Ý nghĩa
Vía Phật -
Bồ Tát trong năm
---o0o---
BỒ TÁT QUÁN
THẾ ÂM
(Avalôkitesvara)
Thích Nguyên Bình
A. DẪN
NHẬP
Mỗi đức
Phật ra đời đều có hai chúng; Tuỳ tùng chúng và Ủng hộ chúng. Tuỳ tùng
chúng là các vị Thanh Văn Đại A la hán thường theo thính pháp tỏ bày công
hạnh lớn, tiêu biểu cho hạnh nguyện bao la của thánh chúng. Ủng hộ chúng
là chỉ cho các bậc Đại Bồ Tát với hạnh nguyện ủng hộ Phật pháp sâu dày.
Các Ngài là bậc thượng thủ trong chúng Bồ tát, là những vị Nhất Sanh Bổ Xứ
hay Cổ Phật quá khứ hiện thân với hạnh nguyện hộ trì xiển dương chánh pháp
cho Đức Phật hiện tại, trùng tuyên các pháp môn vi diệu khế hợp với tâm
nguyện chúng hữu duyên hay làm nhân duyên phát khởi pháp hội cho Phật nói
vi diệu Pháp. Khi Đức Phật nói pháp đại thừa, các Ngài thị hiện minh chứng
cho kinh. Mỗi vị Bồ Tát là tiêu biểu cho một pháp hành, một công hạnh, một
hạnh nguyện sống động của chơn tâm, cho chúng sanh noi dấu. Hàng Phật tử
chúng ta biết nhiều đến các vị Bồ tát qua kinh giáo đại thừa và qua các
hình tượng phụng thờ nơi thiền môn như Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Âm, Chuẩn
Đề, Di Lặc... Trong đó! Bồ tát Quán thế Âm là vị Bồ Tát được phụng thờ
nhiều nhất. Đến chùa nào, hoặc tư gia nào của Phật tử (theo Bắc truyền)hầu
như chúng ta đều thấy hình bóng từ ái của Ngài được thờ phụng tôn
kính.Ngài là vị Bồ tát gần gũi hữu duyên với chúng sanh đúng như lời Phật
dạy trong Kinh Địa Tạng: “Ôâng với chúng sanh trong cõi Ta Bà có nhân
duyên lớn...” Tuy nhiên, phần đông chúng sanh chỉ biết đến ngài qua
truyền thuyết, sự tích dân gian hoá và niềm tin, chứ ít người rõ tâm
nguyện hành trạng và công đức của Ngài để y theo đó tu hành trong chánh
tín. Những ai là Phật tử kính thờ và muốn noi theo hạnh nguyện của Ngài
thì phải biết công hạnh và diệu đức của Ngài nương theo đó tu hành theo
hạnh Quán Âm thực hành đại từ bi, nương nơi thần lực nhiếp hộ của ngài,
tiến tu bước vào vô thượng giác.
B.
NỘI DUNG
1. Định nghĩa và tên khác
Quán thế
Âm là dịch nghĩa từ chữ phạn Avalo Kitevara, Ngài còn tên khác là Quán Tự
tại Bồ tát, Hiện Âm Thanh Bồ tát, Duyệt Âm Bồ tát, Cứu Thế Bồ tát.
Vì Bồ
tát quán sát các pháp thế gian tùy theo thế tục giả âm thanh ngôn thuyết,
nên gọi là Quán Thế Âm.
Do Bồ
tát tu hạnh Đại bi, Đại Từ cứu tế chúng sanh như con một , thường hằng
quán sát âm thanh, nếu chúng sanh nào đau khổ nhất tâm xưng niệm danh hiệu
Ngài. Bồ tát nương theo âm thanh đó cứu giúp chúng sanh hết khổ được vui
nên có tên là Quán Thế Âm.
Lại vì
Bồ tát nhân nơi cảnh Lý Sự Vô Ngại quán sát các pháp thấy rõ năm
uẩn, sáu trần, mười tám giới thảy đều không tướng, thân tâm tự tại, xa lìa
điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết bàn, nên gọi là Quán Thế Tự Tại hay
Quán Tự tại Bồ tát.
