- TRẦN NHÂN TÔNG
CON NGƯỜI & TÁC PHẨM
Tiến sĩ Lê Mạnh
Thát
Nhà
Xuất Bản TP.HC1999
--o0o--
PHẦN
I
NGHIÊN
CỨU
VỀ
TRẦN
NHÂN
TÔNG
--o0o--
CHƯƠNG
VII
MỘT SỐ
VẤN ĐỀ TƯ TƯỞNG
TRẦN
NHÂN TÔNG
Vua Trần
Nhân Tông đã sống cuộc đời oanh liệt và hoành tráng, có
những đóng góp to lớn và thiết thực cho dân tộc và Phật
giáo.Thế thì, vua đã sống và hành động theo hướng nào,
dưới sự tác động của những suy nghĩ tư tưởng gì?
Ngày nay,
toàn bộ những tác phẩm của vua Trần Nhân Tông do Thánh đăng
ngữ lục ghi lại như Thiền lâm thiết chủy ngữ lục, Thiền
lâm thiết chủy hậu lục, Đại hương hải ấn thi tập, Tăng
già toái sự và Thạch thất mị ngữ hoàn toàn đã tán thất.
Những gì còn lại chỉ gồm một số bài thơ, văn và ngữ
lục được chép rải rác đó đây trong các tác phẩm Việt
Nam về sau như Thánh đăng ngữ lục, Việt âm thi tập, Thiền
tông bản hạnh, Tam tổ thực lục v.v. và một số các tác
phẩm Trung Quốc như Thiên nam hành ký, Trần Cương Trung thi
tập v.v. Cho nên, việc nghiên cứu tư tưởng vua Trần Nhân
Tông không phải dễ dàng gì. Tuy nhiên, căn cứ vào những
gì hiện còn được lưu lại, ta có thể phác họa sơ qua một
số vấn đề mà vua Trần Nhân Tông đã từng quan tâm suy nghĩ.
Thứ nhất,
từ nhỏ vua Trần Nhân Tông đã quan tâm đến Phật giáo, nhưng
khi lên nắm chính quyền, vấn đề đầu tiên là phải bảo
vệ sự toàn vẹn lãnh thổ và nền độc lập của tổ quốc.
Vì thế, có thể dễ dàng thấy rằng vua Trần Nhân Tông phải
tập trung suy nghĩ những vấn đề chính trị, kinh tế, ngoại
giao và quân sự của đất nước. Phải đưa ra được một
sách lược tổng quát để có thể chiến thắng trong cuộc
chiến đấu với kẻ thù. Việc chiến đấu với kẻ thù trong
hai cuộc chiến tranh giữ nước năm 1285 và 1288 đã hoàn toàn
thắng lợi, như đã trình bày ở trên. Thế thì, phương lược
tổng quát chỉ đạo cho hai cuộc chiến tranh đó là gì? Câu
trả lời tất nhiên là phải huy động mọi tiềm lực dân
tộc cho cuộc chiến đấu. Nhưng tiềm lực dân tộc là gì
và huy động làm sao?
Tiềm lực
dân tộc trước hết nằm ở lòng yêu nước của mọi người
dân không phân biệt thành phần xã hội, tuổi tác, tôn giáo,
nguồn gốc dân tộc. Chính xuyên qua chủ trương này, mà ta
thấy trong các đội quân tiến đánh quân Nguyên của vua Trần
Nhân Tông có những người thuộc dòng dõi thân vương như
Trần Quang Khải, Trần Hưng Đạo, Trần Quốc Tung...; có những
người xuất phát từ dân thường như Phạm Ngũ Lão, Nguyễn
Khoái ... ; nhưng cũng có những người là nô tỳ như Yết
Kiêu, Dã Tượng; có những người còn rất trẻ như Trần
Quốc Toản, nhưng cũng có những người rất già như các vị
bô lão tham gia hội nghị Diên Hồng với tiếng hô “quyết
chiến”; có những người thuộc các dân tộc thiểu số,
như Hà Đặc, Hà Chương, có những đạo sĩ ngoại quốc như
Hứa Tông Đạo, thậm chí có những người là tướng tá của
kẻ thù như Trương Hiển... Có được một sự tập hợp rộng
rãi các thành phần dân tộc khác nhau như thế phải xuất
phát từ một chính sách đoàn kết rộng lớn.
Nhưng chính
sách đoàn kết này chỉ có thể thực hiện được, khi người
dân và người lãnh đạo đất nước có cùng chung một quyền
lợi để bảo vệ và một đối tượng để chiến đấu.
Trong lời Hịch gửi tướng lĩnh, sĩ quan và binh sĩ, Trần
Hưng Đạo đã thay lời Trần Nhân Tông nói rõ điểm này:
“Các ngươi ở lâu dưới trướng, nắm giữ binh quyền, không
có áo mặc thì ta cho áo, không có ăn thì ta cho cơm, quan thấp
thì ta thăng tước, lộc ít thì ta cấp lương, đi thủy thì
ta cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa, lúc ra quân thì cùng
nhau sống chết, lúc ở nhà thì cùng nhau vui cười. So với
Công Kiên đãi đám tỳ tướng, Ngột Lang đãi kẻ phụ tá,
nào có kém gì? Nay các ngươi ngồi nhìn chúa nhục mà không
biết lo, thân chịu quốc sỉ mà không biết thẹn, làm tướng
triều đình đứng hầu quân mọi mà không biết tức, nghe
nhạc thái thường đãi yến sứ ngụy mà không biết giận.
Có kẻ lấy
việc chọi gà làm vui. Có kẻ lấy việc đánh bạc làm thú.
Có kẻ chăm lo vườn ruộng cung phụng gia đình. Có kẻ quyến
luyến vợ con để thỏa lòng vị kỷ. Có kẻ tính đường
sản nghiệp mà quên việc nước việc quân.
Có kẻ ham
trò săn bắn mà nhác tập công tập thủ. Có kẻ thích rượu
ngon. Có kẻ mê hát nhảm. Nếu bất chợt giặc Mông thát tràn
sang, thì cựa gà trống không đủ đâm thủng giáp giặc, mẹo
cờ bạc không đủ làm mưu nhà binh, vườn ruộng giàu không
đủ chuộc tấm thân ngàn vàng, vợ con lắm không đủ sung
dụng việc nước, của cải nhiều không đủ mua được đầu
giặc, chó săn khỏe không đủ đuổi được bọn thù. Rượu
ngon không đủ để làm giặc say chết, hát hay không đủ để
giặc điếc tai.
Lúc bấy
giờ, chúa tôi nhà ta đều cùng bị bắt, đau xót biết chừng
nào. Không chỉ thái ấp của ta bị mất, mà bổng lộc các
ngươi cũng thuộc về kẻ khác; không chỉ gia quyến ta bị
đuổi, mà vợ con các ngươi cũng bị kẻ khác bắt đi; không
chỉ xã tắc tổ tông ta bị kẻ khác dày xéo, mà phần mộ
cha mẹ các ngươi bị kẻ khác bới đào; không chỉ thân ta
kiếp này bị nhục dù đến trăm năm sau tiếng nhơ không rửa
tên xấu còn lưu, mà gia thanh các ngươi cũng không khỏi mang
danh là tướng bại trận. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi muốn
vui chơi thỏa thích, phỏng có được chăng”.
Trần Hưng
Đạo đã vạch ra sự thống nhất quyền lợi giữa những
người lãnh đạo đất nước và những người dân bình thường.
Đây chính là cơ sở của sự đoàn kết toàn dân. Mọi người
đều thấy mình có cùng chung một quyền lợi để chia sẻ
và do thế phải được cùng nhau bảo vệ. Sự tồn tại của
quyền lợi người này là điều kiện và tiền đề để cho
quyền lợi người khác tồn tại. Quan hệ biện chứng với
quyền lợi này đã xây dựng nên ý thức về sự cùng chung
một đất nước, một cộng đồng để mến yêu. Và thực
tế, yêu nước chính là yêu gia đình, cha mẹ, vợ con mình,
là yêu phần mộ tổ tiên mình, là yêu không gian sông núi
đất trời nơi mình đang sống. Có thể nói, Trần Hưng Đạo,
lần đầu tiên bằng minh văn, đã chỉ ra rõ ràng những yếu
tố tạo nên lòng yêu nước một cách khách quan và có thể
hiểu được.
Chính xuất
phát từ một nhận thức như thế, trong việc chuẩn bị cho
hai cuộc chiến tranh cũng như sau khi hòa bình lập lại, vua
Trần Nhân Tông, thông qua chính sách hành chíữnh cũng như
qua bản thân cuộc sống của mình, đã thực hiện hàng loạt
các biện pháp chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa nhằm
xây dựng khối đoàn kết toàn dân ấy. Ta đã thấy vua có
biện pháp phát triển đồng bộ nông nghiệp, thương nghiệp
và thủ công nghiệp nhằm tạo cái ăn, cái mặc cho người
dân. Vua Trần Nhân Tông giải quyết những vấn đề xã hội
về tội phạm, về những mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân,
để tạo nên một cuộc sống quan hệ xã hội thoải mái.
