Lai, là bản thể tịch
diệt, trong sáng của muôn loài. Giáo pháp từ pháp thân này lưu xuất nên Bồ
tát phải theo Phật để học pháp. Hơn nữa, các đức Phật và Bồ Tát đều lấy
tánh giác làm nhân tu để đạt quả chứng, do đó theo đức Phật Tỳ Lô Giá Na
học pháp còn có nghĩa là hành giả nội hướng, trở về sống với nguồn tuệ
giác để thành tựu hạnh nguyện tam muội (chánh định).
9.
Ứng theo sự khác biệt của các loài
chúng sanh mà làm các việc cúng dường (cửu giả hằng thuận chúng
sanh)
Đây
là con đường mở bày phương tiện độ sanh, thực hiện 4 nhiếp pháp (bố thí,
ái ngữ, lợi hành, đồng sự) giữa lòng cuộc đời. Sự tùy thuận các loài, tức
Bồ tát quán sát căn cơ các nghiệp cảm thọ của từng loại chúng sanh, từng
cá nhân để giáo hóa và đưa chúng sanh tướng, chúng sanh tâm trở về thể
nhập bản giác.
10.
Hồi hướng công đức cho tất cả chúng
sanh để thành tựu quả Phật (thập giả phổ giai hồi hướng)
Mục
đích của Bồ Tát là phát nguyện độ sanh, đem công đức hồi hướng về quả vô
thượng Bồ Đề cầu thành Phật. Và tất cả những hạnh nguyện trên đều hướng
đến mục tiêu chung đó. Vì thế, đây là hạnh nguyện phổ biến, và cũng là nền
tảng của tất cả hạnh nguyện.
Như
vậy 10 hạnh nguyện trên là bản thể hạnh nguyện của Bồ Tát trong lộ trình
thực hiện độ sanh, thành tựu quả Phật. Hay nói cách khác, đó là hạnh
nguyện nhiếp tất cả hạnh nguyện.
b-Hình ảnh biểu trưng
Qua
sự tìm hiểu về hạnh nguyện, chúng ta đủ xác định rằng Bồ Tát Phổ Hiền là
tiêu biểu cho nhân cách và bản hạnh rộng lớn của các vị Bồ Tát cũng như
đức tính siêu việt của Phật. Vì vậy, ở góc độ biểu trưng, Ngài Phổ Hiền
biểu thị cho lý, định, hạnh, tức thể hiện lý trí, định hụê, hạnh chứng của
Như Lai. Đó là con đường lấy hạnh nguyện độ sanh, cầu vô thượng Bồ đề làm
cơ sở để xây dựng viên mãn 2 phần lý trí và định huệâ. Đồng thời, trong sự
tác động qua lại đó, hạnh nguyện đã tự bao hàm cả lý và định.
Tuy
nhiên, để thấy được sự thống nhất này, lý là khái niệm thuật ngữ chỉ thể
tánh – nơi lưu xuất muôn pháp. Định là tam muội. Hạnh là chỉ cho hạnh
nguyện thâm sâu mà chúng ta đã tìm hiểu. Nếu xét ý nghĩa tương quan nhân
qủa trong 3 môn vô lậu (giới, định, tuệâ) thì hạnh nguyện nhiếp giới vô
lậu, tam muội nhiếp định vô lậu, lý nhiếp huẹâ vô lậu, tuy 3 nhưng đồng
một thể. Bởi vậy, lý, định, hạnh là cội nguồn của chư Phật, là bản thể của
tâm sinh lý và sự vật hiện tượng. Bồ tát tu tập thể nhập được bản thể này
gọi là đã vào được biển tánh của Như Lai (tánh hải). Vì vậy, Bồ tát Phổ
Hiền cũng là hạnh nguyện, công đức được hiển bày từ biển tánh, tức pháp
thân Phật.