Chữ Quán
là xem xét, thế là thế gian. Do tu pháp Nhĩ căn Viên thông thường hằng
xoay tánh nghe phản văn tự kỷ, lắng nghe nội tâm mình ngộ được chơn tâm
thanh tịnh, tâm nghe thông suốt mười phương, sáu căn dung thông như nhất.
Cho nên, tự tại nghe suốt tất cả âm thanh thế gian, mỗi mỗi phân biệt rõ
ràng, có thể phân thân cứu độ chúng sanh thọ khổ não chí thành xưng niệm
danh hiệu.
Gọi là
Hiện Âm Thanh Bồ Tát vì Bồ Tát nương nơi âm thanh đau khổ của chúng sanh
mà hiện thân cứu khổ ban vui, nên có tên là Hiện Âm Thanh Bồ Tát hoặc Cứu
Thoát Bồ Tát.
Gọi là
Duyệt âm Bồ tát vì Ngài xem xét âm thanh đau khổ của chúng sanh trong thế
gian mà cứu độ mà có tên.
Theo
Kinh Pháp Hoa phẩm Phổ môn: “Gọi là Quán Thế Âm Bồ tát vì Bồ Tát ở thế
giới Ta bà làm lợi ích chúng sanh, nếu có chúng sanh thọ khổ nhất tâm cầu
danh hiệu của Ngài, Bồ tát quán sát âm thanh đó, giúp họ thoát khổ, nếu có
sở cầu đều như ý.” Vì Bồ tát cứu khổ ban vui cho chúng sanh nên Ngài còn
có tên khác là Thí Vô Uý tức bố thí sự không sợ sệt cho chúng sanh.
Tiền
thân: Theo kinh Đại Bi Đà Ra Ni, tiền thân của Bồ tát Quán Thế Âm là
Cổ Phật quá khứ Chánh Pháp Minh Như Lai.Vì thương xót chúng sanh và tâm
nguyện ủng hộ chư Phật nên Ngài thị hiện thân Bồ Tát.
Theo
Kinh Bi Hoa, Bồ tát Quán Thế Âm là con trai thứ ba của vua Vô Tránh Niệm
nhân thấy vua cha bỏ ngôi đi tu và hai anh phát đại thệ nguyện tu hành
cúng dường Phật và Hiền thánh tăng, nên Ngài phát tâm tịnh tín cúng dường
Đức Phật và tăng chúng. Sau đó, theo lời khuyên của đại thần Nguyệt Xứng,
Ngài thành kính phát tâm Bồ đề cầu vô thượng đạo.Vì chí nguyện và tâm
thành kiên cố, Ngài được Phật thọ ký đạo Vô Thượng Bồ Đề. Hiện tại Ngài là
Bồ tát Nhất sanh bổ xứ tại Tây Phương Cực Lạc thế giới.
Theo Nam
Sơn Luật Sư truyện, Ngài Đạo Tuyên Luật sư hỏi Tỳ Sa Môn Thiên vương về
tiền thân của Quán thế Âm Bồ tát. Thần thưa:” Quá khứ tiền thân của Bồ tát
là công chúa Diệu Thiện con thứ ba vua Diệu Trang Nghiêm. Vì lòng thành
kính mộ đạo dốc chí muốn xuất gia tu hành nên không chịu lấy chồng, Vua
cha giận dữ lưu đày, đánh đập, định chém... nhưng Ngài vẫn thoát chết,
kiên tâm tu hành, chứng đạo Bồ đề.
Ngoài ra
theo các truyền thuyết ở Việt Nam Triều Tiên, có sự tích Quan Âm Thị Kính
tu thành Quán Âm hạnh. Các tiền thân công hạnh hoá độ của ngài được ghi
chép khá nhiều qua các truyện ký trong Đại tạng và Tục tạng.
