Ý nghĩa
Vía Phật -
Bồ Tát trong năm
---o0o---
ĐỊA TẠNG BỒ
TÁT
Thích Nguyên Bình
A. DẪN NHẬP
Bồ tát Địa Tạng là vị Bồ tát gần gũi quen thuộc với
chúng sanh qua lời thệ nguyện : “Địa Ngụïc chưa không thề chẳng thành
Phật, chúng sanh chưa độ tận thề không chứng quả Bồ đề”. Với đại nguyện
thậm thâm ấy, Bồ tát thường tuỳ duyên ứng hiện vào cõi Ta Bà hoá độ chúng
sanh bằng vô số hình tướng nhân duyên mà chúng sanh không hề hay biết.
Phần đông, người Phật tử biết đến Ngài qua hình tướng một vị Tỳ kheo tay
cầm minh châu, tay cầm tích trượng, đầu đội mão Tỳ Lô quán đảnh đứng hoặc
ngồi trên con Đề Thính, dắt chúng mê tình thoát chốn u đồ, đưa người tỉnh
giác về nơi bảo sở. Thế nhưng ! Địa Tạng Bồ tát là con người có thật hay
huyền thoại ? Là Bồ tát hiện thực giữa cuộc đời hay hạnh nguyện tiêu biểu
mà đức Phật nêu lên cho chúng ta y theo đó tu tiến mà viên thành Bồ Tát
đạo ?
B. NỘI DUNG
Theo phẩm Tự kinh “Đại phương quảng thập luân” và
“Chiêm sát Thiện ác nghiệp báo” quyển thượng, Bồ tát Địa Tạng thương xót
tất cả chúng sanh chịu khổ trong đời ác ngũ trược nên thị hiện vô số thân
trong ba ác đạo để giáo hoá giúp họ tiêu tai tăng phước và thành tựu thiện
căn lành, theo kinh Địa Tạng, Ngài được Đức Thế tôn phó chúc cứu độ các
chúng sanh sau khi Thích Tôn diệt độ cho đến khi Di Lặc Thành Phật, Kinh
Địa Tạng cho biết ; BồTát Địa Tạng đã viên mãn Bồ Tát Đạo từ lâu, nhưng vì
thệ nguyện cứu tế chúng sanh trong ba cõi, cho nên, Ngài chưa chịu thành
Phật. Có thể nói ! nơi nào có khổ đau thì nơi đó có mặt của Bồ tát. Đứng
trên lý thì Địa chỉ cho đất tâm thanh tịnh (Chơn Tâm) hàm chứa tất cả công
đức, hay Như Lai tâm hàm tàng đủ nhiễm tịnh. Khi nhiễm là có tất cả chủng
tử thiện ác nghiệp báo tập khí .Tịnh thì gồm thâu tất cả công đức tạng vô
biên phước báo, trí huệ, tam muội biện tài. Chúng sanh ai cũng có sẵn kho
tàng trân bảo vô giá nầy! nhưng không biết ứng dụng, cứ theo vọng nghiệp,
lẩn lộn trong sáu nẻo luân hồi.
Bài tựa Kinh Địa Tạng nói: “Địa là dầy chắc, tạng
chứa đủ.” rõ ràng là chỉ cho chơn tâm hay Phật tánh của chính mình.
Kinh Địa Tạng Thập Luân nói : “An nhẫn bất động giống như Đại địa, vắng
lặng sâu kín giống như cái kho nên gọi là Địa Tạng.” Kinh Phương Quảng
Thập Luân ví dụ : Địa Tạng là kho báu dấu kín trong lòng đất !
Bồ Tát Địa Tạng là người rõ biết tự tâm xưa nay hằng
thanh tịnh không có mê ngộ và chơn vọng tròn đủ tất cả các công đức khi
mê thì bị nghiệp kéo lôi, khi tỉnh giác đủ muôn công đức diệu pháp hiện
tiền. ai ai cũng sẵn đủ nó. Thế nhưng ! xưa nay quen theo vọng nghiệp nên
Phật Tánh hay chơn tâm ẩn khuất trong dòng vọng thức sanh diệt vì không
hay không biết mình có Phật tánh nên không ứng dụng được nguồn tâm. Hình
ảnh nầy được Kinh Pháp Hoa ẩn dụ cho cùng tử lang thang ôm châu đi làm
thuê mướn, nào hay mình sẵn có Như Ý Bảo Châu có thể mặc tình ứng dụng.
Vì thế, Bồ Tát Địa Tạng hiện thân trong cõi Ta Bà
với hình tướng Tỳ Kheo, cởi con đề thính, (hoặc đứng trên toà sen)
tay cầm tích trượng, tay cầm bảo minh châu vô giá, đầu đội mãoTỳ Lô quán
đảnh.