Thế
nhưng, biển tánh kia, ở bậc Thánh không thêm, phàm không bớt. Khi mọi niệm
hành giả đều thanh tịnh, sáng suốt, diệu thiện, thì tự nó đã tương ưng với
lý, định và hạnh của Phổ Hiền. Những niệm sáng như thế, luôn vượt lên tất
cả mọi trạng thái vô minh, phiền não và chuyển hóa toàn bộ tâm lý nhiễm ô
trở thành thanh tịnh. Từ đó, ý nghĩ, lời nói, hành động đều biểu lộ nhân
cách của Bồ Tát; Tức sự hóa độ của đức Phổ Hiền cũng là hiển thị cho tất
cả những niệm tỉnh sáng, rộng lớn, thánh thiện tự chuyển hóa, dẫn đạo các
niệm vọng khởi của phàm phu chúng sanh nhận nhập bản giác bình đẳng, thành
tựu Phật đạo. Và do hành động trên nền tảng lý, định, hạnh, nên độ chúng
sanh nhưng chẳng có chúng sanh nào để độ. Vì tất cả đều là diệu dụng nhiệm
mầu của biển tâm, của vô trú tâm. Thế nên, kinh Hoa Nghiêm, phẩm Phổ Hiền
dạy:
“Ở khắp các thế giới
Niệm niệm thành chánh giác
Mà tu hạnh Bồ Tát
Chưa từ có thối chuyển”.
Hơn
nữa, Ngài Phổ Hiền là đại biểu cho nhân cách Bồ Tát đẳng giác nên sự diệu
dụng đã trở nên vô ngại. Chính hình ảnh ngồi trên lưng voi trắng (bạch
tượng), đã thể hiện rõ sức mạnh của sự diệu dụng đó. Voi là loài thú có
sức mạnh. Hình ảnh cưỡi voi trắng 6 ngà là muốn nói lên rằng sức mạnh kia
kết tinh từ vô lượng hạnh nguyện, vô lượng công đức thanh tịnh, trong
sáng.
Vì
vậy, những ẩn dụ biểu trưng đã đưa nhân cách Bồ tát Phổ Hiền lên giá trị
siêu việt.
III-
Khai mở đời sống con người và xã hội
1.
Xác định giá trị con người
Từ ý
nghĩa, mục đích Ngài Phổ Hiền thể hiện, ít nhiều đã giúp hành giả chúng ta
trở về hoàn thiện lại đời sống tự thân. Vì Bồ Tát và chúng sanh phàm phu
đều đồng có đức tánh Phổ Hiền, nhưng các ngài tự phát huy và hoàn thiện
tuyệt đối, còn chúng sanh thì vẫn rong ruổi theo những ảo vọng, chết sống
trong ham muốn, giận hờn, khát dục. Điều này đã cho chúng ta thấy rằng,
nguyên nhân làm con người mãi trầm luân, bất an, sợ hãi, khủng hoảng và
khổ đau là do nhận thức sai lầm.
Nhưng tại sao chúng ta lại quên đi phẩm tính và nhân cách siêu việt vốn
đầy đủ ở chính tâm mình để chạy theo bóng dáng hư ảo, huyền hoặc như tin
không nhân quả, không đời sau, cầu xin thần thánh ban ơn giáng phước v.v…
Đó phải chăng chúng ta đã tự phủ nhận những khả năng ưu việt, những giá
trị nhân bản của đời sống ? Không – sở dĩ có những quan niệm sai lầm như
thế, đều do sự ngộ nhận của ý thức, lấy giả làm thật, nhận vọng làm chơn.
Hiện tại, đời sống con người đang đắm mình trong dục lạc. Bao nhiêu yêu
thích, chiếm hữu, hận thù, tranh chấp luôn có mặt trên từng ý nghĩ, lời
nói, hành động, tất cả đều do tác nhân đó gây ra. Nhưng muốn giải thoát
chúng, tất nhiên chúng ta không chỉ lý luận mà phải tự trở về với ánh sáng
tuệ giác để thấy con người thật của chính mình (chân tâm).
Và
khi đã có định hướng, đòi hỏi phải tự nỗ lực khai mở bản tâm và hành động
trong tinh thần bao dung, vô ngã. Khi thấy rõ được nguồn tâm, lấy hạnh
nguyện lợi ích chúng sanh, cuộc đời làm mục tiêu hướng thượng tức là chúng
ta đã xác định được con đường hướng đến Vô Thượng Bồ Đề. Tuy nhiên, sự
khai mở đó phải thiết lập bằng trí vi diệu, tức là huẹâ Phổ Hiền mới đủ
lực dụng nhập cảnh giới Phật. Do đó, kinh Hoa Nghiêm, phẩm Phổ Hiền dạy
rằng:
“Trí vi diệu rộng lớn
Thâm nhập cảnh Như Lai
Nhập rồi chẳng thối chuyển
Gọi là Phổ Hiền huẹâ”.
Hay
nói trên phương diện chuyển hóa từng ý niệm:
“Trong một niệm rõ biết
Chư Như Lai xuất hiện”.