Công hạnh hoá độ Bồ tát Quan thế Âm tiêu
biểu cho đức đại từ đại bi cứu khổ ban vui cho chúng sanh. theo Kinh Pháp
Hoa, phẩm Phổ Môn: Nếu ai trì niệm danh hiệu của Ngài sẽ không bị các tai
nạn lửa cháy nước trôi lại tránh khỏi các tai nạn quỉ La Sát, Dạ Xoa,
không bị gông cùm xiềng xích, dao gậy đánh đập đâm chém, thoát khỏi đường
hiểm nạn, an vui không sợ hãi, lìa tham sân si, được con trai con gái như
ý nguyện.Đây là do công hạnh từ bi mẫn thế không thể nghĩ bàn của Bồ Tát
dùng đức vô uý làm an ổn chúng sanh, nhiếp thủ chúng sanh phát khởi chánh
tín, bước vào nẻo đạo.
Đứng
về Sự thì đây là thệ nguyện của Bồ Tát Quán thế Âm, một vị Bồ Tát có thật,
có nhân duyên rất lớn với chúng sanh cõi Ta Bà. Ngài vận dụng tất cả
phương tiện đưa chúng hữu duyên vào đạo bằng cách thị hiện ba mươi hai ứng
hoá thân cứu độ chúng sanh với tâm vô trụ chấp, dung thông vô ngại khắp
pháp giới mười phương. Chúng sanh nào chí thành thường niệm danh hiệu hay
tưởng niệm đến Ngài, một lòng không loạn, chí thành chuyên nhất thì đều
được cảm ứng, vượt qua các hiểm nạn. Đứng về mặt lý sự viên dung và các sự
cảm ứng được lưu truyền trong dân gian cũng như kinh giáo, tục tạng.v..v..
trong quá khứ cũng như hiện tại. Có thể nói danh hiệu ngài là diệu dược
giải tỏa cho chúng sanh tất cả nỗi bất an đau khổ trên cõi đời, nếu tưởng
niệm với tâm chí thành chơn chánh. Người niệm danh hiệu Ngài đến vô niệm
tương ưng lợi mình lợi người mới được Ngài ảnh hiện gia bị nhiếp hộ vượt
qua mọi khổ nạn, như kệ nói: “Chúng sanh tâm cấu tậân, Bồ tát ảnh hiện
trung.”
Vì
vậy, hàng Phật tử chúng ta phải chí thành tưởng niệm danh hiệu ngài bằng
tâm chuyên nhất không tạp loạn mới được lợi ích lớn, hằng an vui trong sự
hộ trì của Bồ Tát, từ đó tự phát huy tự lực tu hành của chính mình. Ngược
lại! những ai trì niệm với tâm giải đãi biếng lười thì không có kết quả
hiện tiền như ý, Bởi vì: “Có thật cảm Phật ngài mới ứng, Niệm lơ là
Phật chứng vào đâu, Ví như người té xuống sâu, không lo kêu cứu ai hầu cứu
cho.” (Thanh sĩ) Người trì niệm trong sự tán loạn lăng xăng tạp
niệm thì không thể tiếp nhận được sự gia bị của Bồ tát, nhưng cũng gieo
được duyên lành ở vị lai. Do đó, người tu hành muốn nương vào tha lực cần
phải nỗ lực phát huy tự lực chính mình, mới có thể thành tựu tự tha hợp
nhất thẳng tiến đạo Bồ đề.Ngày nay, đi đến đâu, chúng ta cũng thấy hình
ảnh tượng thờ của ngài. từ chùa chiền, am, cốc cho đến tư gia Phật tử. Có
thể nói tiếng niệm danh hiệu Quán Thế Âm có rất nhiều trong lòng người
Phật tử bình dân theo đại thừa giáo pháp.
Theo
lý mà nhận định thì niệm danh hiệu Bồ tát Quán Thế Âm là niệm đức Đại Bi
do được thần lực Ngài gia bị nhiếp hộ, cho nên không bị bát nạn (Vua
Quan cấm đoán, giặc giã, hoả hoạn, lũ lụt, bệnh tật, bị người cản trở, phi
nhân cản trở, ác thú quấy nhiểu.) xâm tổn. Chuyển đổi được tâm tánh
xấu ác của tự thân và chúng sanh làm cho tâm được thanh lương mát mẻ,
không bị gông cùm xiềng xích trói buộc, không bị tất cả phiền não ngăn
che, thành tựu tất cả công đức lành, đầy đủ phước đức trí huệ và giải
thoát giác ngộ viên dung. Bởi vì, niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát là
lắng nghe tiếng lòng của tự tâm, bằng thanh tịnh tâm không kẹt trong âm
thanh giả tướng, rõ suốt tất cả âm thanh nhiệm mầu giải thoát vi diệu của
nguồn tâm là không tịch nên dứt trừ tất cả âm thanh khổ não, khiến cho tự
thân người niệm được thấm nhuần an lạc trong chánh pháp. Vững tin và tiến
tu đạo nghiệp không thoái chuyển.