Theo truyền thuyết ! Đề thính là con linh thú, khi
mọp xuống trong giây lát thì biết rõ tất cả sự việc trong trời đất. Thế
nhưng, thú nầy hình như chưa thật sự hiện hữu tại nhơn gian bao giờ. Lại
nữa ! Tại sao Bồ Tát lại cởi thú, mất đi lòng từ bi bình đẳng, làm sao có
thể hành bồ tát hạnh, đem từ bi hỷ xã ban rải cho nhơn sanh. Thật ra, cỡi
thú là tiêu biểu cho người đã tự chứng ngộ hay nhiếp phục được tâm mình.
Chúng sanh bị vọng tâm hay thú tánh vật dục sai khiến bức bách. Bồ tát cởi
linh thú Đề Thính là ngụ ý cho người đã nhiếp tâm thanh tịnh, an lập các
thức thành tựu thiền định. Cho nên, tâm linh thông thấu suốt vạn pháp. Bởi
vì tất cả pháp quy tâm, tâm nhiểm sanh ra muôn pháp thế gian nhiễm ô. Tâm
thanh tịnh thì sanh ra tất cả pháp thanh tịnh thù thắng. Đó là huyền
nghĩa Địa Tạng cỡi Đề thính ! điều nầy không khác Văn Thù cởi sư tử tiêu
biểu cho trí huệ thù thắng dõng mảnh, giáo hoá người không chướng ngại,
hay Phổ Hiền cỡi bạch tượng sáu ngà. là Trí huệ hạnh đức tròn đủ, hành
lụïc độ …. Như vậy, Bồ tát Địa Tạng cỡi Đề Thính là Bậc đã hiện bày được
Căn bản Trí, tâm thanh tịnh hiện tiền, không còn gợn bóng vọng trần. Nên
nghe được tất cả âm thanh khổ đau trong địa ngụïc mà phát tâm cứu tế như
lời phó chúc trong kinh Địa Tạng của Đức Thích Ca Mưu Ni: “Nếu có chúng
sanh nào sắp đoạ địa ngục khi vừa đến cửa ngục có thể niệm một danh hiệu
Phật hay Bồ tát , thời Ôâng nên dùng thần lực phá tan địa ngục ấy chớ để
cho họ ở trong địa ngục một phút giây nào cả. Huống là để cho họ phải chịu
khổ đau trong ngàn muôn ức kiếp ?”.
Đứng về huyền nghĩa, người tu hành phải thường hằng
sống với thanh tịnh tâm . Tuy vẫn mang thân tướng phàm tụïc như bao chúng
sanh khác nhưng tâm hình khác tục, thường hằng phản quan tự kỹ, rõ biết
từng tâm niệm của chính mình, thế nào là thiện ác chơn vọng. Chúng sanh mê
nên không rõ bổn tâm của mình cùng Phật không sai khác, mãi theo vọng
nghiệp luống chịu luân hồi. Cho nên, hiện tại nhân xấu quả ác làm tâm ta
khổ đau. Vị lai vào ba ác đạo chịu khổ không cùng. người tu phải đế thính,
lắng nghe từng niệm khởi của tự tâm. khi tâm thanh tịnh sáng suốt, có thể
thấy nghe khắp mười phương thế giới mà không chạy theo vọng trần không tạo
ác duyên. Đó là phá tan địa ngục, cứu độ tất cả chúng sanh. Vì mỗi niệm là
một chúng sanh. chỗ nầy không một niệm khởi hiện cùng với ý Phật dạy trong
kinh Kim cang “Độ tất cả chúng sanh vào Vô Dư Niết Bàn mà không có chúng
sanh nào được độ”.
Hình ảnh Địa Tạng Bồ tát đầu đội mão Tỳ Lô thân tướng
xuất gia trang nghiêm tay cầm tích trượng minh châu là ngụ ý bậc Đại Bồ
tát đã diệu dụng được chơn tâm, do trí căn bản đã hiện bày. Tỳ Lô giá na
tức Đức Đại Nhật Như Lai hay Phổ Quang Minh Trí ( Kinh Hoa Nghiêm ). Như
vậy, căn cứ vào huyền nghĩa biểu trưng chỉ có Bồ tát từ Thập Địa trở lên,
bậc đã Ứng dụng được Trí Định hay Trí Ba La Mật (Căn Bản và Sai Biệt trí
hiệp nhất ) làm lợi lạc chúng sanh mới thật sự là người xứng đáng đội mão
Tỳ Lô Quán Đảnh. Ngày nay, người hành nghi lễ đội mão nầy không rõ nguồn
tâm, không ứng dụng được trí, kẹt trong danh tứơng, thì đi vào mê tín, chớ
không thể làm lợi lạc tha nhân. Chúng sanh ai cũng sẵn có Căn bản trí, hay
Chơn tâm Phật tánh, nếu y theo đây tu hành, việc thành Bồ Tát hay Phật
nào có xa vời.