Ở
đây, hình ảnh Bồ Tát Phổ Hiền trở thành bài học thực tiễn, giúp chúng ta
vươn tới xây dựng lại đời sống và phát triển những hạnh nguyện lợi tha để
trang nghiêm tự thân. Hành giả thực hiện hướng đi này tức là bước vào con
đường hoàn thiện nhân cách mình trở thành một đức Phật. Song, phải dụng
tâm bằng cách nào ? Điều này chúng ta nên thực tập qua kinh nghiệm của Bồ
Tát Phổ Hiền:
“Tâm trụ nơi thế gian
Thế gian trụ nơi tâm
Nơi đây chẳng vọng khởi
Phân biệt hai chẳng hai,
Chúng sanh thế giới kiếp
Chư Phật và Phật pháp
Tất cả như huyễn hóa
Pháp giới đều bình đẳng.
Ở
cõi mười phương cõi
Thực hiện vô lượng thân
Biết thân từ duyên khởi
Rốt ráo không chỗ chấp…”
Khi
nào mọi niệm tâm chúng ta chuyển hóa nhuần nhuyễn mà không rơi trong phạm
trù một – hai, có – không là mới tuỳ duyên hóa thân vô ngại trong pháp
giới bình đẳng. Đó là đời sống của những vị đã phát vô lượng hạnh nguyện,
từng niệm tỉnh sáng vượt lên trên mọi trú chấp về tôi và của tôi, tâm đạt
an lạc và giải thoát hoàn toàn. Ở đây, giá trị và vai trò con người đã đưa
lên ngôi vị tuyệt đối trong việc quyết định đời sống cá nhân, gia đình và
xã hội.
2.
Xây dụng xã hội ổn định – thịnh
vượng
Xã
hội là khái niệm thuật ngữ chỉ đời sống hoạt động, quan hệ, giao tiếp giữa
người với người trong những cộng đồng dân cư mà chúng ta thường gọi là
làng, xã, vùng, miền v.v… Và trong một xã hội có nhiều thành phần, nghề
nghiệp, tín ngưỡng tôn giáo. Cấu trúc tư tưởng và hình thái xã hội sẽ tùy
thuộc vào những quan niệm, những đời sống bao hàm các lĩnh vực kinh tế,
giáo dục, phong tục tập quán, văn hóa và tín ngưỡng của từng cá nhân, gia
đình, làng xã…
Một
xã hội ổn định và thịnh vượng, trong đó không thể có quá nhiều thành phần,
nghề nghiệp suy thoái đạo đức. Thế nên, Phật giáo bước đầu xây dựng xã hội
là hoàn thiện từ cá nhân, gia đình rồi mới mở rộng ra làng, xã. Điều này
có nghĩa mỗi người đóng vai trò quyết định để hình thành những kiểu mẫu xã
hội. Ở đây, nhân cách của Bồ tát Phổ Hiền có giá trị khai mở đời sống tỉnh
thức và lợi tha cho cá nhân, gia đình cùng mọi cộng đồng. Vì nếu nhìn từ
gốc độ xã hội, Ngài Phổ Hiền là một nhân vật lý tưởng không những hoàn
thiện đời sống cá nhân mà còn là mẫu người lý tưởng của xã hội hiện đại.
Như chúng ta đã tìm hiểu về phẩm tính và nhân cách của Ngài, đây là vị Bồ
tát có nhiều hạnh nguyện siêu việt hơn tất cả các Bồ Tát, trong đó trọng
tâm đều lấy sự lợi ích muôn loài để thành tựu Phật đạo.