Dưới thời vua Trần Nhân Tông, lần đầu tiên sử sách ta
ghi lại việc đọc những chiếu chỉ triều đình không chỉ
bằng tiếng Hán mà cả bằng tiếng Việt, tiếng nói hàng
ngày của người Đại Việt thời bấy giờ, nhằm cho mọi
tầng lớp người dân thuộc nhiều thành phần xã hội khác
nhau có thể hiểu được nội dung những chính sách liên hệ
đến số phận của họ.
Thực hiện
tất cả những chính sách ấy, thực tế vua Trần Nhân Tông
mới chỉ thể hiện vai trò một người lãnh đạo chính trị
lý tưởng, mà nền Phật giáo thời Lý đã đúc kết nên thông
qua bài viết của đại sư Giác Tính Hải Chiếu về danh tướng
Phật tử Lý Thường Kiệt: “Ông bên trong thì sáng suốt
khoan hòa, bên ngoài thì nhân từ giản dị. Cải tiến phong
tục không sợ khó nhọc. Làm việc thì tiết kiệm, sai bảo
dân thì ôn hòa, cho nên dân được nhờ cậy. Ông khoan hòa
giúp đỡ dân chúng, cho nên được nhân dân kính trọng. Ông
dùng oai vũ để diệt quân giặc. Ông đem lòng minh chính để
giải quyết ngục tụng, cho nên ngục không quá lạm. Ông biết
miếng ăn là trời của muôn dân, nghề nông là gốc của nhà
nước, cho nên không làm lỡ thời vụ. Ông tài giỏi mà không
khoe khoang, nuôi dưỡng đến cả người già ở nơi thôn dã,
cho nên người già được yên ổn. Phép tắc của ông như
thế, có thể gọi là cái gốc trị dân, cái thuật yên dân,
có bao nhiêu điều tốt đều ở đấy cả”.
Không chỉ
bằng lòng thực hiện các chính sách, mà ngay bản thân vua
Trần Nhân Tông, trong cuộc sống hàng ngày của mình, cũng
đã có những hành động thể hiện cụ thể một chính sách
đoàn kết như thế. Ta đã thấy ĐVSKTT 5 tờ 61a4-8 ghi lại
sự kiện “vua từng ngự chơi bên ngoài, giữa đường gặp
gia đồng của các vương hầu, tất gọi rõ họ tên mà hỏi:
‘Chủ mày ở đâu?’ Răn bảo các vệ sĩ không được la
đuổi. Khi về cung bèn gọi tả hữu bảo:
‘Ngày thường
thì có tả hữu chầu hầu, tới khi quốc gia nhiều khó khăn
thì chỉ bọn ấy có mặt thôi’. Bởi vì vua cảm tình sự
hộ tùng của họ trong lúc loạn ly mà nói thế”.
Sự kiện
này chứng tỏ vua Trần Nhân Tông không chỉ đánh giá cao những
người lãnh đạo tài ba thuộc tầng lớp trên của xã hội,
ngay cả những người dân thuộc tầng lớp thấp kém nhất,
tầng lớp gia đồng, vua cũng có một đánh giá như thế. Tầng
lớp này vào thời điểm ấy có thể không phải thuộc thành
phần được học hành nhiều, có của cải khá, nhưng đối
với sự tồn vong của quốc gia, họ vẫn có những đóng góp
to lớn, thậm chí bằng chính cả xương máu của chính mình.
Đánh giá
này của vua Trần Nhân Tông hình như có chung một cơ sở như
khi Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn nói về người gia nô
Yết Kiêu tại trận Nội Bàng, mà ta có dịp đề cập ở
trên: “Ơi, chim hồng hộc có thể bay cao được, tất phải
nhờ vào sáu trụ xương cánh. Nếu không có thì cũng như chim
thường thôi”. Thời đại vua Trần Nhân Tông có lẽ là thời
đại duy nhất trong lịch sử nước ta mà sự thủy chung có
trước có sau, trong hoạn nạn cũng như trong vui sướng, đã
được thể hiện rõ ràng và nhất quán. Nhà vua cần những
người nô tỳ trong chiến tranh, thì sau chiến tranh, vua vẫn
quan tâm đến cuộc sống của họ. Có thể chính sự quan tâm
này, ngoài lý do an ninh, còn có lý do kinh tế làm cho vua Trần
Nhân Tông lưu ý đến vùng Ô Mã và Việt Lý của Chiêm Thành.
Tuy viết
sau thời vua Trần Nhân Tông gần cả trăm năm, An Nam Chí Nguyên
đã nói tới tình trạng “xứ Giao Chỉ dân cư đông đúc,
đất không đủ cày”. Và trước đó, vào năm 1266, vua Trần
Thánh Tông đã cho phép các vương hầu, công chúa, phò mã,
cung phi chiêu tập dân nghèo phiêu tán các địa phương làm
nô tỳ để đi khai thác những vùng đất ruộng hoang hóa dọc
theo các vùng biển, để lập các điền trang như ĐVSKTT 5 tờ
30a4-6 đã ghi:
“Mùa
đông tháng 10 (năm Bính Dần, 1266) xuống chiếu cho vương hầu,
công chúa, phò mã và cung phi chiêu tập những người vô sản
trôi dạt làm nô tỳ khai khẩn các ruộng hoang, lập làm điền
trang, vương hầu có điền trang thực bắt đầu từ đây”.
Sự việc
khai thác ruộng hoang như thế vào những năm 1266, đã chứng
tỏ áp lực gia tăng dân số của Đại Việt đang trên đà
phát triển. Và quá trình gia tăng dân số này có thể nói
bắt đầu từ vua Lý Thánh Tông. Khi biết sáp nhập ba châu
Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính vào bản đồ Đại Việt, đồng
thời với việc thành lập thiền phái Thảo Đường. Thiền
phái Thảo Đường ra đời là nhằm yểm trợ và thỏa mãn
yêu cầu của việc sáp nhập vừa nói. Đây là một vòng phát
triển dân số lẩn quẩn. Nước Đại Việt sau 50 năm thanh
bình với những chính sách khuyến nông, khuyến thương và
phát triển thủ công nghiệp đúng đắn của các vua Lý Thái
Tổ (1010-1028) và Lý Thái Tôn (1028 - 1054) đã phát triển dân
số nước mình tới một mức mà đất đai khai thác được
đã đạt đến giới hạn của nó. Thế là cuộc chinh phạt
mở rộng biên cương bắt đầu, mà đỉnh cao là việc sáp
nhập ba châu vừa nói.
Thế nhưng
khi đã sáp nhập được ba châu ấy, thì việc gia tăng dân
số phải được khuyến khích hơn nữa cho công cuộc khai thác
những vùng đất mới sáp nhập này. Vậy là việc gia tăng
dân số phải được khuyến khích nhằm thỏa mãn yêu cầu
ấy. Việc gia tăng dân số này ngay vào những năm 1266, vua
Trần Thánh Tông đã cảm thấy áp lực của nó. Cho nên ta
không ngạc nhiên khi 40 năm sau vua Trần Nhân Tông đã sáp nhập
2 châu Ô Mã và Việt Lý.
Một lần nữa, việc sáp nhập
này đã làm áp lực dân số giảm đi ở Đại Việt. Song vì
yêu cầu của công cuộc khai khẩn vùng đất mới sáp nhập
và để tạo cho nó một nền an ninh tương đối vững chãi,
thì việc khuyến khích gia tăng dân số lại được đặt ra.
Từ đó, giống như sự ra đời của thiền phái Thảo Đường,
thiền phái Trúc Lâm ra đời để làm chỗ dựa cho công tác
phát triển dân số của nó.
Ta sẽ thấy
thiền phái này có ảnh hưởng mạnh mẽ song song với công
cuộc Nam tiến của dân tộc Việt Nam. Trong lịch sử thi cử
Việt Nam, nó là thiền phái duy nhất đã được đưa vào chương
trình thi đình của thời Lê sơ. Cụ thể là đầu đề bài
thi đình năm Cảnh Thống Nhâm Tuất (1502), đề thi này có
cả thảy 47 câu hỏi, câu hỏi thứ 15 đã đặt ra thế này:
“Điều Ngự và Huyền Quang truyền đạo gì mà được thành
Phật làm tổ?”. Lê Ích Mộc (1459 - ?) đã trả lời thế
này: “Vả đem đời gần đây mà nói, về Thượng sĩ triều
Trần thì có Tiêu Diêu, Tuệ Trung, Điều Ngự, Huyền Quang
được pháp vô thượng, cho nên có thể gắn mình vào cảnh
giới Di Đà, viết Thiền tông chỉ nam. Đó là cái đạo họ
truyền lại vậy. Về sau ai hiểu được lẽ vô sinh, chứng
tới thành niết bàn thì thành Phật làm tổ. Điều ấy cố
nhiên là phải thôi”. Nhờ trả lời đề thi kiểu ấy, Lê
Ích Mộc đã được lấy đỗ trạng nguyên.