Theo
các kinh Đại Thừa như “Nhất thiết công đức trang nghiêm kinh”, “Phổ Hiền
Đà Ra Ni Kinh” “Thanh Tịnh Quán Thế Aâm Bồ Tát Kinh”.Khi Đức Phật Thích Ca
Mưu Ni thuyết pháp, Bồ tát thường hiện thân đến nghe pháp ủng hộ hầu bên
các đức Phật. Trong Kinh Đại A Di Đà quyển thượng, Quán Vô Lượng thọ Kinh
quyển hạ Quán thế Âm Bồ tát thọ ký kinh, Bồ tát thường đứng hầu bên Phật A
Di Đà ở tại Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, giáo hoá chúng sanh.
Theo
kinh Hoa nghiên Phẩm nhập Pháp giới Bồ tát quán thế Âm thường trụ Phổ đà
lạc ca sơn tại Nam hải ở tại thế giới Ta Bà hoá độ chúng sanh. Ngài Thiện
Tài đồng tử khi cầu đạo với năm mươi ba vị thiện tri thức tới vị thứ hai
mươi bảy là Bồ Tát Quán Thế Âm dạy tu pháp “Bồ tát đại bi hạnh giải
thoát”, để giáo hoá và cứu độ tất cả chúng sanh khổ đau phiền não được
giải thoát an lạc. Qua đó, chúng ta thấy Bồ tát ứng hiện khắp mười phương
thế giới hoá độ chúng sanh. Đúng như kinh Pháp hoa Phẩm Phổ môn khen ngợi
:
Trong
mười phương cõi nước, không cõi nào chẳng hiện.
Vô
lượng các ác thú, địa ngục quỷ súc sanh,
Khổ
sanh già bệnh chết, hiện thân, khổ liền diệt.
Sự
hiện thân của Bồ tát trên cuộc đời là tiêu biểu cho sự thắng diệu an ổn
tốt đẹp lợi lạc chúng sanh. Phẩm Phổ Môn cho biết tuỳ theo căn tánh chủng
loại nghiệp cảm thích mến của chúng sanh mà ngài thị hiện thân hình hoá độ
chúng sanh. Đáng dùng thân nào độ thoát thì ngài dùng thân đó hoá độ đem
lại sự an lạc cho mọi người và dìu dắt tất cả chúng sanh vào tuệ giác vô
thượng.
2. Hình ảnh tôn thờ
Trong
các nơi có Phật giáo Đại Thừa truyền bá, Hình tượng ngài được tôn thờ kính
cẩn với rất nhiều tướng trạng sai biệt. Hình tượng thường gặp nhất là hiện
thân nữ nhơn như mẹ hiền thương con, đầu đội khăn, tay cầm tịnh bình, tay
cầm nhành dương liểu hoặc bắt ấn với pháp y màu trắng. Tương truyền hình
ảnh nầy xuất hiện vào thời Tống (Trung Hoa) niên hiệu Tuyên Hoà 1197.Trước
đó, tượng thờ của ngài dưới hình tướng nam tử. Vì tất cả Bồ tát đều hiện
thân đại trượng phu đầy đủ ba mươi hai tướng tốt trang nghiêm. Hình ảnh
thứ hai là Quan Âm Nam Hải hay Từ Hàng Đại Sĩ ngồi tại vườn trúc tía một
mình, hay có Thiện Tài, Long Nữ đứng hầu.