Xã
hội ngày nay tinh thần đạo đức truyền thống đang bị khủng hoảng, luân lý
đạo đức dường như bắt đầu nhường chỗ cho tội ác, gây rối, phá hoại. Hiện
tại chúng ta đang sống vì mục đích riêng tư nhiều hơn là lợi ích cho xã
hội. Đây là cách sống mở rộng ý thức về cái tôi và quyền sở hữu. Từ nhận
thức và hành động như thế, tâm lý cá nhân đã nảy sinh ra ý thức đấu tranh,
ích kỷ, ganh ghét, hận thù. Đời sống như vậy, bên cạnh sự chiến thắng chắc
chắn tâm hồn phải luôn phòng ngự, lo âu, khủng hoảng và bất an. Vì tất cả
đều đi cùng chung trên một quỹ đạo nhân qủa; thắng, thua, thành, bại, hạnh
phúc hay khổ đau đều do mỗi chúng ta quyết định lấy, chứ không do một ai
có thẩm quyền giúp cho…
Tuy
nhiên, muốn có đời sống an lạc, hạnh phúc, tất nhiên mỗi chúng ta phải trở
về thực tập nhân cách của Bồ Tát Phổ Hiền. Đó là hành giả đi vào cuộc đời
làm tất cả việc bằng tinh thần lợi mình, lợi người, tức là thiết lập lời
nói và hành động đều vì lợi ích cho tha nhân và xã hội. Đây được coi là
quy luật tương quan nhân quả, nghĩa là kết quả hạnh phúc của chúng ta là
phát xuất từ hạnh nguyện đem đến hạnh phúc cho chúng sanh, cuộc đời và
ngược lại chúng sanh có an lạc nên ta cũng được an lạc. Để học hỏi và vận
dụng điều đó, chúng ta hãy nhìn qua hình ảnh Bồ tát Phổ Hiền:
“Bồ Tát lìa mê đảo
Tâm tịnh thường tương tục
Khéo dùng sức thần thông
Độ vô lượng chúng sanh…”
(Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Phổ Hiền)
Qua
lời kệ tụng trên, hành giả học Bồ tát ở sự lìa mê đảo. Mê đảo là sự nhận
thức không đúng với chân tướng của các pháp, tức nhận thức đã bị chi phối
bởi vô minh và dục ái. Thế nhưng, khi lìa mê đảo tâm sẽ trở về trạng thái
thanh tịnh. Tâm có thanh tịnh là có thần thông tự tại trong các pháp, có
vô lượng phương tiện để giáo hóa chúng sanh. Điều này bao hàm các ý nghĩa
là do tâm thường vắng lặng phiền não nên thấy rõ căn tánh từng loại chúng
sanh để Bồ Tát tìm mọi phương pháp chuyển hóa.
Cũng
như thế, chúng ta làm lợi ích cho cuộc đời, trước nhất phải giữ tâm tĩnh
lặng, thấy tường tận tâm lý, hoàn cảnh, đời sống của từng cá nhân, gia
đình và xã hội để có phương pháp giúp đỡ hiệu quả. Song, muốn lìa mê đảo,
muốn có tâm tĩnh lặng như Bồ Tát, chúng ta phải hành động trên tinh thần
giúp đời nhưng lòng không vướng bận và mong cầu thiện quả hữu lậu. Vì vậy,
nếu trong một xã hội, tất cả đều hoàn thiện tự thân như thế, chắc chắn xã
hội đó sẽ được phồn vinh, thịnh vượng.
IV-Bồ Tát Phổ Hiền dưới góc độ siêu hình
1.
Khái niệm trừu tượng
Nói
đến danh hiệu, cũng như hình ảnh và nhân cách của Bồ tát, chúng ta hoàn
toàn chỉ nhận thức trên khái niệm. Thế nhưng, khái niệm chỉ là phương
tiện, là cái vỏ để giúp người Phật tử hình dung ra được vị Bồ Tát mà mình
đặt niềm tin sùng kính, ngưỡng vọng. Song, sự sùng tín đó không ngoài tinh
thần ca ngợi, học hỏi, noi gương. Tuy nhiên, dường như người tín đồ chỉ
muốn vị Bồ tát mình tôn thờ phải ở một thế giới nào đó cao hơn cõi Ta Bà
này. Từ đó, những quan niệm trừu tượng mãi đóng khung và lẩn quẩn trong
những ý nghĩa huyền hoặc, siêu hình. Vì họ cho rằng nhân cách và hình ảnh
như thế chắc chắn không phải là con người bằng da bằng thịt như chúng ta.
Khi đó Bồ tát Phổ Hiền là nhân vật kiểu mẫu để giúp hành giả hóa thân đi
vào cuộc đời với hạnh nguyện lợi tha.
2.
Lý tưởng
Như
người ta nói, lý tưởng là mục đích mà con người ở bất cứ xã hội nào đều
muốn vươn tới, đạt được. Cũng như thế, Bồ tát Phổ Hiền là nhân vật lý
tưởng. Hướng về Bồ Tát với niềm tôn kính là để tự hoàn thiện nhân cách của
chúng ta, chứ không phải chỉ biết ca tụng, tán dương. Quan niệm này rất
nhiều Phật tử trí thức chấp nhận. Đối với bản thân người viết vẫn coi đây
là cái nhìn trọn vẹn về ý nghĩa sùng tín và lễ bái các vị Bồ Tát trong
Phật giáo Đại Thừa. Nói như thế, không có nghĩa là phủ nhận, vì mọi hành
giả đều có khả năng hóa thân.