Gậy báu là tiêu biểu cho Phương Tiện Trí ứng dụng vào
đời phá tan Địa ngục . Người mê thường tự tạo địa ngục nhân cho mình mà
không tự biết. Thí dụ : hằng ngày trong gia đình có việc bất hòa chửi mắng
ấu đả nhau đó là nhân A Tu La. Hoặc có người mắng con mình là quân đầu
trâu mặt ngựa, quỷ sứ v..v… đánh đập mắng nhíếc mà không biết chỉ dạy
giáo huấn chúng tường tận. Rõ ràng là chúng ta đang tạo cảnh địa ngục
ngay tại tư gia. Người thường không rõ cho địa ngục là cảnh giới ở tận
đâu đâu trong lòng đất. Kẻ tà kiến si mê chấùp là không có địa ngục, nào
hay nó ở ngay trong mảnh đất tâm ta! Trong Kinh Hoa Nghiêm, Phật dạy : “Nên
quán tánh pháp giới, tất cả do tâm tạo” là chỗ nầy. Người Phật Tử tu
tâm cũng ngay đây tu hành. Ngài Địa Tạng cầm tích trượng và minh châu là
tiêu biểu hai trí viên dung (căn bản và sai biệt) khi ứng dụng trí vô
nhiễm không có mê lầm phiền não. Nghiệp không sanh cho nên nói là phá tan
địa ngục cứu toàn chúng sanh. Như bài tựa Kinh Địa Tạng nói : “Lòng từ do
chứa hạnh lành, trải bao kiếp số độ sanh khỏi nàn, trong tay đã sẵn gậy
vàng, dộng tan cửa ngục cứu toàn chúng sanh. Tay cầm châu sáng tròn vìn,
hào quang soi khắp ba ngàn đại thiên ..v..v..” Tay cầm tích trượng là nắm
vững pháp Phật, việc tự độ đã xong, lại nguyện độ sanh, cứu tế chúng sanh
bằng Phương Tiện, Nguỵện, Lực, Trí. (Theo kinh Hoa Nghiêm Ở Thất Địa Bồ
tát đã tu Phương Tiện Ba La Mật, Ở Bát địa bồ tát tu Nguyện, Cửu địa Bồ
tát tu Lực Thập địa tu Trí) tay cầm châu sáng là chỉ cho chơn tâm
thường thanh tịnh .
Chúng sanh ai cũng sẵn có Phật tánh sáng suốt thường
hằng như lời cổ đức nói:
“Không sanh không diệt
xưa nay chơn,
Ai hay Phật tánh phóng
hào quang.
Phàm phu sống uổng ngàn
đời trước,
Lẩn lộn bùn nhơ chẳng
xuất trần.”
Người người tự sẵn đủ bảo châu nhưng nào ai rõ biết
và ứng dụng nó làm lợi lạc tự thân và tất cả sanh chúng. Địa Tạng Bồ tát
rõ biết và ứng dụng được tâm nầy. Vậy Địa Tạng là ai ? trên lịch sử, Bồ
tát Địa Tạng chưa hề có mặt vào thời Phật tại thế chỉ xuất hiện trong các
kinh giáo Đại Thừa qua lời dạy Đức Thế Tôn , Như vậy, đây chỉ là lý tưởng
Bồ Tát như Văn thù Phổ hiền Quan Âm…. hoặc cũng có thể, do hạnh nguyện cửu
trụ u đồ với thệ nguyện sắt đá, .nên Bồ tát không xuất hiệân tại nhân
gian, mà ở các cảnh giới ác đạo, chỉ khi nhân duyên hội đủ, nói hạnh mầu
tuyên dương chánh pháp như khi Phật nói kinh Địa Tạng tại cõi trời Đao
Lợi, Bồ tát mới hiện thân minh chứng. Bởi vì ! Địa Tạng chính là Chơn Tâm
hay Như Lai ẩn khuất hàm tàng trong dòng thức tâm sanh diệt. Ai rõ suốt
nguồn tâm, ứng dụng được diệu trí, độ tận chúng sanh tâm của mình và có
thệ nguyện lớn làm an lạc tất cả chúng sanh giới, người đó là Địa Tạng.
Theo tinh thần Đại Thừa, Ngài Địa Tạng Bồ tát vừa là huyền nghĩa cho diệu
pháp tu hành, mà cũng là con người hiện thực như bao nhiêu vị Bồ Tát khác.
Điển hình như hạnh Quán Âm, nếu không có Công Chúa Diệu Thiện và Thị Kính
là những người hiện hạnh tu hành thì mọi người sẽ cho đây chỉ là pháp tu
về Nhĩ căn viên thông hay lý tưởng Bồ Tát. Chính nhờ sự hiện thân hành đạo
mà hạnh mầu Bồ Tát được toả sáng khắp nơi trong tâm khảm quần chúng.
