Ý nghĩa
Vía Phật -
Bồ Tát trong năm
---o0o---
HÌNH ẢNH BỒ
TÁT VĂN THÙ TRONG
PHẬT GIÁO ĐẠI THỪA
Thích Pháp Huệ
A/ DẪN NHẬP
Mỗi năm đúng vào ngày 04/04 Âm lịch là ngày
vía đức Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, một vị Bồ Tát được coi là bậc thượng thủ
trong hàng Bồ tát. Về sự tín ngưỡng, tôn trí, thờ phụng ở những ngôi chùa
Việt Nam, chúng ta thường thấy Ngài đứng hầu phía tay trái Đức Phật Thích
Ca Mâu Ni, tay cầm kiếm và ngồi trên lưng con sư tử xanh. Tuy nhiên, là
người con Phật, chúng ta phải đặt niềm tin và sự hiểu biết về Bồ tát Văn
thù Sư Lợi như thế nào cho đúng với tinh thần Phật giáo ? Ở đây chúng tôi
cùng qúy vị từng bước tìm hiểu hình ảnh, tư cách và tính biểu trưng của Bồ
tát để sự tôn kính thờ phụng không những có lợi ích cho tự thân và xã hội
mà còn không rơi vào ý nghĩa thần linh, siêu hình, tà kiến.
B/ NỘI DUNG
I. Định nghĩa
1.
Giải thích danh hiệu
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi nói cho đủ theo âm Hán là Đại trí Văn Thù Sư Lợi Bồ
Tát Ma Ha Tát.
Đại Trí là trí tuệ (pràjnà) thấu triệt
tường tận chân lý tuyệt đối. Trí này có khả năng soi rọi, chuyển hóa vô
minh, phiền não, dục ái, nhiễm ô thành thanh tịnh, đưa nhận thức vượt lên
mọi phạm trù đối đãi, đạt giải thoát toàn diện.
Văn Thù Sư Lợi là dịch âm từ tiếng Phạn Manjusri. Các nhà cựu dịch gọi là
Văn Thù Thi Lị, còn tân dịch gọi là Văn Thù Thất Lị, gọi tắt là Văn Thù.
Nếu dựa trên cơ sở các kinh Đại Thừa, chúng ta lại thấy rằng: Vị Bồ tát
này có rất nhiều tên gọi khác nhau. Như kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Niết Bàn
gọi là “Diệu Đức”. Diệu Đức có nghĩa là vị Bồ tát có bất khả tư nghì các
thứ công đức vi diệu. Hoặc kinh Vô Hành gọi là “Diệu Thủ”. Đó là vị Bồ Tát
có bất khả tư nghì công đức và đứng đầu trong hàng Bồ Tát. Đối với kinh
Quán Sát Tam Muội, kinh Đại Tịnh Pháp Môn thì gọi là “Phổ Thủ” – có nghĩa
là tư cách Ngài đứng đầu trong chúng hội Bồ tát, thỉnh Phật tuyên thuyết
nghĩa lý các kinh liễu nghĩa. Còn kinh A Mục Khư, kinh Phổ Siêu có danh
xưng là “Như Thủ” – Vị Bồ tát thường hay thuyết minh về nghĩa lý thật
tướng. Hay kinh Đại Nhật gọi là “Diệu Cát Tường”, có nghĩa là Bồ Tát Văn
Thù vì có bất khả tư nghì công đức vi diệu nên thường biểu hiện các điều
tốt lành.
Bồ tát theo từ điển Phật học Hán Việt giải thích: Bồ tát – theo thuật ngữ
Phạn Bodhisattva – gọi đầy đủ là Bồ-đề-tát-đóa, hay còn gọi là
Ma-ha-đế-tát-đóa dịch là Đại Đạo Tâm Chúng Sanh, Đạo Chúng Sanh (cựu
dịch), hoặc còn dịch là Đại Giác Hữu Tình, Giác Hữu Tìnhv.v… nghĩa là
người có đại tâm cầu đạo, nên gọi là Đạo Tâm Chúng Sanh. Người cầu đạo,
cầu đại giác do đó còn gọi là Đạo Chúng Sanh, Đại Giác hữu Tình. Còn
tát-đóa nghĩa là dũng mãnh, dũng mãnh cầu bồ đề nên gọi là Bồ-đề-Tát-đóa.