3.
Tín ngưỡng bình dân
Song
song với quan niệm Bồ Tát Phổ Hiền là nhân vật lý tưởng, lại có những Phật
tử coi Bồ Tát Phổ Hiền như vị thần, thánh linh thiêng, có khả năng ban ơn,
giáng phước. Đây là cái nhìn hoàn toàn tín ngưỡng, nó phù hợp với những
quan niệm của các tôn giáo thần quyền.
Đúng
là trong hệ thống kinh điển mật giáo, Bồ tát Phổ Hiền được coi là vị có
năng lực vô biên và có nhiều phương pháp quán tưởng tu tập về vị Bồ tát
này. Nhưng đó là mật mã, những giá trị tuyệt đối về tâm linh. Hành giả cứ
thực tập những công thức của các vị đạo sư mật giáo hướng dẫn, chắc chắn
sẽ đạt được vô số diệu dụng, cũng như chứng nhập pháp thân, thành tựu Như
Lai địa. Điều này, nếu ai chưa đi vào con đường thể nghiệm thì không nên
có ý tưởng phê phán. Vì lộ trình đi vào cõi đạo có vô số pháp môn và nhiều
cách thể nhập.
Đối
với Phật tử chưa nắm vững nguyên lý và phương tiện tu hành trong hệ thống
mật giáo, khi phát khởi niềm tin và sùng tín Bồ Tát Phổ Hiền nên có nhận
thức chánh kiến, bằng không sẽ rơi vào tà kiến và chủ nghĩa thần linh,
giáo điều. Tuy nhiên, ngày nay đa phần Phật tử chúng ta tôn thờ và tín
ngưỡng Bồ tát rất dễ rơi vào những ý thức mê tín hơn là đúng với tinh thần
chánh pháp.
Nói
như thế, tinh thần tín ngưỡng đó không phải không lợi ích, nhưng sự lợi
ích chỉ giúp an ổn tạm thời ở mặt tâm lý. Nếu hành giả cứ sống mãi với
khuynh hướng này, tâm thức sẽ đưa đến cảm giác nhàm chán, chai lỳ. Thế
nên, chỉ có con đường phát huy tuệ giác, trang bị đời sống bằng vô lượng
phước thiện và công đức mới mong có được kết quả an lạc và hạnh phúc vĩnh
cửu đời này và đời sau.
C.
KẾT LUẬN
Tóm
lại, Bồ tát Phổ Hiền là nhân vật biểu thị cho vô lượng phẩm tính của pháp
thân Phật. Từ hạnh nguyện rộng sâu, Ngài đã thành Phật và tiếp tục hóa
thân vào các cõi để dìu dắt muôn loài phát tâm, lập nguyện thành Phật. Với
những truyền thuyết, hạnh nguyện và tính biểu trưng đã xây dựng Bồ tát Phổ
Hiền siêu việt cả tư tưởng lẫn nhân cách. Mẫu người như thế, đương nhiên
có giá trị khai phóng, chuyển hóa đời sống con người và xã hội hoàn thiện
về đạo đức, luân lý cũng như nhân cách vô hành. Chúng ta hướng về Bồ Tát
Phổ Hiền bằng tấm lòng ca ngợi và thực hành theo Ngài chứ không phải sự
cầu mong ban ơn, vì Bồ tát Phồ Hiền là vị đạo sư hướng dẫn chúng sanh tu
hành. Với ý nghĩa này, tự thân mỗi người đóng vai trò quyết định.
Để
có kết qủa tốt đẹp, chúng ta phải thể hiện đời sống tự thân noi gương tu
học, chứ không nên lẩn quẩn theo những quan niệm siêu hình, lý tưởng hoặc
thờ phụng theo dạng mê tín. Nếu vái lạy, cúng dường Bồ Tát để cầu giúp
những việc làm có lợi cho mình và hại người thì không những không lợi ích
mà còn phải đọa lạc khổ đau.
Vì
lẽ đó, ngày vía Bồ Tát Phổ Hiền, chỉ cần kính dâng lên lòng chí thành
thanh tịnh và nguyện sống như Ngài, chắc chắn trong đời sống của chúng ta
sẽ đạt được an lạc và giải thoát./.
---o0o---
[Mục Lục ][
01][
02][
03][
04][
05][
06][
07][
08][
09][10]
[11][12][13][14][15][16][17][18][19]
---o0o---
Source: www.chuyenphapluan.com
Trình bày: Linh Thoại
Cập nhật: 01-2-2005