1. Nhân hạnh quá khứ qua kinh giáo
Theo kinh Địa Tạng, Tiền thân của Ngài Địa Tạng là
một vị trưởng giả tử, vì muốn được thân tướng trang nghiêm tốt đẹp như Chư
Phật nên thệ nguyện độ tất cả chúng sanh bị khốn khổ. Trên quá trình tu
hành Bồ Tát Đạo đó, vì thấy chúng sanh mê lầm trầm luân trong sanh tử
khổ, trong lúc họ tự sẵn có đức tướng thanh tịnh của Như Lai mà không biết
ứng dụng nên Ngài phát thệ độ tận tất cả chúng sanh. Bởi vì ! trong mắt
thanh tịnh của Bồ tát, tất cả chúng sanh là bà con quyến thuộc cha mẹ anh
em của nhau của từ vô lượng kiếp đến nay, vì mê lầm không nhận biết, lại
bức bách tổn hại nhau, Có kiếp Ngài là Bà La Môn Nữ cứu mẹ, có lúùc ngài
là Quang Mục Nữ lập nguyện lớn cứu mẫu từ nên thệ độ tận chúng sanh giới.
Chỉ khi nào ! tất cả chúng sanh thành Phật đạo, lúc đó Ngài mới viên thành
thệ nguyện chứng bồ đề.
Như vậy, tiền thân Bồ Tát cũng như bao nhiêu người
khác, nhưng do Từ Bi, Trí Huệ phát đại tâm đại lực và thệ nguyện rộng sâu,
cho nên, Ngài trở thành Bồ Tát tế độ quần mê. Lẽ ra, Bồ Tát đã thành Phật
từ lâu nhưng do bổn nguyện sâu dày, nên hiện tướng Bồ Tát tế độ quần mê
không mệt mỏi.
2. Ứng tích hiện thân và kinh thờ
Tại Ấn Độ không thấy có tín ngưỡng Bồ tát Địa Tạng
riêng lẻ mà Ngài Địa Tạng được tôn thờ đứng đầu trong Địa Tạng viện thuộc
Thai tạng giới (Hiện tượng giới) mạn đà la với mật hiệu là Bi Nguyện Kim
Cang hay Đại Nguyện Kim Cang.Ngoài ra Bồ tát Kim Cang Tràng trong bốn vị
Bồ tát thân cận Đức Bảo Sanh Như Lai trong Kim Cang giới (Tâm thức
giới; Chơn tâm) Mạn Đà La được coi là đồng thể khác tên của ngài Địa
Tạng. Do chỉ được đề cập đến trong kinh giáo chứ không còn dấu tích được
phụng thờ tại Ấn Độ. Vì thế, các nhà nghiên cứu nghi ngờ Ngài chỉ là người
được hình tượng hoá trong giáo pháp Đại Thừa chứ không phải là người thật
trong lịch sử.
Tại Trung Hoa, Bồ tát Địa Tạng là một trong bốn vị
Đại Bồ Tát được quần chúng sùng tín phụng thờ bậc nhất. (Quán thế Âm Bồ
Tát tại Phổ Đà sơn, Văn thù Bồ Tát tại Ngũ Đài sơn, Đức Phổ hiền tại Nga
Mi Sơn). Tương truyền, núi Cửu Hoa Tỉnh An Huy Trung Hoa là nơi Bồ Tát Địa
Tạng ứng tích hiện thân hóa đạo tại núi nầy.
Theo Tống Cao tăng truyện quyển hai mươi, Bồ tát Địa
Tạng ứng tích giáng sanh vào dòng Vua nước Tân La họ Kim tên Kiều Giác,
sau khi xuất gia tu hành, Ngài đến Trung Hoa vào thời Đường Huyền Tông tu
hành và hoằng đạo tại núi Cửu Hoa rồi thị tịch tại đây. Nhục thân Ngài
không hư hoại được đặt trong tháp. Về sau, nơi đây phát triển thành một
đạo tràng thánh tích thờ Bồ tát Địa Tạng với hàng ngàn chùa chiền am
viện, nguy nga đồ sộ. Thế nhưng, trải qua bao thăng trầm chiến tranh lịch
sử và sự tàn phá của thời gian. Ngày nay, chẳng còn lại là bao. Thế nhưng,
những chùa tháp tại Cữu hoa sơn hiện còn đã chứng minh một thời kỳ cực
thịnh tại đây.
Ở Nhật Bản tín ngưỡng và phụng thờ ngài Địa Tạng Bồ
tát bắt đầu từ thời đại Bình An đến thời Liêm Thương thì cực thịnh mãi cho
đến ngày nay với các pháp hội Địa Tạng Giảng thiết trai cúng dường, ca
ngợi công đức của Ngài rộng lớn vô cùng.
Theo huyền sử, do lòng bi nguyện sâu dày, Bồ Tát Địa
Tạng hiện thân vua Diêm la ở địa ngục giáo hoá chúng sanh nên có tên khác
là U Minh Giáo Chủ, dưới ngài là Thập điện Diêm vương coi việc hành phạt
răn dạy kẻ tội đồ. Như vậy, theo ứng tích thì Ngài Kim Kiều Giác là người
hiện hạnh tu hành theo đại nguyện của Bồ tát Địa Tạng, nhờ công đức giáo
hoá của ngài và các vị thánh tăng mà núi Cửõu Hoa trở thành đạo tràng tu
hành và phụng thờ Địa Tạng Bồ tát. Người xưa thường bảo : “Nhơn năng hoằng
đạo, phi đạo hoằng nhơn ; Người hay hoằng truyền đạo, chứ đạo chẳng thể
tự hoằng truyền” nếu ngài Kim Kiều giác không tu hành xiển dương được
diệu đạo thì ngài Địa Tạng chẳng thể được quần chúng biết đến rộng sâu
kính thờ thâm tín tại Trung Hoa, Do đó, người xuất gia và Phật tử chúng ta
phải lưu ý điều nầy làm sao cho mạch đạo sáng soi, giáo hạnh nhất như
chiếu sáng là điều cần yếu.