Tư tưởng
thiền phái Trúc Lâm như vậy đã trở thành một môn học
chính quy và được các nhà vua thời Lê sơ quan tâm. Điều
này nhìn từ phía mở rộng biên cương về phía Nam của dân
tộc, ta thấy hoàn toàn dễ hiểu. Thiền phái Trúc Lâm ra đời
là nhằm yểm trợ và thỏa mãn yêu cầu của chính sách Nam
tiến của vua Trần Nhân Tông.
Nhưng đến thời Lê sơ
với những cuộc chinh phạt liên tục về phương nam, mà đỉnh
cao là cuộc viễn chinh năm 1470, khi vua Lê Thánh Tông cắm cột
mốc phía Nam của tổ quốc trên núi Đá Bia ở Phú Yên, thì
yêu cầu gia tăng dân số ngày càng mạnh mẽ. Chính quyền
Đại Việt cần đủ số dân để khai khẩn những vùng đất
mới sáp nhập và tư tưởng thiền phái Trúc Lâm thỏa mãn
yêu cầu này của chính quyền Đại Việt.
Vậy là sau
chủ trương và đường lối đoàn kết dân tộc cho sự nghiệp
giữ nước, thì tư tưởng thiền phái Trúc Lâm cho sự nghiệp
Nam tiến của dân tộc là một đóng góp khác của vua Trần
Nhân Tông cho lịch sử tư tưởng Việt Nam. Như ta đã thấy
tư tưởng thiền phái này bắt nguồn từ thiền phái Thảo
Đường do vua Lý Thánh Tông thành lập.
Nó do thế có
thể nói là một nối dài hay đúng hơn là một phát triển
cao hơn của thiền phái Thảo Đường, nếu không nói là một
hóa thân của thiền phái này. Điều đáng tiếc là toàn bộ
tư liệu về thiền phái Thảo Đường ngày nay đã hoàn toàn
bị tán thất. Ta chỉ còn một bản tên duy nhất ghi lại thế
thứ của dòng thiền này và được chép vào cuối sách Thiền
uyển tập anh. Vì vậy, mọi bàn cãi về hệ tư tưởng của
dòng thiền này tốt lắm thì cũng chỉ là những suy đoán,
từ đó dễ đưa đến những nhận định thiếu cơ sở, đôi
khi sai lầm.
Dẫu thế,
chỉ nhìn vào bản danh sách tên những thiền sư của phái
thiền này từ người đầu tiên là vua Lý Thánh Tông cho đến
vị thiền sư cuối cùng là phụng ngự Phạm Đẳng, ta thấy
trong 5 thế hệ truyền thừa, thế hệ nào cũng có các cư
sĩ thiền sư hiện diện và hầu như toàn bộ đều là viên
chức nhà nước, tức là vua và quan. Có thế hệ, cư sĩ thiền
sư chiếm tuyệt đại đa số. Thí dụ thế thứ 5 có 4 người
thì 3 người là vua và quan, đó là hoàng đế Lý Cao Tông,
xướng nhi quản giáp Nguyễn Thức và phụng ngự Phạm Đẳng.
Vậy nhìn vào bảng danh sách này, điểm đầu tiên đập vào
mắt ta chính là sự có mặt nổi trội của các cư sĩ thiền
sư. Điều này có nghĩa dòng thiền Thảo Đường là một dòng
thiền thế tục, tức dòng thiền chủ yếu phục vụ cho những
người có cuộc sống trần gian phải gánh vác.
Điểm thứ
hai mà bản danh sách đó đập vào mắt ta là thành phần xã
hội của những vị thiền sư thuộc dòng thiền thế tục
này. Họ chủ yếu là vua và quan. Ngoài vua ra thì không nói
như Lý Thánh Tông, Lý Anh Tông, Lý Cao Tông, những người còn
lại phần lớn được ghi rõ tên họ thế tục và chức tước
trại triều đình, mà cao nhất là chức thái phó, và thấp
nhất là chức xướng nhi quản giáp, một chức do Lý Thái
Tổ thiết lập vào năm 1025. Và chính cũng thành phần xã hội
này của dòng thiền Thảo Đường đã làm cho nó phải hóa
thân thành thiền phái Trúc Lâm, bởi vì không lẽ nào một
dòng thiền Phật giáo lại chỉ dành riêng cho một giai tầng
xã hội. Có lẽ đây là điểm hạn chế đã làm dòng thiền
thế tục Thảo Đường mất đi tính hấp dẫn của nó đối
với quảng đại quần chúng. Khi tách ra khỏi bộ phận quảng
đại quần chúng này, dòng thiền Thảo Đường chắc không
thể nào tồn tại, mà phải hoá thân vào một dòng thiền
mới.
Dòng thiền
mới này là Trúc Lâm Yên Tử.
Ta đã nói
dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử có cội nguồn từ dòng thiền
Thảo Đường. Nhưng để hình thành, dòng thiền Trúc Lâm Yên
Tử phải thu nhận không chỉ tinh hoa của quá khứ, mà còn
tổng hợp được những cống hiến của thời đại mình.
Ở trên, tại buổi giảng vào ngày mồng 9 tháng giêng nhuận
năm Bính Ngọ (1306) vua Trần Nhân Tông đã cám ơn Vô Nhị
Thượng Nhân và Tuệ Trung đại sĩ, là “ơn mưa pháp đã
thấm tới cho cháu con được tắm gội”. Vô Nhị Thượng
Nhân không ai khác hơn là vua Trần Thánh Tông như Thánh đăng
ngữ lục cho ta biết. Còn Tuệ Trung đại sĩ thì chính là
Tuệ Trung Trần Quốc Tung, người đã ấn chứng cho vua Trần
Nhân Tông trong sự giác ngộ thiền, như chính vua đã ghi lại
trong Thượng sĩ hành trạng.
Vua Trần
Thánh Tông là người đã sinh thành vua Trần Nhân Tông, như
vậy chắc chắn có một ảnh hưởng quyết định đối với
sự hình thành và phát triển của tư tưởng Trần Nhân Tông.
Thế thì, tư tưởng vua Trần Thánh Tông là gì. Một lần nữa,
các tác phẩm của vua Trần Thánh Tông như Văn tập, Thiền
tông liễu ngộ ca, Chí giá minh, Phóng ngư và Cừu tập ngày
nay đã tán thất hết. Tuy nhiên, căn cứ một số bài thơ
và đoạn văn còn lại tới ngày nay trong các tác phẩm như
Thánh đăng ngữ lục, Việt âm thi tập, Toàn Việt thi lục...,
ta có thể rút ra một số nhận định về tư tưởng Trần
Thánh Tông như sau.
Thứ nhất,
trong thơ văn Trần Thánh Tông thường xuất hiện tư tưởng
thiền của Lý Cao. Chẳng hạn bài thơ đầu tiên do Thánh đăng
ngữ lục tờ 12a8 - b3 chép lại của vua Trần Thánh Tông đọc
thế này:
Bốn
chục năm hơn một tấm lòng
Muôn trùng
cửa ngục vượt ra xong
Động như
hang trống gào vang gió
Tĩnh tựa
hồ yên trăng sáng trong
Câu nọ
năm huyền mình hiểu hết
Đường
kia mười chữ mặc xáo xông
Có người
hỏi tớ tin gì mới
Mây tại
trời xanh nước ở thùng.
Câu cuối
nguyên văn chữ Hán là:
Vân tại
thanh thiên, thủy tại bình.
Câu này nguyên
nằm trong bài tứ tuyệt do Lý Cao (772 - 841) viết để tặng
cho thiền sư Dược Sơn Duy Nghiễm (751 - 834):
Luyện
đắc thân hình tợ hạc hình,
Thiên chu
tùng hạ lưỡng hàm kinh.
Ngã lai vấn
đạo vô dư thuyết,
Vân tại
thanh thiên, thủy tại bình.
Điều này chứng
tỏ Trần Thánh Tông rất tâm đắc với những gì Lý Cao thể
hiện trong thơ văn mình. Với nhân vật Lý Cao này, tuy là một
Phật tử, đã có những bài điều trần lên án việc độ
tăng và làm chùa to đúc Phật lớn, cho rằng những việc làm
đó chẳng có công đức gì mà chỉ là những việc làm hút
máu mỡ của dân. Đối với việc độ tăng, Lý Cao cho rằng:
“Những môn đồ đạo Phật không chăn tằm mà quần áo đầy
đủ, không cày bừa mà ăn uống sung túc, ngồi rỗi mà kẻ
phục dịch có đến mấy nghìn trăm vạn người. Suy ra đủ
biết
tất có bao nhiêu người đói rét”. Đối với việc làm chùa,
đúc tượng, ông lý luận những việc làm ấy tốn kém hơn
xây dựng cung A phòng và đặt vấn đề: “Đó há chẳng phải
đều lấy từ nhân tài vật lực của trăm họ mà ra đó sao?”.