Hoặc dịch là Khai sĩ, Cao sĩ, Đại sĩ v.v… đó là dịch theo nghĩa. Tên gọi
chung: Chúng Đại Thừa Cầu Phật Quả.
Ma Ha Tát có nghĩa là đại – rộng lớn, đó là chỉ cho phẩm tính toàn diện về
mặt trí tuệ của bậc đã giác ngộ, có đủ tư cách làm vị thượng thủ, hướng
dẫn chúng hội Bồ tát thắp sáng trí tuệ và thực hiện hạnh nguyện độ sanh
giữa lòng cuộc đời.
Như vậy, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Ma Ha Tát tức là vị đã tự tu tập và
chứng ngộ, có trí tuệ siêu việt, có bất khả tư nghì công đức vi diệu, đủ
khả năng làm bậc thượng thủ trong chúng hội Bồ tát, A La Hán và chúng sanh
phàm phu, hướng dẫn tất cả chín cõi nhập tri kiến Phật.
2.
Nhân vật
a/ Tiểu sử
Căn cứ vào kinh Văn thù Sư Lợi Bát Niết Bàn, thì Bồ tát này đã sanh vào
nhà Bà La Môn Phạm Đức, ở tụ lạc thuộc nước Xá Vệ. Khi Bồ tát thị hiện,
ngôi nhà bỗng hóa thành hoa sen. Điều đặc biệt là Bồ tát cũng sanh từ hông
phải. Và sau đó đã xuất gia, học đạo với đức Phật Thícch Ca Mâu Ni. Tuy
nhiên, kinh này không nói rõ thời gian và niên đại xuất hiện của Bồ tát
nên cũng khó xác chứng cụ thể. Vì vậy, nhân vật trên có phải là Bồ tát Văn
Thù được giới thiệu trong các kinh Đại Thừa hay không vẫn còn là câu hỏi
dành cho các nhà sử học Phật giáo.
b/ Truyền thuyết
Đứng ở góc độ truyền thuyết và đã được ghi
lại trong Thánh Điển, thì cho rằng: xưa – Bố tát Văn Thù khi chưa thành
đạo, Ngài là con thứ 3 của vua Vô Tránh Niệm, tên là Vương Chúng Thái tử.
Nhờ sự khuyên bảo của phụ vương, trong ba tháng hạ, thái tử đã phát tâm
cúng dường Phật Bảo Tạng và tăng chúng. Thuở ấy có quan đại thần tên là
Bảo Hải thấy vậy mới khuyên thái tử rằng: “Nay điện hạ đã có lòng tu phước
đức, tạo nghiệp thanh tịnh, vậy hãy vì tất cả chúng sanh mà cầu trí
tuệPhật; đồng thời đem công đức đó hồi hướng lên Vô Thượng Bồ Đề, thì
chẳng có phước đức nào sánh bằng được.
Qua lời khuyên đó thái tử liền hướng về chắp tay bạch với Đức Phật và
phát 25 lời thệ nguyện.Trong 25 lời thệ nguyện đó chúng ta thấy bao hàm ý
nghĩa với mục đích là lấy chúng sanh làm đối tượng hóa độ, lấy sự viên mãn
những công hạnh cầu trí tuệ Phật và quả vị Vô Thượng Bồ Đề. Hoặc còn gọi
là “Thành tựu chúng sanh, Tịnh Phật quốc độ” (nói theo kinh Duy Ma). Và
chính khi thái tử phát ra 25 thệ nguyện, Đức Phật Bảo Tạng đã khen ngợi
rằng: “Hay thay! Hay thay! Ngươi là đại trượng phu, trí tuệ sáng suốt, tỏ
biết mọi lẽ, phát nguyện rất lớn và rất khó khăn; làm những việc công đức
rất sâu rộng không thể nghĩ bàn. Chính ngươi là bậc đại trí tuệ nhiệm mầu,
mới làm đặng mọi việc như vậy”. Rồi Đức Phật Bảo Tạng đã đặt hiệu cho thái
tử là Văn Thù Sư Lợi. Sau vô lượng hằng sa kiếp sẽ thành Phật hiệu là Phổ
Hiện Như Lai (còn gọi là phổ kiến) làm bậc đạo sư ở thế giới thanh tịnh vô
cấu bảo chân thuộc phương Nam. (muốn đọc 25 lời thệ nguyện Văn Thù hãy tìm
sự tích các đức Phật và Bồ Tát trong tạp chí Phật học Từ Bi Aâm tập
200-204).