Ngoài
ra chúng ta còn gặp hình tượng Ngài dưới dạng ngàn mắt ngàn tay, hình ảnh
nầy căn cứ theo kinh Đại bi đà la ni khi ngài hiện thân nói tâm chú. Tại
miền bắc nước ta, có pho tượng Ngàn tay ngàn mắt cổ xưa nổi tiếng có giá
trị nghệ thuật ở chùa Bút tháp.
Một hiện
thân khác của Bồ Tát Quán thế âm là hiện tướng Tôn Na Tôn giả hay Chuẩn Đề
Bồ tát, mười tám tay cầm đủ khí giới binh trượng tiêu biểu cho việc thâu
nhiếp và vận dụng viên thông mười tám giới. Chúng sanh bị căn trần thức
trói buộc trong sanh tử. Bồ tát thì vận hành các giới tự tại để tế độ
chúng sanh nói ra diệu pháp Chuẩn Đề bí mật, thông cả nhãn nhĩ viên thông
giáo hoá chúng sanh.
Một hình
tượng khác mà hàng Phật tử hằng gặp là Tiêu diện đại sĩ (Quỷ vương) thân
ốm tong teo, tay cầm phướng dắt cô hồn uổng tử thọ thí tại các trai đàn.
Tương truyền, tôn giả A nan một đêm toạ thiền, thoạt thấy quỷ nầy đến
bảo: ông thọ mạng sắp hết phải cầu Phật nói chú thí thực, làm lễ thí chúng
quỷ thần đói khát mới thoát khổ. Xả thiền khi trời sáng, Ngài bạch Phật
tự sự, cầu Phật dạy bảo Phật nói đó là Bồ tát Quán thế Âm thị hiện để nhắc
nhở ôâng thỉnh ta nói pháp cứu độ hữu tình (Kinh Diệm khẩu đà la ni).
Ngoài ra
còn các tôn tượng như Như Ýù Luân Quán thế Âm đeo chuỗi anh lạc tiêu biểu
cho thành tựu diệu pháp, chúng sanh nguyện cầu như y.ù Mã Đầu Quan Thế Âm
hay Đại Trì Lực Vương tiêu biểu dùng tâm đại từ hiện tướng sân hận, thị
hiện nghịch hạnh nghịch duyên độ chúng sanh.
Quan Âm
Thập Nhất Diện là tiêu biểu cho đức đại từ bi, hiện thân cứu khổ của bậc
Đẳûng giác. Mười một đầu chỉ cho Thập Địa và Đẳng giác Trước khi vào Đẳng
Giác Phải trải qua những cuộc thử thách gian nan nên tiêu biểu mặt quỷ dữ.
Hành giả tu hành phải qua địa vị nầy mới thành tựu kim cang địa viên thành
Phật đạo. Ngoài ra, còn có nhiều hình tượng khác biệt như Quan Thế Âm đứng
trên đầu rồng.... mỗi hình tượng tiêu biểu cho công hạnh hoá độ qua tâm
cảm của chúng sanh.Sai biệt tuy có muôn ngàn nhưng tất cả đều có một nét
chung đồng là Quan Âm tượng trưng cho đức đại từ đại bi giáo hoá chúng
sanh đem lại niềm an lạc.Vì thế, phần đông tôn tượng của ngài được biểu
hiện dưới dạng đấng mẹ hiền, chứ thật sự, hiện thân của Ngài hầu bên đức
Phật A Di Đà thị hiện thân tướng đại trượng phu đầy đủ tướng hảo như chư
Phật. Do đó khi thấy hình tượng Bồ tát được thờ khác biệt, hàng Phật tử
đừng chấp trước vào hình tướng, phải tìm hiểu rõ đó là do hạnh nguyện sâu
dày của Bồ tát thị hiện ra ứng hoá thân mà có các hình tượng như thế; tất
cả đều do tâm đại từ bi thương chúng sanh ứng hiện ra.
3. Pháp tu của Bồ Tát Quán Thế Âm
Theo
kinh Thủ Lăng Nghiêm, Bồ tát Quán Thế Âm trình bày do tu pháp chánh
định Kim Cang Như Huyển Tam Muội thành tựu nhĩ căn viên thông “Do
tánh nghe của tôi tròn sáng khắp cả mười phương, nên cái tên Quán Thế Âm
khắp cả mười phương cõi nước. Lại do nhơn tu của tôi, tại trong tánh nghe
phát ra bản tánh Diệu Minh, Viên chiếu cả mười phương”.