Ta sẽ thấy những từ vừa nêu đã xuất hiện trong nhận
xét của Lê Văn Hưu (1230 - ?) về việc làm chùa và độ tăng
của Lý Thái Tổ do Ngô Sĩ Liên ghi lại trong ĐVSKTT 2 tờ 3b5
-4a5.
Lê Văn Hưu
đã nói thế này: “Lý Thái Tổ lên ngôi vua mới được 2
năm, tông miếu chưa dựng, xã tắc chưa xây, mà trước đã
dựng 8 chùa ở phủ Thiên Đức, lại trùng tu chùa quán ở
các lộ, độ cho hơn 1000 người ở kinh đô làm sư, thì việc
tiêu phí sức lực của cải không thể kể xiết. Của không
phải do trời mưa xuống, sức chẳng phải của thần làm cho,
há chẳng phải là khơi vét máu mỡ của dân ư ? Khơi vét
máu mỡ của dân mà có thể gọi là làm phước được ư?
Vị chúa sáng nghiệp tự mình cần kiệm, còn sợ con cháu
ngày sau xa xỉ lười nhác. Thế mà Thái Tổ để phép lại
như vậy, trách gì con cháu đời sau chẳng xây tháp cao ngất
trời, dựng cột chùa bằng đá chạm, chùa Phật lộng lẫy
hơn cả cung vua.
Đám dưới
học theo, đến nỗi có kẻ hủy hoại thân thể, thay đổi
y phục, bỏ cảử sản nghiệp, trốn cả bà con, trăm họ
quá nửa là sư, trong nước đến đâu cũng có chùa, nguồn
gốc há chẳng phải từ đó mà ra sao?”.
Đọc lời
vừa bình luận của Lê Văn Hưu, người ta thường có ấn
tượng đây là một lời phê phán Phật giáo và đặc biệt
là Phật giáo nhà Lý, đứng trên quan điểm Nho giáo. Và trên
thực tế hầu hết sách vở viết về Lê Văn Hưu đều có
một nhận định chung như thế. Nhưng đó là một nhận định
hoàn toàn sai lầm do không nghiên cứu đầy đủ hệ tư tưởng
Phật giáo đời Trần. Nếu ai đã đọc tác phẩm của Lý
Cao thì sẽ thấy ngay không chỉ tư tưởng mà ngay cả văn
cú Lê Văn Hưu dùng trong lời bình luận vừa nêu, đã rút
ra từ tác phẩm của Lý Cao. Vậy trong thời Trần, ít lắm
là có hai tác giả ở nước ta đã chịu ảnh hưởng sâu đậm
hệ tư tưởng Phật giáo của Lý Cao, đó là vua Trần Thánh
Tông và Lê Văn Hưu. Đấy là chưa kể ảnh hưởng của Lý
Cao đối với thơ của thiền sư Không Lộ (? - 1119) thường
biết dưới bài Ngôn hoài.
Ta phải thấy
Lê Văn Hưu viết bộ Đại Việt sử ký theo lệnh và dưới
sự chỉ đạo của vua Trần Thánh Tông, như ĐVSKTT 5 tờ 33a8-b1
đã ghi: “Mùa xuân tháng giêng năm Nhâm Thân (1272) Hàn lâm
viện học sĩ kiêm Quốc sử viện giám tu Lê Văn Hưu vâng
lệnh viết xong Đại Việt sử ký từ Triệu Vũ Đế đến
Lý Chiêu Hoàng gồm 30 quyển, dâng lên, vua xuống chiếu khen
thưởng”.Đại Việt sử ký như thế là một bộ sử chính
thức của nhà nước Đại Việt, cụ thể là nhà nước do
vua Trần Thánh Tông lãnh đạo, tất nhiên phải phản ảnh
quan điểm và lập trường viết sử của nhà nước này. Vì
vậy ta không có gì ngạc nhiên khi tư tưởng và văn cú của
Lý Cao đã xuất hiện trong thơ văn của Trần Thánh Tông và
Lê Văn Hưu.
Dĩ nhiên
vấn đề làm chùa và độ người cho đi tu không phải đến
thời Trần Thánh Tông mới trở thành một vấn đề nổi cộm
cần xử lý. Ngay từ cuối thời Lý, vào những năm đầu của
thế kỷ thứ 13, Đàm Dĩ Mống đã đề nghị sa thải tăng
đồ với lời lẽ hết sức thô bạo, mà Đại Việt sử lược
3 tờ 13a10-b2 đã ghi lại: “Nay Tăng đồ cùng với dịch phu
quá nửa, bọn chúng tự kết bè đảng, dựng bậy thầy trò,
tụ nhóm, ở bầy, làm nhiều việc dơ, hoặc ở giới trường
tinh xá, ngang nhiên rượu thịt, hoặc tại thiền phòng tịnh
viện, riêng tự gian dâm, ngày ẩn tối ra, như đàn cáo chuột.
Chúng làm nát tục hư đạo, dần dần thành thói. Việc đó
nếu không cấm, để lâu càng tệ thêm”.
Trong các
tác phẩm của mình, Trần Thái Tông cũng đã nói đến tình
trạng: “Khi tới chùa chiền, gần Phật gần kinh, mắt không
thèm ngó, phòng tăng điện Phật, gặp gỡ gái trai, cuối mắt
đầu mày, ham mê sắc dục, không kiêng Hộ Pháp, chẳng sợ
Long Thần, trố mắt ham vui, đầu chưa từng cúi”, và “chẳng
riêng người tục, cả đến thầy Tăng, kinh luận tranh giành,
cùng nhau công kích, chê các sư trưởng, nhiếc đến mẹ cha,
cỏ nhẫn lụi vàng, lửa độc rực cháy, buông lời đau vật,
cất tiếng hại người, không nghĩ từ bi, không theo luật
cấm, bàn thiền tựa thánh, trước cảnh như ngu, dẫu ở cửa
không, chưa thành vô ngã”.
Tình trạng
chùa chiền và tăng lữ Phật giáo thời vua Trần Thái Tông
như thế. Cho nên, trong Phổ khuyến phát bồ đề tâm, Trần
Thái Tông đã đưa ra chủ trương: “Chẳng hỏi đại ẩn
tiểu ẩn, đâu phân tại gia xuất gia, chẳng nề tăng tục,
chỉ cốt rõ lòng, vốn không nữ nam, cớ sao trước tướng.
Người chưa hiểu chia bừa thành tam giáo, giác ngộ rồi cùng
thấu một chữ tâm”. Chính xuất phát từ một chủ trương
như vậy, Trần Thánh Tông và Lê Văn Hưu mới cho việc làm
chùa xây tháp là “khơi vét máu mỡ của dân” và những
kẻ xuất gia chỉ là những người “hủy hoại thân thể,
thay đổi y phục, bỏ bê sản nghiệp, trốn tránh bà con”.
Lớn lên
và được giáo dục trong một môi trường văn hóa như thế
của gia đình, tất nhiên vua Trần Nhân Tông cảm thấy tính
bức xúc của việc đề ra một giải pháp vừa có lợi cho
nước cho dân, vừa có ích cho đạo. Và chính ở đây vai trò
của Tuệ Trung Trần Quốc Tung trở nên quan trọng. Trong đoạn
văn ghi lại kinh nghiệm ngộ đạo của mình qua cuộc đối
thoại vào năm 1287 đã trích ở trên, vấn đề đặt ra hết
sức cụ thể và thường gặp, đó là:
“Chúng
sinh quen với việc uống rượu ăn thịt thì làm sao tránh được
tội báo?”. Đây là một thực tế ta có thể gặp ở bất
cứ thời nào và ở bất cứ địa phương nào, chứ không
phải chỉ là một thực tế của thời đại Trần Nhân Tông
và tại quốc gia Đại Việt. Cách giải quyết thực tế này
hết sức giản dị theo quan điểm của Tuệ Trung. Đó là đừng
đặt nó thành vấn đề.
Bản thân của việc uống rượu
ăn thịt chẳng có gì là tội phúc trong đó cả. Đúng như
Tuệ Trung đã trả lời:
Ăn
cỏ với ăn thịt
Chúng sinh
mỗi có thức
Xuân về
trăm cỏ sinh
Chỗ nào
thấy tội phúc.