Bên cạnh đó, còn có truyền thuyết cho rằng: “Bồ Tát Văn Thù là một vị cổ
Phật, thành Phật đã vô số kiếp. Về qúa khứ, Ngài là Phật Long Chưởng
thượng tôn vương Như Lai”. Song hiện tại sở dĩ Ngài hóa thân thành một vị
Bồ tát là vì phương tiện tùy cơ ứng hóa, cứu độ chúng sanh, hộ trợ đức
Phật Thích Ca Mâu Ni truyền bá chánh pháp. Như thế, đủ thấy Bồ Tát Văn Thù
là vị đã đạt đến cảnh giới ứng thân vô ngại. Hay nói cách khác, từ phẩm
tính và trí tuệ siêu việt đã đẩy nhân cách Văn Thù Sư Lợi lên bậc mô phạm
về trí tuệ, liễu đạt pháp. Do đó, trong hàng Bồ Tát Ngài luôn là bậc
thượng thủ không những hướng dẫn nhận thức của Bồ Tát mà còn giúp các vị A
La Hán và chúng sanh phàm phu thể nhập thực tại tuyệt đối siêu việt của
tất cả pháp.
c/ Hình ảnh biểu trưng
Trong Phật giáo, nhất là Phật Giáo Đại thừa, những nhân vật và hình tượng,
ngoài ý nghĩa lịch sử, truyền thuyết, nó còn mang tư tưởng triết học, ẩn
dụ và biểu trưng. Người học Phật chúng ta nếu không nắm bắt được tinh thần
này, thì chắc chắn sự nhận thức sẽ dễ rơi vào định kiến, cực đoan và bị
các quan niệm tôn giáo hữu thần đồng hóa. Ở đây Bồ tát Văn Thù ngồi trên
con sư tử xanh đều có những tính cách ẩn dụ và biểu trưng. Thế thì, Bồ tát
Văn Thù Sư Lợi là biểu trưng cho ý nghĩa gì ? Căn cứ vào sự luận giải của
các vị cổ đức, chúng ta thấy rằng: Bồ tát Văn Thù là tiêu biểu cho căn bản
trí hay nói cách khác là biểu thị cho trí, tuệ, tâm chứng. Căn bản trí là
trí tuẹâ nhận thức các pháp, thấy được tính bình đẳng không hai, chứng đắc
thật tướng. Lại nữa, tay cầm kiếm là tượng trưng cho trí tuệ sắc bén. Hình
ảnh con sư tử xanh là biểu thị cho uy lực của trí tuệ. Vì con sư tử xanh
là loài thú chúa ở rừng xanh, có sức mạnh và uy lực hơn tất cả các loài
thú khác. Cho nên, lấy con sư tử để biểu trưng cho năng lực vô cùng của
trí tuệ. Đó cũng là trí của Phật. Bồ tát Văn Thù nhờ trí này nên đã chuyển
hóa những vô minh, phiền não, những ý niệm chấp ngã, pháp trở về vô lậu và
chứng chân thật tính.
Điều này được chứng minh qua kinh Thủ Lăng Nghiêm, như khi Ngài A Nan bị
Ma Đăng Già, đức Phật đã bảo Bồ tát Văn Thù đem thần chú đến để cứu giải.
Ở đây chúng ta thấy tại sao đức Phật không sai vị Bồ Tát khác mà lại bảo
Bồ tát Văn Thù. Trên cơ sở đó chỉ có ý nghĩa đơn giản là nhờ trí tuệ siêu
việt của Bồ tát Văn Thù mới có khả năng chuyển hóa được tất cả những tâm
lý mê lầm lúc ấy của ngài A Nan.
Hơn nữa, trong kinh Pháp Hoa, khi đức Phật Thích Ca Mâu Ni hiện thần biến
tướng để thuyết giảng diệu pháp, thì chính Bồ tát Di Lặc cũng phải hỏi Bồ
tát Văn Thù về ý nghĩa này. Do đó, chỉ có đại trí mới thấu suốt được sự
diễn bày của đức Phật. Và để chứng minh thêm về năng lực nhận thức của trí
tuệ qua kinh Duy Ma Cật. Đó là khi Bồ tát Văn Thù đến thăm bệnh, Duy Ma
Cật chào rằng: “Qúy hóa thay ! Ngài Văn Thù Sư Lợi mới đến, tướng không
đến mà đến, tướng không thấy mà thấy”. Ngài Văn Thù Sư Lợi nói: “Phải đấy
cư sĩ ! Nếu đã đến tức là không đến, nếu đã đi tức là không đi. Vì sao ?