3. Pháp tu theo Ngài Địa Tạng Bồ tát
Căn cứ vào kinh giáo, chúng ta thấy rõ nhân hạnh tu
hành của ngài Địa Tạng lúc đầu chỉ là mọât người bình thường như bao chúng
sanh khác. Thế nhưng, do hiếu hạnh sâu dày và lòng thâm tín Tam Bảo bằng
trí huệ vững chắc. Cho nên, lúc đầu lập thệ nguyện rộng sâu cứu mẹ hiền
lấy đó làm chánh nhân viên thành Phật đạo. Theo mười Ba la mật của Bồ tát,
Ngài Địa Tạng lúc đầu do tín tâm thanh tịnh và thệ nguyện sâu dày hành
đạo. Có thể nói khởi điểm tu nhân của Ngài từ Đại Nguyện. Nếu ngài
Mục kiền Liên được tôn xưng là đại hiếu, thỉnh Phật nói pháp Vu Lan Bồn độ
mẫu thân, nhờ sức mười phương hiền thánh tăng cứu mẹ hiền thoát chốn u đồ,
thì Bồ Tát Địa Tạng nhờ cúng dường Tam Bảo và sức niệm danh hiệu Phật cho
mẹ hiền thoát khổ nơi địa ngục, rõ chốn thác sanh tường tận. (Bà La Môn
nữ) khi là Quang Mục nữ , vì muốn cứu mẹ thoát khổ địa ngục vị lai cúng
dường vị La Hán và một lời nguyện dắt mẫu từ vào Bồ Đề đạo, nhập Bồ Tát
Hạnh . Qua đó! chúng ta thấy rõ muốn báo hiếu từ thân đâu có phải chỉ hành
pháp Vu Lan Bồn mới cứu được hai thân. Pháp Vu Lan thuộc về bố thí cúng
dường cho hiền thánh, là pháp đầu tiên trong mười ba la mật (Bố Thí ,
Trì giới, Nhẩn nhục, Tinh tấn, Thiền định,Trí huệ, Phương Tiện, Nguyện,
Lực, Trí.) Ngài Địa Tạng chỉ một lời đại nguyện cũng cứu được mẫu từ
.Như vậy, nếu người muốn báo hiếu từ thân thì hành Pháp nào trong Thập Độ
đều có thể cứu tế cửu huyền. Thế nhưng ,Giới, Nhẫn, Tấn, Thiền, Trí thì
chỉ có ai nhất tâm tu hành mới thọ trì được, còn bốn độ sau ; Phương Tiện,
Nguyện, Lực, Trí nếu không thệ nguyện lớn như Bồ Tát thì không sao hành
được. Bố thí cúng dường dể hơn cả vì nương vào tha lực của thập phương
hiền thánh tăng với tâm chí thành tha thiết của người con hay thân quyến,
nhưng cũng rất khó vì làm sao gặp thánh hiền tăng chứng minh siêu xuất
chốn u đồ. Thời nay dễ gì hội ngộ Thánh Hiền Tăng. Cho nên, hiếu tử nào
noi theo gương hạnh Địa Tạng Bồ Tát tu hành thì dù ở tại gia, cửu huyền
quyết định cũng siêu thoát khổ cảnh. Nếu thọ trì Kinh Địa Tạng cũng có thể
siêu giới ngoại, chẳng còn vương vấn nẻo u đồ. Theo kinh Địa Tạng, một
trong những nhân tu hành của ngài Địa Tạng là hai vị Vua tu Thập thiện,
nguyện cứu độ tất cả chúng sanh. Môt vị phát nguyện thành Phật là Nhất
Thiết Trí Thành Tựu Như Lai .Một vị nguyện nếu không trước độ chúng sanh
bị khốn khổ chứng thành Phật Đạo thì thệ không thành chánh giác, là Địa
Tạng Bồ Tát. Vua tu thập thiện là biểu trưng cho người rõ được Chơn tâm (
Tâm Vương ) trở về thể vắng lặng thanh tịnh, nhờ hành thập thiện (Giới ba
la mật), nguyện độ tận chúng sanh tâm (mỗiVọng niệm là một nhơn chúng
sanh) nên trí căn bản hiển lộ đó là Nhất Thiết Trí Thành Tựu Như
Lai lại phát nguyện độ tận chúng sanh giới, hành lợi tha nên gọi là
Địa Tạng. Tuy nói hai vua nhưng kỳ thật không hai. Mà đây là chỉ cho tự
lợi và lợi tha, hai hạnh phải tu viên mãn nhất như mới chứng thành Phật
đạo. Nếu không độ tận chúng sanh tâm vào Vô Dư Niết Bàn hay trở về niệm
vô sanh bất động thì Căn bản trí đâu thể hiển lộ. Độ tận chúng sanh tâm
hay chuyển tất cả tâm niệm phiền não thành bồ đề công đức trang nghiêm, đó
là Nhất Thiết Trí Thành Tựu Như Lai. Theo Hoa Nghiêm, chỗ này tương đồng
Lục Địa. Thế nhưng ! Nhất thiết trí hiện bày chưa phải là Phật, dừng ở đây