“Nghe” mà gọi là “quán” là vì theo cái nghe mà thoát ra ngoài nhĩ
căn, ngưng tụ nơi tâm và mắt, nên đối với quả môn cũng hay quán xét âm
thanh của chúng sanh; căn môn đều lẫn dùng vậy.
Do
nghe hiểu sáng suốt tu hành chơn chánh vào chánh định Ban đầu quán tánh
nghe, dùng tánh nghe sáng suốt lắng nghe tự tâm lìa các duyên trần vào
dòng Viên Thông. Bởi do sáu căn dong ruổi theo sáu trần, đó là không theo
dòng, mà quán trở lại căn tánh, nên gọi vào được dòng Viên Thông. Khi được
vào dòng Viên Thông liền xa lìa trần cảnh, nên gọi là không còn tướng bị
nghe nữa. Động, tức duyên theo trần cảnh ; tịnh, tức là giải thoát, khi
vào được dòng Viên Thông. Sợ e xen dính với tướng định mà ở đây chỉ là
diễn bày đạt sâu vào căn tánh thì hai tướng động và tịnh rõ thật giả lập,
xoay tánh nghe vào trong, tướng nghe và âm thanh không còn , sanh diệt đã
hết, tịch diệt hiện tiền. Bỗng nhiên vượt ngoài thế gian và xuất thế gian
được hai món thù thắng. Trên cùng khế hợp bản giác diệu tâm của mười
phương chư Phật đồng một Từ lực. Dưới hợp cùng với tất cả chúng sanh trong
lục đạo đồng một bi ngưỡng.
“Bồ
tát Quán Thế Âm nói :Nhờ tu pháp Kim cang tam muội của Đức Quán thế Âm
Như Lai lắng nghe tánh nghe như huyễn của mình mà tôi được từ lực đồng với
chư Phật mười phương có năng lực thị hiện ba mươi hai ứng thân cùng khắp
mười phương hoá độ chúng sanh theo tâm tưởng của họ, người nào đáng dùng
thân nào được độ thoát , tôi hiện thân đó mà nói pháp mầu khiến chúng sanh
đó được giải thoát. Do thành tựu đại bi lực khế hợp mười phương chúng sanh
trong sáu nẻo, cho nên chúng sanh tưởng niệm đến tôi được mười bốn công
đức vô uý :
1-/ Chúng sanh quán sát niệm danh hiệu được giải thoát .
2-/ Vào lửa không cháy,
3-/ Vào nước không chết đuối.
4-/ Vào chỗ nước hiểm ác , chúng quỷ không gia hại được.
5-/ Không bị các tai nạn về dao gậy.
6-/ Các loài ma quỷ không thấy và hãm hại được.
7-/ Không bị gông cùm trói buộc.
8-/ Giặïc cướp không thể cướp bóc.
9-/ Xa lìa tham dục.
10-/ Xa lìa sân nhuế.
11-/ Xa lìa ngu si.
12-/ Cầu con trai được con trai.
13-/ Cầu con gái được con gái.
14-/ Trì niệm danh hiệu Ngài bằng thọ trì danh hiệu 62 ức Bồ tát.
Phật hỏi pháp viên thông, Con do tu Viên
chiếu tam muội nơi nhĩ căn mà duyên tâm được tự tại. Nhân tướng nhập lưu
được tam ma địa thành tựu quả Bồ đề.