Đến không từ đâu đến, đi không đi về đâu, hễ có thấy tức là không thấy”.
Qua sự đối đáp đó, các Ngài đã thể hiện dạng ngôn ngữ vượt ngoài phạm trù,
tư biện. Và với những bậc đại sĩ bao giờ cũng hiểu lòng nhau. Ở đây, xa
hơn thế nữa là Bồ Tát Văn Thù đã đồng cảm với cư sĩ Duy Ma Cật trên cái
nhìn toàn diện về bản thể chân thật của thân tâm và thế giới hiện tượng.
Sự nhận thức như vậy, tất nhiên phải vượt lên trên mọi trú chấp về ngã và
hữu ngã, cũng như mọi phạm trù tư duy thường và đoạn kiến. Còn đối với
nhận thức của kẻ phàm phu tiểu trí như chúng ta chắc chắn sẽ khó hiểu được
diệu nghĩa ấy.
II. Ý nghĩa giáo dục và chuyển hóa
Ở đây, trên tinh thần giáo dục và chuyển hóa, chân dung và phẩm tính của
Bồ Tát Văn Thù đã trở thành bài học ứng dụng trong đời sống thực tiễn. Thế
nên, tư cách của Bồ tát Văn Thù thường có ý nghĩa khai thị và thức tỉnh
cho tất cả chúng sanh. Tuy nhiên, nếu đặt vấn đề khai thị của Bồ tát Văn
Thù, thì lẽ đương nhiên phải khẳng định rằng: tất cả chúng ta đều có đầy
đủ căn bản trí, đầy đủ trí, tụê, chứng. Nhưng căn bản trí hay trí, tụê,
chứng đó sở dĩ không phát huy hết công dụng là vì chúng ta không chịu nội
tỉnh, không chịu trở về nhận ra kho tàng trí tụê của chính mình. Khi hành
giả nhận ra kho tàng trí tuệ tức là nhận ra đức tính Văn Thù ở chính tự
tâm, nhận ra được niệm tỉnh sáng của bản giác tự tại vô ngại. Thế nên,
đồng là căn bản trí, đồng là trí, tuệ, chứng nhưng Bồ tát Văn Thù đã thắp
sáng và thể hiện đến tận cùng, còn ngược lại chúng ta thì vẫn cứ nằm trong
vô minh, phiền não, khổ đau.
a/. Sự chuyển hóa của tự thân
Kinh Đại Bát Niết Bàn, đức Phật dạy: “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là
Phật sẽ thành”. Trong khi đó “con người là một sinh vật ưu việt hơn hết,
có khả năng xây dựng mọi điều tốt đẹp cho mình và chúng sanh” (Kinh Hoa
Nghiêm). Người tín đồ tu theo Phật giáo, lý tưởng và mục đích chính là tự
xây dựng mình thành một đức Phật. Nhưng trong lộ trình tu tập để thành một
vị Bồ Tát, thành một đức Phật, đòi hỏi tự thân hành giả phải nỗ lực giữ
gìn tịnh giới, thực tập thiền định và quán chiếu, thấy được các pháp là
huyễn hóa, giả danh, không thật, bình đẳng để thể nhập vào thực tại tuyệt
đối. Và hành giả nhờ có định và quán sâu nên trí tuẹâ từng bước phát huy,
đến một mức độ nào đó sẽ đạt đến nhận thức của căn bản trí. Chính nhận
thức này sẽ tự chuyển hóa tất cả những vô minh, giận dữ, phiền não, ái
dục, kiến chấp trở về với sáng suốt, bình đẳng và thanh tịnh. Con người
lúc này không còn trú chấp trên ý niệm tôi và của tôi, đạt đến nấc thang
giác ngộ và giải thoát hoàn toàn ngay trong đời sống hiện tại.
Từ đó, chúng ta thấy rằng, một hành giả nếu tu tập tương lai cũng sẽ là
một Bồ tát Văn Thù. Hay nói cách khác, người tu hành khi đã thắp sáng căn
bản trí thì tự họ có thể nghiễm nhiên trở thành hóa thân của Văn Thù. Ý
nghĩa này mở ra cho chúng ta thấy có vô lượng Văn Thù hóa thân và mọi hành
giả đều có khả năng đóng vai trò như thế. Tuy nhiên, điều quan trọng ở
đây, là sự nỗ lực của hành giả có chuyển hóa và phát huy trí tuệ đạt đến
như Bồ Tát Văn Thù hay không?