chỉ là Độc Giác nên phải tu Phương Tiện, Nguyện, Lực, Trí, độ tận chúng
sanh mới thành Phật đạo. Địa Tạng Bồ tát tu Nguyện Ba La Mật chỉ với một
lời thệ nguyện sắt đá. Nếu ngài Mục Kiền Liên thiết lễ cứu độ thân mẫu một
đời thì ngài Địa Tạng rõ biết tất cả chúng sanh xưa nay là cha mẹ quyến
thuộc thân bằng của nhau nên phát nguyện lớn : “Từ nay cho đến tận
thuở vị lai, tôi nguyện dùng tất cả phương chước để cứu tế tất cả chúng
sanh bị khổ não, lìa tất cả khổ,chứng đạo bồ đề, rồi tự thân tôi mới chứng
thành Phật đạo. Nếu một chúng sanh chưa thành Phật thì tôi chưa thể chứng
bồ đề”. Ngài Mục Kiền phải nhờ sức oai thần của mười phương Thánh Hiền
Tăng cứu mẹ hiền , nhưng Địa Tạng Bồ tát chỉ một lời nguyện thậm thâm đã
cứu mẫu từ vào Bồ Tát vị, thoát khỏi sáu nẻo luân hồi trong một kiếp.
Muốn thế phải lập thệ nguyện sâu dày, y Trí căn Bản mà tu. Kinh Địa Tạng
cũng ngầm chỉ rõ phải y Căn bản Trí tu hành qua lời Thế Tôn hỏi Văn Thù
Sư Lợi, mà Văn Thù chính là Căn Bản Trí hàm tàng đủ Lục độ. Y Căn bản trí
mà tu Đại Nguyện thì bồ đề đạo thọ mới trọn đầy.
Như vậy, để tu theo hạnh nguyện của Địa Tạng Bồ tát,
người tu phải:
- Rõ biết mình và tất cả chúng sanh sẵn có chơn tâm
thường trụ là Phật tánh thanh tịnh, hay Viên Giác Tánh tròn đầy, xưa nay
không thiếu cũng không dư.
- Độ tận tất cả chúng sanh tâm, là trở về chơn tâm
thanh tịnh của chính mình bằng cách tu Lục Độ cho chơn tâm hiển lộ
; Căn Bản Trí hiện.
- Khởi lòng Đại Bi lập đại nguyện cứu độ tất cả chúng
sanh giới vì rõ biết xưa nay tất cả chúng sanh là cha mẹ anh em thân bằng
quyến thuộc của nhau bằng cách tu Phương Tiện, Nguyện, Lực, Trí
hay Ma ha Bát nhã ba la mật, viên thành Sai Biệt Trí để từ đó
thành tựu Nhất Thiết Chủng Trí.
Đức Thế Tôn phó chúc cho Ngài Địa Tạng độ tận chúng
sanh từ nay cho đến khi Ngài Di Lặc thành Phật, hay mỗi người tu Phật phải
rõ bản tâm mình, y đấy tu hành, độ tận chúng sanh tâm thì mới có thể
chuyển thức thành trí viên thành đạo quả bồ đề.
Người thường, noi theo công hạnh thậm thâm của Ngài
kính lễ Bồ Tát để có phước báu, không đọa ác đạo, thường sanh trời người,
hưởng an lạc tối thắng hoặc thọ trì danh hiệu, được tất cả nguyện cầu đều
như ý. Thế nhưng, dễ lạc vào mê tín thần quyền và cũng không phải là sở
nguyện Bồ Tát ! Kính lễ thọ trì danh hiệu của Ngài với tâm chí thành cầu
gia bị chúng ta tu hành chứng quả Bồ Đề, có đủ ý chí và nguyện lực tu hành
đạo Bồ tát là điều thiết yếu mà Bồ tát muốn gia bị hộ trợ cho Ta. Trên lộ
trình ngộ nhập bản tâm, viên thành Phật đạo người tu phải tự mình nổ lực,
Thế nhưng, ở bước đầu tu tập và suốt lộ trình đi nếu không có thần lực
minh gia thì ít người thành tựu. Lại nữa, nếu rõ Địa Tạng là bản tâm thanh
tịnh hạnh và nguyện khế hợp thì mình và Bồ Tát vốn không hai, khi tu hành
thành tựu, Hành giả sẽ trở thành Hoá thân của Bồ tát ngay tại thế gian
nầy. Hình ảnh Ngài Kim Kiều Giác là một minh chứng điển hình cho Bồ Tát
tại nhân gian. Vì thế! Phật đã khen ngợi : “Địa Tạng vô lượng oai thần
đó, trăm ngàn muôn kiếp thuật chẳng rồi, rộng tuyên đại sĩ đầy sức nọ, Như
người nghe đến Địa Tạng danh, thấy hình chiêm lễ phát lòng thành, hương
hoa ăn uống dâng y phục, trăm ngàn báu đẹp hưởng điều lành , nếu hay đem
công hồi ( hướng) pháp giới, rốt ráo thành Phật sanh tử khỏi. . .” .
