PHẦN
II
TÁC PHẨM
TRẦN NHÂN TÔNG
--o0o--
PHÚ
TRẦN
NHÂN
TÔNG
CƯ
TRẦN
LẠC
ĐẠO
PHÚ
HỘI
THỨ
NHẤT
Mình
ngồi
thành
thị;
Nết
dụng
sơn
lâm.
Muôn
nghiệp
lặng
an
nhàn
thể
tính;
Nửa
ngày
rồi
tự
tại
thân
tâm.
Tham
ái
nguồn
dừng,
chẳng
còn
nhớ
châu
yêu
ngọc
quý;
Thị
phi
tiếng
lặng,
được
dầu
nghe
yến
thốt
oanh
ngâm.
Chơi
nước
biếc,
ẩn
non
xanh,
nhân
gian
có
nhiều
người
đắc
ý;
Biết
đào
hồng,
hay
liễu
lục,
thiên
hạ
năng
mấy
chủ
tri
âm.
Nguyệt
bạc
vừng
xanh,
soi
mọi
chỗ
thiền
hà
lai
láng;
Liễu
mềm
hoa
tốt,
ngất
quần
sinh
tuệ
nhật
sâm
lâm.
Lo
hoán
cốt,
ước
phi
thăng,
đan
thần
mới
phục;
Nhắm
trường
sinh,
về
thượng
giới,
thuốc
thỏ
còn
đam.
Sách
Dịch
xem
chơi,
yêu
tính
sáng
yêu
hơn
châu
báu;
Kinh
nhàn
đọc
dấu1,
trọng
lòng
rồi
trọng
nữa
hoàng
kim.
HỘI
THỨ
HAI
Biết
vậy!
Miễn
được
lòng
rồi;
Chẳng
còn
phép
khác.
Gìn
tính
sáng
tính
mới
hầu
an;
Nén
niềm
vọng,
niềm
dừng
chẳng
thác.
Dứt
trừ
nhân
ngã,
thì
ra
tướng
thực
kim
cương;
Dừng
hết
tham
sân,
mới
lảu
lòng
màu
viên
giác.
Tịnh
độ
là
lòng
trong
sạch,
chớ
còn
ngờ
hỏi
đến
Tây
phương;
Di
Đà
là
tính
sáng
soi,
mựa1
phải
nhọc
tìm
về
Cực
lạc.
Xét
thân
tâm,
rèn
tính
thức,
há
rằng
mong
quả
báo
phô
khoe;
Cầm
giới
hạnh,
địch
vô
thường,
nào
có
sá
cầu
danh
bán
chác.
Ăn
rau
ăn
trái,
nghiệp
miệng
chẳng
hiềm
thuở
đắng
cay;
Vận
giấy
vận
sồi2,
thân
căn
có
ngại
chi
đen
bạc.
Nhược
chỉn3
vui
bề
đạo
đức,
nửa
gian
lều
quý
nữa
thiên
cung;
Dầu
hay
mến
thuở
nhân
nghì,
ba
phiến
ngói
yêu
hơn
lầu
gác.
HỘI
THỨ
BA
Nếu
mà
cốc,4
Tội
ắt
đã
không.
Phép
học
lại
thông.
Gìn
tính
sáng,
mựa
lạc
tà
đạo;
Thửa5
mình
học,
cho
phải
chính
tông.
Chỉn
bụt
là
lòng,
xá6
ướm
hỏi
đòi
cơ
Mã
tổ;
Vong
tài
đối
sắc,
ắt
tìm
cho
phải
thói
Bàng
công.
Áng
tư
tài,
tính
sáng
chẳng
tham,
há
vì
ở
Cánh
Diều
Yên
Tử
;
Rần
thanh
sắc
niềm
dừng
chẳng
chuyển,
lọ
chi
ngồi
am
Sạn
non
Đông.
Trần
tục
mà
nên,
phúc
ấy
càng
yêu
hết
tấc
Sơn
lâm
chẳng
cốc,
họa
kia
thực
cả
đồ
1
công.
Nguyền
mong
thân
cận
minh
sư,
quả
bồ
đề
một
đêm
mà
chín;
Phúc
gặp
tình
cờ
tri
thức,
hoa
ưu
đàm
mấy
kiếp
đơm
bông.
HỘI
THỨ
TƯ
Tin
xem:
Miễn
cốc
một
lòng;
Thì
rồi
mọi
hoặc.
Chuyển
tam
độc
mới
chứng
tam
thân
;
Đoạn
lục
căn,
nên
trừ
lục
tặc.
Tìm
đường
hoán
cốt,
chỉn
xá
năng
phục
dược
luyện
đan;
Hỏi
phép
chân
không,
hề
chi
lánh
ngại
thanh
chấp
sắc.
Biết
chân
như,
tin
bát
nhã,
chớ
còn
tìm
Phật
tổ
Tây
Đông;
Chứng
thực
tướng,
ngõ
vô
vi,
nào
nhọc
hỏi
kinh
Thiền
Nam
Bắc.1
Xem
Tam
tạng
giáo,
ắt
học
đòi
Thiền
uyển
thanh
quy;
Đốt
ngũ
phận
hương,
chẳng
tốn
đến
chiên
đàn
chiêm
bặc.
Tích
nhân
nghì,
tu
đạo
đức,
ai
hay
này
chẳng
Thích
Ca;
Cầm
giới
hạnh,
đoạn
xan
tham,
chỉn
thực
ấy
là
Di
Lặc.
HỘI
THỨ
NĂM
Vậy
mới
hay!