Trên tinh thần này, mặc dù sự hóa thân là hình ảnh lý tưởng nhưng đó là
kim chỉ nam để mọi người tu chúng ta tự mình xây dựng tư cách và phẩm tính
trong đời sống thực tiển của tự thân. Điều này, không những hàng tín đồ
Phật giáo thực hiện được mà ngay cả những người không theo Phật giáo vẫn
có khả năng hướng đến. Nếu nói trí tụê ở cấp độ phàm phu là giúp con người
tiếp cận mặt tri thức kinh nghiệm, phân tích các khái niệm về tâm sinh lý
và sự vật hiện tượng thì ngược lại căn bản trí đưa con người tiếp cận ngay
bản thể của tri thức. Khi một người đã thể nhập được bản thể cũng tức là
đã giải thoát mọi đau khổ. Vì vậy, chỉ cần có căn bản trí, người ấy sẽ
nhận thức đúng, sẽ có một đời sống sinh động, đủ khả năng làm chủ chính
mình. Có thể nói đời sống kia đã đạt đến an lạc và giải thoát, đồng thời
luôn hy sinh và đem tình thương đến với cuộc đời, đến với chúng sinh đang
sợ hãi; khủng hoảng, bất an, giúp cho tất cả đều an lạc và hạnh phúc.
Sự hóa thân như thế dĩ nhiên sẽ đem đến cuộc đời bằng sự sống an lành, nụ
cười vui, niềm tin và hy vọng, chứ không phải như là hình ảnh đàn áp,
khủng bố, oán thù đang diễn ra trong xã hội đầy biến đổi bất an như hiện
nay.
b/ Xây dựng đời sống xã hội
Thuật ngữ xã hội là một khái niệm chỉ cho một nhóm người, một tổ chức, tập
thể, cộng đồng đang sinh sống với nhau. Phật giáo chủ trương xây dựng xã
hội là xây dựng từ con người. Điều đó, xác định với chúng ta rằng, con
người tốt đẹp xã hội sẽ tốt đẹp. Hay nói cách khác, con người là những
thành viên của xã hội, nên khi cá nhân có trí tuệ, đạo đức, có sự an bình,
tự do thì tất nhiên xã hội cũng sẽ thịnh vượng và phát triển.
Sự thắp sáng căn bản trí trong đời sống, mọi cá nhân sẽ tự nhận ra mình là
một nhân tố tương quan cấu thành xã hội. Những nhận thức đạt đến trạng
thái tâm bình đẳng vô nhị, hành động và lời nói chúng ta sẽ không còn phân
hóa, chia rẽ mà thể hiện đời sống bao dung, vị tha. Bởi, chính mọi người
luôn có trí Văn Thù nên tự nhận ra mình đang hiện hữu trong tất cả, tất cả
đang hiện hữu trên tự thân của mình.
Khi Bồ tát Văn Thù Sư Lợi là hình ảnh biểu thị cho bậc đại trí, vị đã thấu
suốt được chân tánh của các pháp, đã thiết lập được đời sống tịnh lạc và
giải thoát cho tự thân, thì hành giả chúng ta phải tự trở về hoàn thiện
chính mình để đạt được đời sống đó. Bởi vì, sự nhận thức của phàm phu, ý
thức đời sống văn hóa, giáo dục và xã hội hoàn toàn bị phóng thể, ích kỷ,
chia rẽ và khát dục. Chính điều đó đã tác động xã hội làm cho đời sống xã
hội nảy sinh ra những tâm lý phiền muộn, lo âu, sợ hải, bất an; những hình
thái giết hại, trộm cắp, gây rối, nghiện ngập chất say v.v… và dường như
một số thành phần xã hội đang lâm vào trạng huống như thế.
Để xây dựng một xã hội ổn định và phát triển, hơn bao giờ hết tất cả chúng
ta phải tự hóa thân mình thành những vị Bồ Tát Văn Thù để dẫn đạo tình
thương, trí tuệ làm cho xã hội hướng đến đời sống an lạc và hạnh phúc. Đây
không phải là sự kêu gọi cho lý tưởng mà mục đích là thực tiễn hóa đời
sống. Nếu con người đã hóa thân được như vậy, sẽ đem lại phúc lạc cho xã
hội hiện tại và tương lai biết bao nhiêu!