Bồ tát là ai ? Là người có đạo tâm rộâng lớn. Có người cho là Bồ Tát là
huyền thoại mà không tự hiểu, nếu tự thân chúng ta lập hạnh, tu nhân như
vậy là Địa Tạng, hành hạnh, tu pháp như vậy là Chuẩn đề hay Văn thù, Phổ
Hiền, Quán Âm vv… Ngay đức Thích Ca Mưu Ni theo kinh giáo, thời quá khứ là
vị tiều phu gặp Đức Phật hiệu là Thích Ca Mưu Ni nên cúng dường cùng phát
nguyện: nguyện đời sau con thành Phật cũng hiệu là Thích Ca Mưu Ni, cõi
nước, chúng hội đều không khác Phật hiện tại. Do nhân ấy mà viên thành
Phật đạo. Hạnh đó, Đức Phật thấy rõ, Trong quá khứ, vô số hiền thánh đã
xứng tánh lập nguyện, hành đạo khế hợp chân lý, thành Phật Bồ Tát, nên ứng
cơ nói ra tất cả hạnh nguyện cho người sau y đây lập hạnh tu hành thành
Phật. Cho nên, người tu hành có thể y hạnh nguyện người xưa mà tu hay quán
sát tất cả hạnh nguyện chư Phật và Bồ tát lập ra mật hạnh cho mình tu hành
để viên thành Phật đạo.
4. Ngày vía Địa Tạng
Theo truyền thống, ngày vía Địa Tạng Bồ tát là ngày
ba mươi tháng bảy hằng năm. Thế nhưng, chưa rõ đây là ngày khánh đản hay
thị tịch của Ngài. Ở Việt Nam, ngày nầy khá thầm lặng chỉ có một ít chùa
có truyền thống tổ chức. Nhưng ở các nước như Trung Hoa Nhật Bản, Triều
Tiên v,v, nơi mà tín tâm Đại thừa vững mạnh, hay mảnh đất thiêng nơi đạo
tràng Bồ tát như Cữu Hoa Sơn thì là ngày hội lớn, với bao nghi thức trang
nghiêm. Theo thông thường rằm tháng bảy là trung nguyên Địa quan xá tội
chi kỳ do Bồ tát Địa Tạng phóng xả cứu tế làm chủ tể, hình như, đây là sự
pha trộn giữa Lão giáo và Phật giáo. Còn theo Nhật Bản ! vào ngày hai mươi
bốn hằng tháng thiết trai cúng dường cầu phước hay kỳ siêu gọi là Địa Tạng
giảng.
5. Ích lợi người tu hành theo hạnh nguyện hay kính thờ Bồ tát
Một việc làm nào đều có kết quả của nó, người Phật Tử
thuần thành không phải là người có niềm tin mù quáng, mà chánh tín trên
tinh thần trí huệ, thấy rõ việc làm và kết quả của mình một cách chính
xác. Theo kinh Địa Tạng người tín thờ lễ lạy cúng dường ngài Địa Tạng Bồ
tát thì vượt khỏi tội khổ trong ba mươi kiếp. Do nhân kính lễ người thành
tựu diệu đức chơn tâm nên sanh tín tâm lành, ngừng nghĩ không tạo ác
nghiệp trong thời gian nên có phước báu như thế và trăm lần sanh lên cõi
Trời Đao Lợi. Người đó sẽ được hai mươi tám điều lợi ích :
1/- Các hàng Trời rồng
ủng hộ .
2/- Quả lành ngày càng tăng thêm.
3/- Chứa nhóm nhân bậc
thánh .
4/- Không còn thối
chuyển đạo Bồ Đề.
5/- Đồ ăn mặc dồi dào
đầy đủ.
6/- Các bệnh tật không
còn đến thân.
7/- Không bị các tai nạn
về nước và lửa.
8/- Không bị hại vì trộm
cướp.
9/- Người khác thấy sanh
lòng kính ngưỡng.
10/- Các hàng quỷ thần
thường phù hộ.
11/ -Đời sau sẽ được
chuyển thân nam.
12/- Hoặc làm con gái
các vị đại thần.