Đến sau này,
khi viết bản Cư trần lạc đạo phú, Trần Nhân Tông đã
diễn tả lại quan điểm ấy một cách dễ hiểu hơn:
Ở
đời vui đạo hãy tùy duyên
Đói cứ
ăn đi mệt ngũ liền
Có báu trong
nhà thôi khỏi kiếm
Vô tâm đối
cảnh hỏi chi thiền.
Thế đã rõ,
đối với Trần Nhân Tông, Phật giáo là cuộc sống, không
có sự cách ly phân biệt, bởi vì Phật giáo là gì, nếu không
phải đó là một quá trình đi tìm chân lý. Mà chân lý thì
không nằm trong Phật giáo, mà nằm chính ngay ở giữa lòng
cuộc sống. Nói một cách hình ảnh như trong kinh Kim cương,
mà Phật giáo đời Trần coi như một bộ kinh cơ bản, thì
giáo lý Phật giáo như ngón tay chỉ mặt trăng, như chiếc
bè đưa người sang sông. Cho nên, ngay cả giáo lý Phật cũng
phải buông bỏ, mới có thể giác ngộ được. Và cũng chính
kinh này đã nhấn mạnh đến tư tưởng “tất cả pháp đều
là Phật pháp”. Từ đó, ta không ngạc nhiên với chủ trương
Cư trần lạc đạo (ở đời mà vui đạo) của vua Trần Nhân
Tông.
Bài phú viết
về tư tưởng ở đời mà vui đạo này có tên chính thức
là Cư trần lạc đạo phú, gồm 10 hội.
Cho nên, trong
bản thư mục của An Thiền viết vào đầu thế kỷ thứ 19
ở Đạo giáo nguyên lưu quyển thượng tờ 5a6, nó được
gọi là Trần triều thập hội lục. Ngay câu mở đầu của
hội thứ nhất, Trần Nhân Tông đã xác định cho ta biết
phạm trù đời và đạo ở đây có nghĩa gì:
Mình ngồi
thành thị
Nết dụng
sơn lâm
(Hội thứ
nhất)
Đời là
thành thị, đạo là sơn lâm. Nhưng một con người dù ở thành
thị, gánh vác bao nhiêu việc đời, song cách xử lý vấn đề
của người ấy vẫn thanh tịnh trong sạch như ở núi rừng.
Đây rõ ràng phản ảnh quan điểm “chẳng hỏi đại ẩn
tiểu ẩn, không chia tại gia xuất gia”, mà Trần Thái Tông
đã đề ra. Xưa nay ai cũng biết đại ẩn là sống ở thị
thành mà vẫn giữ lòng mình trong sáng, còn tiểu ẩn là tránh
vào núi rừng để trau dồi bản thân. Người Phật tử Việt
Nam vào thời Trần, như thế, tùy vào thành phần xã hội,
tùy theo khả năng, mà thể hiện đạo sống của mình ở giữa
đời.
Cho nên để
giác ngộ, họ chỉ cần:
Dứt trừ
nhân ngã,
Thì ra thực
tướng kim cương
Dừng hết
tham sân,
Mới làu
lòng mầu viên giác.
(Hội thứ
hai)
Từ đó,
không có vấn đề phải tìm một nơi nào khác, ngoài chỗ
mình đang sống, để tìm ra sự giác ngộ được. Nếu vào
thời mình vua Trần Thái Tông đã nghe quốc sư Phù Vân nói
tới việc “trong núi vốn không có Phật, Phật ở ngay trong
lòng, lòng lặng mà hiểu, đó chính là chân Phật” thì khi
viết Cư trần lạc đạo phú, vua Trần Nhân Tông cũng đã
đồng tình:
Áng tư tài,
tính sáng chẳng tham,
Há vì ở
Cánh Diều Yên Tử
Rần thanh
sắc, niệm dừng chẳng chuyển,
Lọ chi ngồi
am Sạn non Đông.
Đâu phải
vì sống ở trên núi Cánh Diều của Yên Tử hay tại am Sạn
của Đông Sơn, mà người ta có thể giác ngộ được.
Những nơi
ấy có thể để cho ta ngắm nhìn vẻ đẹp của non sông, mà
di dưỡng tinh thần, như Huyền Quang đã viết trong Vịnh Vân
Yên tự phú:
Ta nay:
Ngồi đỉnh
Vân Tiêu
Cưỡi chơi
Cánh Diều
Coi Đông
Sơn tựa hòn kim lục
Xem Đông
Hải tựa miệng con ngao
Sự giác
ngộ do thế phải tìm ở giữa cuộc đời. Đừng tìm nó trong
rừng núi. Tuy nhiên ,vua Trần Nhân Tông không phải đi đến
chỗ cực đoan phủ nhận lợi ích của rừng núi và cuộc
sống ở rùng núi. Bản thân vua Trần Nhân Tông đã nhiều
lần vào sống những nơi rừng núi hoang dã như Yên Tử, Vũ
Lâm. Trong Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca, vua Trần Nhân
Tông đã tả lại cuộc sống rừng núi ấy:
Yên bề phận
khó
Kiếm chốn
dưỡng thân
Khuất tịch
non cao
Náu mình
sơn dã
Vượn mừng
hủ hỷ
Làm bạn
cùng ta
Vắng vẻ
ngàn kia
Sanh lòng
hỷ xả
Điểm quan
trọng không phải là sống ở rừng núi hay thị thành. Vấn
đề là làm sao giác ngộ được sự thật. Đấy là mấu
chốt của vấn đề. Ta đã thấy sự giác ngộ có thể tìm
thấy ở bất cứ nơi đâu, đặc biệt là chính giữa cuộc
đời trần tục đầy những hệ lụy thế sự. Chính trong
cuộc đời trần tục ấy mà giác ngộ được thì giá trị
còn nâng lên gấp bội. Bởi vì bất cứ một đất nước
nào cũng đều là một cộng đồng dân tộc với nhiều nghĩa
vụ xã hội và liên đới trách nhiệm. Không ai có thể tồn
tại bên ngoài xã hội. Do thế, vua Trần Nhân Tông đã ca ngợi
và quý trọng một sự giác ngộ được thực hiện ở giữa
cuộc đời đầy phiền lụy và liên đới ấy, mà bản thân
vua là một thí dụ điển hình:
Trần tục
mà nên, phúc ấy càng yêu hết tấc
Sơn lâm
chẳng cốc, họa kia thực cả uổng công.
(Hội thứ
ba)
Thực tế
bản thân vua Trần Nhân Tông đã tìm thấy sự giác ngộ của
mình chính trong những ngày rộn rịp nhất của cuộc đời
mình khi đang ráo riết chuẩn bị để đối phó với cuộc
chiến tranh do Hốt Tất Liệt tiến hành đối với nước ta
vào mùa hè năm 1287. Thời điểm giác ngộ này lại xảy ra
ngay sau khi mẹ vua Trần Nhân Tông vừa mất. Giữa bao nhiêu
biến động và phiền toái của cuộc đời, con người vẫn
tìm ra những giờ phút an nhàn tự tại cho bản thân mình.
Đúng như
Trần Nhân Tông đã nói:
Muôn nghiệp
lặng, an nhàn thể tính
Nửa ngày
rồi, tự tại thân tâm
Từ đó mọi
người nếu đạt được “muôn nghiệp lặng” thì thể tính
mình an nhàn. Sự giác ngộ đâu cần tách rời con
người,
và đức Phật ở ngay bên trong mỗi một chúng ta. Vua Trần
Nhân Tông nói nếu mỗi một chúng
ta sống có đạo
đức nhân
nghĩa, sống có kỷ luật và rộng lượng thì mỗi một chúng
ta đều là những vị Phật Thích Ca, vị
Phật Di Lặc
Tích nhân
nghì, tu đạo đức
Ai hay này
chẳng Thích Ca
Cầm giới
hạnh, đoạn xan tham,
Chỉn thực
ấy là Di Lặc.
(Hội thứ
tư)
Như thế
đâu chỉ có một vị Phật Thích Ca lịch sử và một vị
Phật Di Lặc của tương lai. Người Phật giáo thời đại
Trần Nhân Tông thấy mình có thể sống như những vị Phật
này, nếu cùng với nhân nghĩa và đạo đức, họ có một
cuộc sống giản dị:
Áo miễn
chăn đầm ấm qua mùa
hoặc chằm
hoặc xể
Cơm cùng
cháo đói no đòi bữa
dầu bạc
dầu thoa
(Hội thứ
năm)
Đọc hai
câu này ta nhớ đến sự kiện vua Trần Nhân Tông, sau khi cứ
điểm Nội Bàng thất thủ vào cuối năm Giáp Thân, đã từ
kinh thành đi ra Hải Đông gặp Trần Hưng Đạo, suốt ngày
không ăn, đến chiều tối có tên tiểu tốt Trần Lai đem
dâng cho vua một bát cơm gạo xấu, mà ĐVSKTT đã ghi lại ở
trên. Người Phật tử Việt Nam, đến ngay như cả một vị
vua, đã sống giản dị như thế, nhưng họ là những người:
Sạch giới
lòng, dồi giới tướng,
nội ngoại
nên Bồ Tát trang nghiêm
Ngay thờ
chúa, thảo thờ cha,
đi đỗ
mới trượng phu trung hiếu.