III. Góc độ siêu hình
Nói đến siêu hình là chỉ cho những điều gì đó thuộc khái niệm trừu tượng,
khó thấy, khó nhận thức. Ở đây, dưới lăng kính siêu hình chúng ta thấy có
3 khía cạnh nhận thức về Bồ tát Văn Thù.
a/ Vai trò nhận thức của trí tuệâ
Trong lộ trình tu tập của Bồ tát và chúng
sanh phàm phu, đều coi trí tụê là điều kiện dẫn đạo tình thương và các
pháp lành, vì trí tụê này vượt ngoài mọi nhận thức hữu hạn, đóng khung. Do
đó, căn bản trí của Bồ tát Văn Thù cũng tức là phẩm tính của bậc đã giác
ngộ hoàn toàn như đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Sự khác nhau ở tên gọi hay
công dụng của căn bản trí chỉ là do y cứ trên cơ sở đã phát huy hay còn ẩn
tàng trong vô minh mà thôi. Vì thế, nếu nói đức Phật và Bồ tát Văn Thù đã
viên mãn về căn bản trí thì chúng sanh phàm phu dù chưa đạt được nhưng vẫn
có khả năng vươn tới. Điều đó xác định tính nhân bản và giá trị loài người
ưu việt hơn tất cả các loài vật khác.
b/ Phương diện lý tưởng
Như chúng ta đã biết, Phật giáo vốn là đạo lý vô thần, đạo của trí tuệ và
tình thương chân thật. Nếu các tôn giáo tôn thờ, nương tựa vào các hình
tượng, các vị thánh của họ là để cầu được ban ân, cứu rỗi khi còn sống
cũng như sau khi chết thì trái lại Phật giáo coi hình tượng Bồ Tát Văn Thù
chỉ là hình ảnh để phát khởi niềm tin và phát khởi sự nỗ lực tu học cho tự
thân mọi tín đồ. Do đó, sự nương tựa, tôn kính phát xuất từ tinh thần sùng
mộ về trí tuệ và đức hạnh, trong đó bao hàm cả ý nghĩa noi gương, sống
theo. Đây là tinh thần thánh hóa, Phật hóa đời sống tự thân của mọi người,
hoàn toàn vắng mặt mọi chủ nghĩa thần linh, giáo điều.
c/ Thuần tín ngưỡng
Nếu trọng tâm của sự thờ cúng Phật giáo là
hoàn toàn đặt trọng tâm trên cơ sở lý tưởng, thì một số tín đồ lại biến sự
thờ phụng đó thành chủ nghĩa thần linh. Có nghĩa là họ coi Bồ tát Văn Thù
như một vị thần, thánh có nhiều quyền lực ban những gì họ cần. Quan niệm
này rất gần với những nhận thức của các tôn giáo hữu thần. Trong khi dó,
hạnh phúc hay khổ đau chính do tự mỗi người quyết định chứ không phải thần
linh. Sự thờ cúng nếu chỉ đặt trên ý tưởng và niềm tin mù quáng thì chính
họ đã rơi vào tà kiến. Tu theo Phật nhưng lại hành nhân tà thì làm sao
thành Phật ? Điều đó không khác nào kinh Lăng Nghiêm diễn tả: “Nấu cát mà
mong thành cơm”. Tuy nhiên, việc thờ cúng, lễ lạy và sống theo các điều
lành thì cũng có những lợi ích nhất định. Vì các kinh nguyên thủy cũng như
Đại thừa đều cho rằng: các thiện thần đều luôn theo ủng hộ những người tu
hành, biết hướng tâm đến điều thiện, biết gạn lọc tâm ý và tu tập 3 môn:
giới, định, tụê. Thế nhưng không khéo chúng ta rơi vào tà kiến, chẳng
những không an lạc, giải thoát mà còn làm mất dần các pháp lành. Thế nên,
có những Phật tử đi chùa đã Quy Y Tam Bảo và thọ trì 5 giới cấm với thời
gian gần 20 năm, nhưng vẫn than rằng tại sao đời sống của tôi vẫn không an
lạc ! Nhưng nhận thức đã rơi vào vô minh, hành động bị nô lệ bởi dục vọng,
suốt ngày chỉ cầu thần thánh cứu giúp , khi đó đời sống tự thân chỉ làm
các điều ác thì thử hỏi làm sao có kết quả an lạc và hạnh phúc được ?