Pháp tu
viên thông nầy, Bồ Tát Văn Thù đại diện cho Phật quán xét trong hai mươi
lăm pháp tu ca ngợi Nhĩ căn Viên thông là ưu việt bậc nhất. Không bị
chướng ngại vật ngăn cách, dù có ngủ mê, tánh nghe vẫn hiện tiền. Trong
thế giới Ta Bà nhiều khổ đau chướng ngại, Chúng sanh nếu muốn được viên
thông tam muội nên tu pháp Nhĩ Căn Viên Thông là tối thắng đệ nhất. Quán
Thế Âm chính là niệm tánh nghe của tự tâm nhiệm mầu hay chơn tâm thanh
tịnh trùm khắp pháp giới. Chúng sanh mê đắm trong trần cảnh thường chạy
theo âm nhạc du dương tình tứ êm dịu hay tranh đấu kích động, ưa tiếng tốt
giọng hay, ghét âm thanh xấu dở . . . mãi đắùm trong âm thanh sắc tướng
nên không nhận được bản tâm. Bồ tát lắng nghe tự tánh của mình, quay cái
biết về tâm lìa nhơn ngã chấp trước thành tựu quả diệu giác. Ai kính thờ
Bồ tát tưởng nhớ Ngài nên tu pháp nầy, tự thân thực hành được an vui lợi
ích, đó là cách tôn kính thù thắng nhất.
Một
trong những pháp tu của Bồ tát Quán Thế Âm là thọ trì Pháp Đại Bi Tâm Đà
La Ni. Theo Kinh Đại Bi Tâm đà la Ni, khi thọ trì thần chú nầy hành giả sẽ
đầy đủ tâm đại bi, xoá các vọng nghiệp, đoạn trừ Vô minh hoặc chuyển thức
thành trí, hiển lộ chơn tâm thanh tịnh. Đây là con đường tắt đốn siêu
thánh địa, nhập Mật Tạng đà la ni. Thuở xưa, khi Bồ tát còn ở bậc Sơ Địa,
vừa nghe qua Đức Quán Thế Âm Như Lai nói đà la ni nầy Từ Sơ Hoan Hỷ
Địa, Ngài Vượt chứng đệ Bát Bất Động địa. Nếu chúng sanh nào
thọ trì tâm chú nầy chắc chắn sẽ tròn đủ đại bi tâm, thành tựu công đức
như Ngài. Ngoài ra Ngài còn nói các thần chú như Quan Âm Linh cảm chơn
ngôn , Lục tự đại Minh chơn ngôn (Án Ma ni Bát di hồng) nhưng gần
gũi và thâm thuý vi diệu nhất đối với hàng Phật tử vẫn là Bát nhã tâm kinh
qua bản dịch của Pháp sư Huyền Trang. Trong Kinh nầy, Bồ tát chỉ rõ cho
chúng sanh thấy Ngũ Uẩn đều không, sáu trần sáu thức mười tám giới cho đến
tất cả các pháp Tứ đế, Mười hai nhân duyên trí huệ chứng đắùc đều không
tướng. Tất cả các pháp thể tánh không sanh diệt rốt ráo không có thật thể
của các pháp thế gian và xuất thế gian. Nhưng không phải là ngoan không
cũng không phải là cái không thê lương vắng lặng sự sống như thế gian
thường nghĩ , mà đây là cảnh chơn không diệu hữu, trong không có có, trong
có có không. Nó hàm tàng vô lượng cảnh giới và diệu pháp mầu nhiệm. Nhờ
hành thâm Bát nhã tánh định Bồ tát vượt khỏi tất cả lầm mê của phàm
phu thế gian và nhị thừa. Thể nhập chơn như tánh. Ba đời chư Phật đều do
hành thâm bát nhã nầy mà chứng đạo bồ đề.Kinh nầy là tâm yếu vào đạo là
cốt tuỷ củûa sáu trăm quyển Bát Nhã.Vì thế, nhà thiền lấy đó làm nền tảng
tu hành thọ trì hằng ngày để huân tập khí phần bát nhã. Ai muốn thành tựu
diệu hạnh như Ngài cần phải tham chiếu và thực hành Bát Nhã tâm kinh mới
có thể siêu xuất thánh phàm.
4. Lợi ích kính thờ
Qua tiền
thân và công hạnh hóa độ của ngài chúng ta thấy Bồ tát Quán Thế Âm do tu
Nhĩ Căn Viên Thông và hành thâm bát nhã mà thành tựu đại từ bi tâm
nhiếp hoá chúng sanh. Lại cũng do tỏ suốt nguồn tâm nói các môn đà la ni
hoá độ chúng sanh. Cho nên, được phần đông chúng sanh kính thờ trì niệm.