(Hội
thứ sáu)
Mẫu người
Phật tử Việt Nam thời Trần, như thế, là một mẫu người
Bồ Tát trang nghiêm, là một mẫu người trượng phu trung hiếu.
Bồ Tát dĩ nhiên là một phạm trù tư tưởng lớn của Phật
giáo, còn trượng phu là một phạm trù của tư tưởng Nho
giáo. Nhưng cứ đọc các tác phẩm Nho giáo nói về trượng
phu, ta mới thấy những đóng góp mới của Trần Nhân Tông.
Trong thiên Đằng Văn Công hạ của Mạnh tử ta được bảo
rất rõ thế nào là một trượng phu: “Phú quý bất năng
dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất, thử chi
vị đại trượng phu” (giàu sang không thể mê hoặc, nghèo
hèn không thể lay chuyển, uy vũ không thể khuất phục, đó
gọi là đại trượng phu).
Trượng phu
trong tư tưởng Nho giáo là thế, nhưng so với định nghĩa
của Trần Nhân Tông ta thấy nội dung đó hạn hẹp và tủn
mủn, bởi vì “ngay thờ chúa, thảo thờ cha”, một con người
như thế tất không thể nào bị tác động bởi giàu sang nghèo
hèn hay uy vũ. Nội hàm của phạm trù trượng phu trong tư tưởng
Trần Nhân Tông do vậy tỏ ra rộng lớn và phong phú hơn nhiều.
Đây là một thí dụ điển hình khác của việc tổ tiên ta
có thể sử dụng một số từ ngữ Trung Quốc, mà khi đọc
lên, thường gây ấn tượng mang sắc thái Nho giáo. Nhưng khi
đi sâu vào phân tích, ta thấy những từ ngữ này mang một
nội dung khác hẳn. Trước đây, chúng tôi đã thử phân tích
tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi mà người ta thường
cho là của Nho giáo, và đã đạt đến những kết luận hoàn
toàn khác hẳn.
Từ đó mẫu
người lý tưởng của Phật giáo Việt Nam lần đầu tiên
được quy định một nội dung hết sức cụ thể. Họ không
chỉ “sạch giới lòng, dồi giới tường”để trở nên
“Bồ Tát trang nghiêm”, mà còn “ngay thờ chúa, thảo thờ
cha”để thành những “trượng phu trung hiếu”. Đây có
thể nói là một đúc kết về hình tượng người Việt Nam
lý tưởng, chứ không phải chỉ của Phật giáo. Thực tế
những người làm nên sự nghiệp oanh liệt của dân tộc ta
vào thời Trần Nhân Tông có thể nói hầu hết đều là Phật
tử, từ những vị lãnh đạo tối cao ở trung ương như Trần
Hưng Đạo, Trần Quang Khải cho đến những người dân ở
xã ấp như Lê Công Mạnh và anh em con cháu. Vì họ là những
Bố Tát trang nghiêm nên đối với bản thân họ giữ gìn kỷ
luật và sống cuộc sống có lý tưởng. Nhưng đồng thời
họ cũng là những trượng phu trung hiếu, nên họ trung thành
với tổ quốc ,ợ sống hiếu thảo với cha mẹ ông bà:
Vâng ơn Thánh,
xót mẹ cha,
thờ thầy
học đạo.
Mến đức
Cồ, kiêng bùi ngọt,
cầm giới
ăn chay.
(Hội thứ
bảy)
để có thể
đóng góp cho xã hội qua những công tác cụ thể như bắc
cầu, đóng đò với một tấm lòng hỷ xả, từ bi:
Dựng cầu
đò, dồi chiền tháp,
Ngoại trang
nghiêm sự tướng hãy tu.
Săn hỷ
xả, nhuyễn từ bi
Nội tự
tại kinh Lòng hằng đọc
(Hội
thứ tám)
Sau hai cuộc
chiến tranh do quân thù áp đặt vào những năm 1285 và 1288,
bao nhiêu cơ sở hạ tầng của đất nước ta, đặc biệt
là hệ thống cầu cống và bến đò, do yêu cầu tác chiến
về phía ta cũng như sự tàn phá không tiếc thương của kẻ
thù, đã bị hủy hoại gần hết. Thế mà trong lần đi sứ
vào năm Chí Nguyên Nhâm Thìn (1292), tên phó sứ Trần Phu đã
thấy ở kinh đô Thăng Long của Đại Việt những chiếc cầu
bắc qua sông hùng vĩ. Y viết: “Từ sứ quán đi 60 dặm thì
qua tới cầu An Hóa, lại đi một dặm thì đến phía bắc
cầu Thanh Hóa. Trên cầu này là một ngôi nhà 19 gian” như
ta đã thấy ở trên. Cả nước Đại Việt là một công trường
xây dựng lớn sau chiến tranh. Người dân Đại Việt hăng
say lao động để kiến tạo lại đất nước mình sau những
năm chiến tranh gian khổ và mất mát.
Chính hình
ảnh và khí thế của những con người lao động như thế
đã đập vào mắt người lãnh đạo đất nước, để lại
trong tâm khảm những ấn tượng khó phai mờ. Cho nên khi viết
Cư trần lạc đạo phú, vua Trần Nhân Tông đã không quên
đưa việc dựng cầu đò, xây chiền tháp để làm cho đất
nước đẹp đẽ, trở thành một nhiệm vụ, một nghĩa vụ
mà người Phật tử Việt Nam có bổn phận phải hoàn thành
đối với tổ quốc. Và tổ quốc Việt Nam sau những năm tháng
chiến tranh ấy đã trở thành một cõi đất Phật, mà trạng
nguyên Huyền Quang Lý Tải Đạo đã diễn tả trong bài phú
Vịnh chùa Vân Yên:
Phen những
ôi!
Tây Trúc
dường nào
Namchâu có
mấy
Non Linh Thứu
ai đem về đây
Cảnh Phi
Lai mặt đà thấy đáy,
Vào chưng
cõi Thánh thênh thênh
Thoát rẽ
lòng phàm phây phấy
Đất nước
Việt Nam vào thời ấy được nhìn như thế. Cho nên, người
dân đã sẵn sàng hy sinh chiến đấu để bảo vệ, và cũng
sẵn sàng hăng say xây dựng để kiến tạo một cõi Phật
cho chính mình và con cháu. Người Phật tử Việt Nam vào thời
ấy tuy có nhận định việc xây dựng chùa chiền là “khơi
vét máu mỡ của dân”, nhưng không phải cực đoan đi đến
chỗ phủ nhận việc xây dựng chùa chiền, hay chống lại
một sự nghiệp như thế. Có lẽ trong tâm thức tầng lớp
lãnh đạo Phật tử Việt Nam thời đó vẫn thấy chùa chiền
là nơi để củng cố nền vững bền của đất nước.
Phạm Sư
Mạnh, người học trò xuất sắc của Chu Văn An (1292 -1371),
đã viết về chùa Báo Thiên với những câu
Trấn áp
đông tây củng đế kỳ
Khuy nhiên
nhất tháp độc nguy nguy
Sơn hà bất
động kình thiên trụ
Kim cổ nan
ma lập địa chu
(Trấn áp
đông tây giữ đế đô
Ngang nhiên
ngọn tháp vút lên nhô
Non sông
vững chãi tay trời chống
Kim cổ dựng
xây đất khó mờ)
Và gần hai
trăm năm sau, vua Lê Thánh Tông vẫn viết về chùa Trấn Quốc
trong cùng một mạch suy nghĩ như vậy:
Trung lập
càn khôn vững đế đô
Mãng danh
Trấn Quốc ở Tây Hồ
Cho nên, vua
Trần Nhân Tông vẫn kêu gọi mọi người, không chỉ “dựng
cầu đò”, mà còn phải “dồi chiền tháp”, vẫn đánh
giá cao vai trò của chùa chiền trong đời sống văn hóa xã
hội của người dân, như chính vua Trần Nhân Tông đã nhận
xét:
Núi hoang
rừng quạnh,
ấy là nơi
dật sĩ tiêu dao.