13/- Thân tướng trang
nghiêm xinh đẹp.
14/- Được sanh về các
cõi trời.
15/- Hoặc làm bậc vua
chúa đế vương
16/- Trí huệ sáng suốt
thấy rõ .
17/- Mọi sự mong cầu đều
toại nguyện..
18/- Bà con thân quyến
đều được an vui hòa thuận.
19/- Không gặp các tai
hoạ bất ngờ,
20 /- Dứt sạch các
nghiệp báo ở ba đường dữ
21/- Đến đâu cũng không
gặp điều trở ngại.
22/- Đêm nằm thường
chiêm bao những điều an lành.
23/- Bà con thân thuộc
đãqua đời đều được thoát khổ.
24/- Theo phước báo đời
trước mà thọ sanh.
25/- Các bậc thánh hiền
thường khen ngợi ủng hộ.
26/- Căn tánh thông
minh sáng suốt.
27/- giàu lòng Từ Bi bác
ái.
28/- Cứu cánh sẽ được
thành Phật.
C. KẾT LUẬN
Tóm Lại, công đức kính lễ Địa Tạng Bồ tát hay Chơn
Tâm vô tận. Nếu ai phát nguyện tu trì trở thành Địa Tạng Bồ Tát hay thành
tựu được diệu tâm công đức còn vô lượng hơn phước báu hữu vi. Mục đích ra
đời giáo hoá của Đức Phật và Địa Tạng Bồ Tát không ngoài chỉ cho chúng
sanh tu hành, ngộ nhập và ứng dụng chơn tâm thanh tịnh sẵn có của chính
mình. Người mê vì không tin mình sẵn có bản tâm thanh tịnh nên Phật và Bồ
Tát phải nhọc lòng thị hiện giáo hoá bằng nhiều phương tiện dẫn lần vào
bảo sở .
Như vậy, theo tinh thần kinh Địa Tạng Bồ Tát và các
kinh giáo, thì Địa Tạng là mật hạnh của chư Bồ Tát. Đức Thế Tôn từ mẫn nói
ra bổn hạnh ấy cho chúng sanh cỏi Ta Bà rõ biết. Hạnh đó, được nhiều vị Bồ
tát noi theo với tên là Địa Tạng, xứng tánh lập hạnh tu hành theo hạnh
được tên. Công hạnh rộng lớn của ngài. Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện và
Địa Tạng Bồ tát Thập Luân kinh nói rất rõ ràng. Trong Văn Khuyên Phát Bồ
Đề Tâm ngài Thật Hiền nói: “Có lập nguyện mới độ tận chúng sanh, có
phát tâm mới viên thành Phật đạo”. Chúng sanh không tin mình có chơn
tâm thanh tịnh, ứng dụng diệu tâm nầy lại cứ mãi duyên theo căn trần thức
tạo vọng nghiệp khổ đau nên mãi chìm trong sanh tử luân hồi xuống lên ba
cõi sáu đường. Vậy ! người có chí tu học Phật Pháp chớ mãi ỷ lại nơi cầu
sự gia bị của Bồ tát mà quên đi tự nỗ lực tấn tu chính bản thân mình. Đạo
lớn chỉ ở ngay trước mắt, nếu nhất tâm tu hành khế hợp hạnh nguyện thì
không cần cầu Bồ Tát cũng gia bị cho Ta. Ngược lại ,van cầu không khế hợp
chân lý không đúng chánh pháp thì không bao giờ nhận được sự hộ trì của
Bồ Tát ; người Phật tử xuất gia hay tại gia sau khi rõ biết hạnh nguyện và
công đức của ngài Địa Tạng Bồ tát hãy y chơn tâm thanh tịnh của mình kính
lễ tu tập như Ngài sẽ thành tựu vô lượng công đức.
Nguyện cho tất cả người con Phật khai mở kho tàng vô
giá tự tâm thành tựu đại nguyện thậm thâm của chính mình dìu dắt tát cả
chúng sanh đều trọn thành Phật đạo. Mỗi năm, ngày ba mươi tháng bảy là
ngày lễ khánh đản của Ngài nhắc nhở chúng ta hãy nhớ đến hạnh nguyện thậm
thâm của Bồ tát Địa Tạng, cùng nhau phát đại nguyện độ sanh theo chí
nguyện riêng của mình, dõng mãnh tấn tu đồng trang nghiêm Tịnh Độ, biến
địa ngục A tỳ thành Cực Lạc, đồng viên thành Vô Thượng Đại Bồ Đề.
Tài
liệu tham khảo:
Kinh Địa
Tạng Bồ tát
Kinh Hoa
Nghiêm
Huệ
quang đại tự điển
Lịch sử Phật
A Di Đà và bảy vị Bồ tát.
---o0o---
[Mục Lục ][
01][
02][
03][
04][
05][
06][
07][
08][
09][10]
[11][12][13][14][15][16][17][18][19]
---o0o---
Source: www.chuyenphapluan.com
Trình bày: Linh Thoại
Cập nhật: 01-2-2005