Chính điều họ làm đã đi ngược với tinh thần Phật giáo. Vì trong Khế kinh
đức Phật dạy: “Như Lai là vị đạo sư dẫn đường, là vị thầy cho thuốc, chúng
sanh đi theo hướng Như Lai chỉ, uống thuốc Như Lai trao thì sẽ hết khổ
đau, sẽ đạt được an lạc và giải thoát”. Vì vậy, việc cầu tha lực (cầu Bồ
Tát Văn Thù gia hộ) đi đôi với tự lực (hướng về bản giác) sẽ có kết quả
hơn là chỉ biết vái lạy thánh thần mà tâm thì lại không tin nghiệp báo,
nhân quả.
IV.Nhận định
1.
Tích cực
Khi hình ảnh Bồ tát Văn Thù đã trở thành lý tưởng cho sự hướng đến của
nhận thức toàn diện và siêu việt, cũng tức là đặt vị trí con người trong
vai trò quyết định kết quả của sự an lạc, giải thoát hay khổ đau. Nói một
cách khác, hành giả có quyền xây dựng đời sống chính mình bằng tự lực tu
tập. Ở đây Bồ tát Văn Thù là tấm gương sáng trên con đường học hạnh và
chuyển hóa tự thân. Khi nhận thức theo ý nghĩa này, chúng ta chỉ cần trong
đời sống hằng niệm tỉnh giác, là chân trí đó sẽ bừng sáng như đức Văn Thù.
Từ đó, cũng là người, nhưng đủ khả năng hóa thân làm lợi ích cho chúng
sanh, cuộc đời.
2.
Tiêu cực
Ngượi lại, nếu những quan niệm chúng ta chỉ
rơi vào ý nghĩa đức tin, sùng kính, coi Bồ tát Văn Thù là đấng thiêng
liêng để cầu nguyện van xin, còn đời sống lại tạo ra hành động và lời nói
gây đau khổ lầm than cho mọi loài, thì tự thân không những phải gánh lấy
hậu quả đau khổ, bất an, sợ hãi lại còn chẳng bao giờ đạt được an lạc và
hạnh phúc. Chính vì thế, niềm tin thuần là tín ngưỡng chỉ đem lại sự an ổn
tạm thời ở mặt tâm lý, nhưng về lâu dài, sự khổ đau sẽ kết nối dần ra và
nhân lên, tâm lý ta sẽ bị ý thức thần linh khống chế, đánh đổ. Sống theo
ảo tưởng, rong ruổi theo những điều huyền hoặc là đời sống khởi đầu cho
những ý thức tha hóa, cuồng loạn, lường gạt chính mình, liên lụy đến
người.
C.KẾT LUẬN
Tư cách và sự biểu thị của Bồ tát Văn Thù là hình ảnh lý tưởng trong Phật
giáo. Người tu hành phải tự mình trở về bản giác để phát huy những khả
năng trí tuệ vốn có. Đó là sự thắp sáng trí tuệ chân thật trong suy nghĩ,
lời nói và hành động. Bởi vì, mọi hành giả đều có đầy đủ căn bản trí như
Bồ tát Văn Thù, có năng lực thiết lập nguồn sống tịnh lạc và giải thoát
cho tự thân và chúng sanh. Điều này cũng đồng nghĩa là mọi hành giả tu tập
tương lai sẽ là hóa thân của Văn Thù để dẫn đạo tình yêu và lý tưởng đạt
đến thánh thiện.
Nếu chúng ta sống với trí tuệ từ bi như thế, bất cứ xã hội nào cũng sẽ rất
cần. Vì chúng ta đi vào cuộc đời là để trao truyền bức thông điệp “hiểu
biết và tình thương”, thực hiện lý tưởng bình đẳng trong đời sống giữa
người với người, giữa người với đời sống xã hội.
Và chỉ khi nào người Phật tử thể hiện được điều đó thì Phật giáo đồ mới
xây dựng được niềm tin, hy vọng và nguồn an lạc cho mọi người./.
---o0o---
[Mục Lục ][
01][
02][
03][
04][
05][
06][
07][
08][
09][10]
[11][12][13][14][15][16][17][18][19]
---o0o---
Source: www.chuyenphapluan.com
Trình bày: Linh Thoại
Cập nhật: 01-2-2005