Chiền vắng
am thanh,
chỉn thực
cảnh đạo nhân du hí
Quả vậy,
dù nói gì thì nói, ngôi chùa trong một buổi chiều thu nào
đó có thể đã gợi cho họ những cảm xúc man mác, mà bản
thân vua Trần Nhân Tông đã trải qua:
Chùa cổ
đìu hiu khuất khói thu
Thuyền câu
chiều quạnh tiếng chuông đưa
Nước quang
núi lặng bay âu trắng
Gió đứng
mây đùa cây đỏ thưa
(Cổ tự
thê lương thu ái ngoại
Ngư thuyền
tiêu sắt mộ chung sơ
Thủy minh
sơn tịnh bạch âu quá
Phong định
vân nhàn hồng thụ sơ)
Nhưng dựng
cầu đò, xây chiền tháp, người Phật tử Việt Nam thời
Trần Nhân Tông vẫn không quên nhiệm vụ chủ yếu của mình
là đi tìm sự giác ngộ thông qua chính cuộc sống trần thế
của mình:
Rèn lòng
làm Bụt,
chỉn xá
tua một sức dồi mài.
Đãi cát
kén vàng,
còn lại
phải nhiều phen lựa lọc.
Song để
“rèn lòng làm Bụt”, người Phật tử có nhiều cách. Có
thể họ học theo lối của thiền sư Nam Tuyền Phổ Nguyện
chém mèo, hoặc theo cách Tử Hồ Lợi Tung đuổi chó v.v.
Vương lão
chém mèo,
rạt thảy
lòng ngừa thủ tọa
Thầy Hồ
khua chó,
trỏ xem
trí nhẹ con giàng.
(Hội thứ
chín)
Và còn nhiều
phương pháp giác ngộ khác nhau nữa, mà vua Trần Nhân Tông
đã dành cả hội thứ chín này để trình bày từ thời sơ
tổ Đạt Ma gặp vua Vũ Đế nhà Lương cho đến thiền sư
Linh Vân Chí Cần thấy hoa đào nở mà giác ngộ, đại sư
Hương Nghiêm khi cuốc đất, hòn đá văng vào cây trúc, nghe
tiếng gõ và hiểu được chuyện trước khi cha mẹ sinh ra
ta là ai. Dù có nhiều phương pháp và phương thức giác ngộ
khác nhau, nhưng chúng vẫn không khác nhau là mấy, vì chân
lý giác ngộ là một:
Vậy cho hay:
Cơ quan tổ
giáo
Tuy khác
nhiều đàng
Chẳng cách
mấy gang.
(Hội
thứ chín)
Sống đời
mà vui đạo theo vua Trần Nhân Tông như thế là một cuộc
sống thiền, có thể dùng các phương pháp thiền khác nhau
để giác ngộ, chứ không gò bó vào bất cứ một lối thiền
nhất định nào. Người hành giả có nhiều lựa chọn, nhưng
điểm đến cuối cùng vẫn không thay đổi, đó là tìm sự
giác ngộ trong đời sống thường ngày của mình, không phân
biệt sơn lâm hay thành thị:
Tượng chúng
ấy
Cốc một
chân không
Dùng đòi
căn khí
Nhân lòng
ta vướng chấp khôn thông
Há cơ tổ
nay còn thửa bí
Chúng tiểu
thừa cốc hay chửa đến,
Bụt xá
ngăn bảo sở hóa thành
Đấng thượng
sĩ chứng thực mà nên
Ai ghẻ có
sơn lâm thành thị
(Hội thứ 10)
Phương pháp
thiền khác nhau là vì dùng cho những căn cơ khác nhau, nhưng
chân lý là một. Nếu chúng ta chưa giác ngộ được thì vì
bản thân mình chưa đạt tới chứ không phải vì các phương
pháp Phật tổ bày ra mà không thực hiện được. Tất nhiên
vua Trần Nhân Tông cũng giống như các thiền sư trước thời
mình đều biết rõ thiền không phải dễ giác ngộ gì. Cho
nên trong Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca vua đã nói tới
tình trạng:
Phô người
học đạo
Vô số nhiều
thay
Trúc hóa
nên rồng
Một hai
là họa
Thực tế
này không phải là mới. Một thiền sư Trung Quốc là Vĩnh
Minh Diên Thọ (904 -975) cũng từng nói đến việc tu thiền
“muôn người tu thì một người được”. Còn bản thân
vua Trần Nhân Tông cũng thấy là vô số người tu thiền, nhưng
chứng được thiền thì họa may có được một hai. Và chính
ngay vua Trần Thái Tông cũng nói đến tình trạng những vị
sư tu thiền là “bàn thiền tợ thánh, đối cảnh như ngu”.
Lý do cho tình trạng này, vua Trần Nhân Tông đã chỉ ra cũng
ở Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca:
Bởi lòng
vờ vịt
Trỏ bắc
làm nam
Chỉ ra như
thế này ta thấy đâu đây như vang bóng câu trả lời của
Pháp Minh cho hoàng đế Lý Miễu cách thời vua Trần Nhân Tông
đã gần ngàn năm: “Ôm lấy chuyện bậy để hy vọng điều
phải, giữ chặt việc giả để chờ đợi sự chân, chần
chờ hai lòng, trù trừ đôi ngả thì Phật dù có phóng quang
động địa, ai mà có thể thấy cho ư?”.1 Rõ ràng, lòng vờ
vịt của vua Trần Nhân Tông chính là lối “chần chờ hai
lòng, trù trừ đôi ngả” của những người muốn thấy Phật
vào thời Lý Miễu. Một khi lòng dạ đã vậy, thì chắc chắn
chỉ “ôm chuyện bậy mà mong điều phải, giữ việc giả
để chờ sự chân”, bảo đi về hướng bắc nhưng lại theo
phương nam mà rảo bước. Thế thì làm sao mà hy vọng giác
ngộ được.
Tuy nhiên,
khi đã giác ngộ rồi, thì đâu có phân biệt gì sự khác
nhau giữa sơn lâm và thành thị, giữa đạo và đời, giữa
cuộc sống tĩnh lặng trong rừng núi và công việc xô bồ
ở phố phường. Nội dung của tư tưởng Cư trần lạc đạo
là thế.
Nó được
hình thành để thỏa mãn yêu cầu lý luận cho một giai đoạn
Phật giáo mới, giai đoạn người Phật tử phải thực hiện
nhiệm vụ dân tộc của mình, đồng thời phải tạo cho Phật
giáo một sức sống mới bằng cách đưa giáo lý vào trong
việc thực hiện nhiệm vụ dân tộc đó, mà bản thân vua
Trần Nhân Tông là một điển hình nổi bật.
Ta đã thấy
sau khi xuất gia “mặc cà sa, nằm trướng giấy” với “cà
một vò, tương một hũ” ở tại núi Yên Tử, vua Trần Nhân
Tông đã không bao giờ sao nhãng đối với các vấn đề đất
nước, đặc biệt là vấn đề Chiêm Thành. Hai châu Ô, Lý
đã trở thành đất đai Đại Việt trong thời gian vua đã
xuất gia. Đây phải nói là một điểm sáng lạ kỳ trong đời
sống của một người xuất gia như vua Trần Nhân Tông. Chưa
bao giờ trong lịch sử Phật giáo ở nước ta hay ở bất cứ
một nước nào khác, mà một người xuất gia lại có thể
mở mang bờ cõi, và mở mang bờ cõi một cách hòa bình. Căn
cứ vào giới luật của hàng Phật tử bình thường sống
ở các chùa chiền, mà ta hay gặp, thì một người xuất gia
không bao giờ được phép đi làm mai mối cho việc dựng vợ
gả chồng. Thế mà Hương Vân Đại Đầu Đà đã làm việc
đó và đã làm một cách thành công. Tất nhiên, Phật giáo
Việt Nam, đặc biệt là Phật giáo thiền tông, có những quy
định giới luật của riêng mình, mà họ gọi là “quy ước
thiền đường”, như nhan đề một cuốn sách của thiền
sư Minh Giác Kỳ Phương (1682-1744) đã có và thường không
liên hệ nhiều với loại giới luật bình thường của nó.
Điểm đặc
biệt thứ hai là sau khi đã làm mai mối thành công như thế,
vua Trần Nhân Tông trở về Đại Việt gặp sự chống đối
của hầu hết triều đình, đặc biệt là tầng lớp trí thức
thời bấy giờ. Họ đã viết văn làm thơ để chê cười
việc Hương Vân Đại Đầu Đà đem cô con gái cành vàng lá
ngọc của mình gả cho vua Chiêm mà họ cho là tên mọi, một
giống người hạ cấp. Quan điểm kỳ thị này hơn một trăm
năm sau, những trí thức như Ngô Sĩ Liên vẫn tiếp tục bám
lấy và lên tiếng bình luận:
“Xưa Hán
Cao Hoàng vì Hung Nô nhiều lần làm khổ biên giới, đem con
gái nhà dân làm công chúa để gả cho thiền vu. Kết hôn với
người không phải giống, tiên nho đã từng chê, song có ý
muốn việc binh đao được chấm dứt và dân được yên. Điều
đó còn có thể nói được. Nguyên Đế nhà Hán, nhân Hô Hàn
đến, chầu xin làm rể nhà Hán, nhà Hán đem Vương Tường
gả cho, cũng là có cớ. Còn Nhân Tông đem con gái gả cho chúa
Chiêm Thành là nghĩa gì? Nếu nói nhân đi chơi, trót hứa,
sợ thất tín, thì sao không đổi mệnh được ư? Vua giữ
ngôi trời, còn Thượng hoàng thì đã xuất gia, vua đổi mệnh
có khó gì, mà lại đem gả cho người xa không phải giống
cho đúng lời hứa trước, rồi lại dùng mưu gian đánh cướp
lại về sau, thế thì tín ở đâu?”.