Do bố thí cho chúng sanh mười bốn pháp không sợ sệt, phân thân hoá hiện
khắp mười phương theo lòng nguyện cầu của chúng sanh ban vui cứu khổ. Đặc
biệt trong thế giới Ta Bà nầy, chúng sanh thọ hưởng ân đức sâu dày của
Ngài rất lớn. Những chuyện truyền kỳ cảm ứng về việc thấy hình, nghe danh
ứng hiện cứu khổ ban vui cho chúng sanh thoát khỏi tai ách của Ngài vô số
không thể tính kể.Theo Kinh Pháp hoa phẩm Phổ môn Ai nhiếp tâm kính niệm
chí thành đều ứng nghiệm vô cùng. Người phụng thờ danh hiệu của ngài bằng
thọ trì danh hiệu sáu mươi hai ức Bồ tát. Được thủ hộ vào chánh pháp vĩnh
tiến trên đường đạo, tròn đủ phước đức trí huệ lần lần tiến vào Phật đạo.
Thế nhưng, Bậc trí giả đừng nên quá mong cầu sự gia bị của ngài, quên đi
tự nỗ lực của chính mình. Muốn vượt bậc, cận kề tâm nguyện của ngài, phải
tu pháp nhĩ căn viên thông Phản văn tự kỷ dùng thiền định chiếu soi Uẩn,
Xứ, Giới thảy đều giai không, Chánh pháp Niết bàn cũng không, lìa bỏ các
khái niệm điên đảo vọng tưởng thì thành tựu tất cả Phật pháp, chứng thành
quả vị như Bồ tát. Thọ trì pháp tu của Ngài chính là kính thờ phụng hành
cúng dường Ngài thù thắng nhất. Người niệm danh hiệu của Ngài là niệm đức
Đại Bi, trải đủ công đức, đưa hành giả vào chánh đạo. Vì thế, mong rằng
tất cả Phật tử nên kính thờ và thực hành pháp tu của Ngài để trở thành
một bậc viên thông đại sĩ làm lợi lạc hóa độ chúng sanh như Ngài.
C. KẾT LUẬN
Hạnh Bồ
tát vốn vô biên nhưng tất cả không ngoài Bát nhã trí và tâm từ bi hỷ xả.
Bồ tát Quán Thế Âm tu pháp Kim Cang Như Huyển Tam Muội, dùng bát nhã trí
hiện rõ pháp thân hiện tướng từ bi độ chúng sanh như mẹ hiền thương con
dại. Tương truyền ngài là Vị Cổ Phật quá khứ Chánh Pháp Minh Như Lai, là
vị Đẳng Giác Bồ Tát sẽ thành Phật ở vị lai hiện thân tiêu biểu cho đức Đại
Từ Bi. Hàng Phật tử khi đã rõ công hạnh vô biên của ngài, nên y theo tâm
thành thờ kính tu hạnh nguyện Quan Âm để cho đức từ bi trí huệ của ta nẩy
nở tự thân trở nên an lạc giải thoát bao đau khổ luyến ái luôn đeo bám ta
từ vô thỉ. Đó là tâm nguyện mà chư Phật và Bồ tát Quán Thế Âm mong muốn
ta thực hành. Ai là người kính thờ Ngài nên đúng theo Chánh Pháp đặt niềm
tin lìa bỏ tà ngụy hư vọng mong cầu, để được an trú trong chánh pháp thẳng
tiến vô thượng Bồ đề diệu quả.
Tài
liệu tham khảo:
Kinh Pháp Hoa
Kinh Hoa Nghiêm
Kinh Lăng Nghiêm
Kinh Đại Bi Đà La Ni
Tâm kinh bát nhã
Sự tích Phật A Di Đà và bảy vị Bồ tát. Nhà xuất bản Tôn giáo năm 2001
Huệ quang Đại tự điển.
---o0o---
[Mục Lục ][
01][
02][
03][
04][
05][
06][
07][
08][
09][10]
[11][12][13][14][15][16][17][18][19]
---o0o---
Source: www.chuyenphapluan.com
Trình bày: Linh Thoại
Cập nhật: 01-2-2005