Phải là
một người thấm nhuần sâu sắc tư tưởng Phật giáo như
vua Trần Nhân Tông mới có một cái nhìn bình đẳng về con
người. Từ thời Mâu Tử, người Phật giáo đã sử dụng
lý luận mọi người đều có tính Phật để bác bỏ tư tưởng
kỳ thị của Đại Hán cùng sự hùa theo của đám nhà Nho
để coi dân tộc ta là mọi rợ và người Hán là Hoa Hạ.
Nghe lời bình luận vừa nêu của Ngô Sĩ Liên, ta vẫn còn
thấy phảng phất thứ tư tưởng kỳ thị a dua ấy. May mắn
cho dân tộc là vào lúc đó còn có các nhà lãnh đạo đất
nước có trách nhiệm đã thấm nhuần sâu sắc giáo lý Phật
giáo như Văn Túc Vương Trần Đạo Tải và Trần Khắc Chung
đã quyết định việc này, và đưa đến một kết thúc êm
đẹp. Công chúa Huyền Trân đã đi về nhà chồng và nhân
dân Đại Việt không tốn một mũi tên, một người lính mà
có
thêm một dãi đất trên 200 cây số.
Hệ tư tưởng
của dòng thiền Trúc Lâm do vua Trần Nhân Tông sáng lập, như
thế đã giải quyết một loạt các vấn đề đặt ra cho Phật
giáo Việt Nam vào thời đó nhằm cơ bản thỏa mãn được
các đòi hỏi của dân tộc, mà trước đó chưa được thỏa
mãn. Ta đã thấy không phải vô cớ mà tư tưởng Cư trần
lạc đạo đã được đề ra và xác định nội dung. Một
lần nữa, hệ tư tưởng này đã được chứng minh là xuất
phát từ thực tiễn của Đại Việt và có nhiệm vụ giải
quyết những vấn đề do thực tiễn này phát sinh.
Trên đây
chúng tôi chỉ nêu một số vấn đề cơ bản mà tư liệu
hiện nay cho phép. Chúng tôi chưa bàn đến những vấn đề
thuần túy chuyên môn liên hệ về thiền. Chẳng hạn vấn
đề có không, mà trong buổi giảng cuối đông năm Giáp Thìn
(1304) tại chùa Sùng Nghiêm, vua Trần Nhân Tông đã có một
bài thơ dài thuyết giảng. Tất nhiên về vấn đề này cuối
cùng Trần Nhân Tông cũng nói nó là “như thế như thế”,
nghĩa là, đòi hỏi người đối thoại tham học tự mình giải
quyết lấy thông qua những gợi mở của người hướng đạo
mình. Thực tế này, như vua Trần Nhân Tông đã trình bày trong
Cư trần lạc đạo phú, chỉ để cho những “thượng sĩ
thực chứng mà nên”. Những vị thượng sĩ này trong dòng
thiền Trúc Lâm có thể thuộc nhiều thành phần xã hội khác
nhau, không nhất thiết giới hạn chủ yếu trong các viên chức
nhà nước.
Sau thời
Trần Nhân Tông, Phật giáo đã phát triển theo hướng tư tưởng
Cư trần lạc đạo này. Phật giáo không còn dành riêng cho
bất cứ một bộ phận nào của xã hội, dù bộ phận đó
có ưu tú tới đâu. Nó lan khắp mọi tầng lớp nhân dân,
đúng như văn bia do Lê Quát viết cho chùa Thiệu Phúc ở Bái
thôn thuộc lộ Bắc Giang vào năm 1270 và Ngô Sĩ Liên đã chép
lại trong ĐVSKTT 7 tờ 36a3-b4 như sau: “Nhà Phật lấy họa
phúc để cảm động lòng người, sau được người ta tin
sâu bền như thế. Trên từ vương công cho đến dân thường,
hễ bố thí vào việc Phật thì tuy đổ hết tiền của cũng
không sẻn tiếc, ví như ngày nay gửi gắm vào tháp chùa thì
trong lòng hớn hở như cầm được khoán ước để hưởng
được sự báo ứng này về sau. Cho nên trong từ kinh thành
ngoài đến châu phủ, cho đến thôn cùng ngõ hẻm, không bảo
mà theo, không thề mà tin. Chỗ nào có nhà người ở, tất
chỗ đó có chùa Phật, hỏng rồi lại xây, hư rồi lại sửa.
Lâu đài chuông trống so với dân cư chiếm đến nửa phần.
Đạo Phật thịnh rất dễ dàng, mà sự tôn sùng lại rất
lớn. Ta tuổi trẻ đọc sách, khảo xét xưa nay cũng hiểu
sơ được đạo Thánh hiền để giáo hóa dân này, mà rốt
cuộc chưa thể làm cho một làng tin theo, từng dạo xem núi
sông, dấu chân in đến nửa thiên hạ, mà tìm cái gọi là
nhà học văn miếu, thì chưa từng có thấy một nơi. Ta do
thế rất lấy làm xấu hổ với tín đồ nhà Phật, bèn viết
ra đây để tỏ lòng”. Sự hưng thịnh của Phật giáo cho
đến cuối thế kỷ thứ 14, khi nhà Trần đã suy vong, chắc
chắn đã xuất
phát từ hệ tư tưởng Cư trần lạc
đạo vừa nói. Phật giáo không dành riêng cho một bộ phận
những người tu hành,
cũng chẳng phải riêng một bộ
phận quý tộc hay viên chức nhà nước. Phật giáo là của
mọi người, khắp hang cùng ngõ
hẻm, ở đâu có nhà
dân thì ở đó có chùa Phật, như Lê Quát đã nói. Sự hưng
thịnh này có sự đóng góp không nhỏ của
vua Trần Nhân
Tông và hệ tư tưởng của dòng thiền do vua sáng lập. Sự
thật như thế, với minh văn như thế. Vậy
mà vẫn có
những người cứ bảo Phật giáo suy tàn vào cuối thời Trần.
Đặc biệt sau cái chết của thiền sư Huyền
Quang (1254-1334)
thì Phật giáo “thời hưng thịnh chấm dứt”.1
Không những
không hết một thời thịnh vượng, Phật giáo thiền phái
Trúc Lâm còn phát triển mạnh mẻ, để chuẩn bị gánh vác
trước dân tộc và đạo pháp những nhiệm vụ mới mà lịch
sử đã giao phó. Lợi dụng lúc đất nước ta có vấn đề,
bọn xâm lược Minh đã tràn qua. Thế là cả một dân tộc
đứng lên cầm vũ khí, từ nhà sư như Phạm Ngọc, cho đến
những Phật tử như Trần Trùng Quang, Lê Lợi, Nguyễn Trãi
để đánh đuổi quân thù với kết cục là những chiến thắng
Chi Lăng, Xương Giang vang dội đem lại nền độc lập cho tổ
quốc và sự ra đời của nhà Lê. Phật giáo thiền Trúc Lâm
Yên Tử do thế, đã tiếp tục sự nghiệp vì đạo vì dân
của mình vào các triều đại sau với các nhân vật nổi bật
như thiền sư Đạo Khiêm (? - 1445?), thiền sư Viên Thái (1400
- 1460?), trạng nguyên Lê Ích Mộc (1459 - ?), thiền sư Pháp
Tính (1470 - 1550?), thiền sư Thọ Tiên Diễn Khánh (1550 -1620?),
thiền sư Chân An Tuệ Tĩnh (?-1711), thiền sư Chân Nguyên Tuệ
Đăng (1648 - 1726) và đặc biệt thiền sư Hải Lượng Ngô
Thời Nhiệm (1746 - 1803). Nhưng đây sẽ là chủ đề cho một
nghiên cứu khác.
--o0o--
Mục
lục
Phần
I:
Chương
I|
Chương
II |
Chương
III
|Chương
IV
|Chương
V
|Chương
VI
|Chương
VII
|Chương
VIII
|Chương
IX
Phần
II:
|Lời
dẫn |Thơ
|Phú
|Bài
giảng
|Ngữ
lục|Văn
xuôi
|Văn
thư
---o0o---
| Thư Mục
Tác Giả |
---o0o---
Chân thành Đạo hữu Tâm Diệu đã gởi
tặng phiên bản điện tử tập sách này
(Trang nhà Quảng Đức, 02/2002)
Trình bày : Nhị Tường