Bụt
ở
cong1
nhà;
Chẳng
phải
tìm
xa.
Nhân
khuấy
bổn2
nên
ta
tìm
bụt;
Đến
cốc
hay
chỉn
bụt
là
ta.
Thiền
ngỏ
năm
câu,
nằm
nhãng
cong
quê
Hà
hữu;
Kinh
xem
ba
biến3,
ngồi
ngơi
mái
quốc
Tân
la.
Trong
đạo
nghĩa,
khoáng
cơ
quan,
đà
lọt
lẫn
trường
kinh
cửa
tổ;
Lánh
thị
phi,
ghê
thanh
sắc,
ngại
chơi
bời
dặm
liễu
đường
hoa.
Đức
bụt
từ
bi,
mong
nhiều
kiếp
nguyền
cho
thân
cận;
Ơn
Nghêu
khoáng
cả,
lọt
toàn
thân
phô
việc
đã
tha.
Áo
miễn4
chăn
đầm
ấm
qua
mùa,
hoặc
chằm
hoặc
xể
5;
Cơm
cùng
cháo
đói
no
đòi
bữa,
dầu
bạc
dầu
thoa6.
Ngăn
bát
thức,
nén
bát
phong,
càng
đè
càng
bội;
Lẫy
tam
huyền,
nong
tam
yếu,
một
cất
một
ma1.
Cầm
vốn
thiếu
huyền,2
xá
đàn
dấu
xoang3
vô
sinh
khúc;
Địch
chăng
có
lỗ,
cũng
bấm
chơi
xướng
thái
bình
ca.
Lẫy
cội
tìm
cành,
còn
khá
tiếc
Câu
Chi
trưởng
lão;
Khuấy
đầu
chấp
bóng,
ắt
kham
cười
Diễn
Nhã
Đạt
Đa.
Lọt
quyền
Kim
cương,
há
mặc
hầu
thông
nên
nóng
Nuốt
bồng
lật
cứt,
nào
tay
phải
xước
tượng
da.
HỘI
THỨ
SÁU
Thật
thế!
Hãy
xá
vô
tâm;
Tự
nhiên
hợp
đạo.
Dừng
tam
nghiệp
mới
lặng
thân
tâm;
Đạt
một
lòng
thì
thông
tổ
giáo.
Nhận
văn
giải
nghĩa,
rạc
rài
nên
Thiền
khách
bơ
vơ;
Chứng
lý
tri
cơ,
cứng
cát
phải
nạp
tăng
khôn
khéo.
Han4
hữu
lậu,
han
vô
lậu,
bảo
cho
hay:
the
lọt,
duộc
thưng5;
Hỏi
Đại
thừa,
hỏi
Tiều
thừa,
thưa
thẳng
tắt:
lòi
tiền,
tơ1
gáo.
Nhận
biết
làu
làu
lòng
vốn,
chẳng
ngại
bề
thời
tiết
nhân
duyên;
Dồi
cho
vặc
vặc
tính
gương,
nào
có
nhuốm
căn
trần
huyên
náo,
Vàng
chửa
hết
quặng,
xá
tua2
chín
phen
đúc
chín
phen
rèn;
Lộc
chẳng
còn
tham,
miễn
được
một
thì
chay
một
thì
cháo.
Sạch
giới
lòng,
dồi
giới
tướng,
nội
ngoại
nên
Bồ
tát
trang
nghiêm;
Ngay
thờ
chúa,
thảo
thờ
cha,
đi
đỗ
mới
trượng
phu
trung
hiếu.
Tham
thiền
kén
bạn,
nát
thân
mình
mới
khá
hồi
ân;
Học
đạo
thờ
thầy,
lọt
xương
óc
chưa
thông
của
báo.
HỘI
THỨ
BẢY
Vậy
mới
hay:
Phép
bụt
trọng
thay;
Rèn
mới
cốc
hay.
Vô
minh
hết
bồ
đề
thêm
sáng;
Phiền
não
rồi
đạo
đức
càng
say.
Xem
phỏng
lòng
kinh,
lời
bụt
thốt
dễ
cho
thấy
dấu;
Học
đòi
cơ
tổ,
xá1
thiền
không
khôn
chút
biết
nay
(nơi).
Cùng
căn
bản,
rửa
trần
duyên,
mựa
để
mấy
hào
ly
đương
mặt;
Ngã
thắng
chàng,
viên
tri
kiến,
chớ
cho
còn
họa
giữa
cong
tay.
Buông
lửa
giác
ngộ,
đốt
hoại
thảy
rừng
tà
ngày
trước;
Cầm
kiếm
trí
tuệ,
quét
cho
không
tính
thức
thuở
nay.
Vâng
ơn
Thánh,
xót
mẹ
cha,
thờ
thầy
học
đạo;
Mến
đức
Cồ,
kiêng
bùi
ngọt,
cầm
giới
ăn
chay.
Cảm
đức
từ
bi,
để
nhiều
kiếp
nguyền
cho
thân
cận;
Đội
ơn
cứu
độ,
nát
muôn
thân
thà
chịu
đắng
cay.
Nghĩa
hãy
nhớ,
đạo
chẳng
quên,
hương
hoa
cúng
xem
còn
nên
thảo;
Miệng
rằng
tin,
lòng
lại
lỗi,
vàng
ngọc
thờ
cũng
chửa
hết
ngay.
HỘI
THỨ
TÁM
Chưng
ấy:
Chỉn
xá
tua
rèn;
Chớ
nên
tuyệt
học.
Lay
ý
thức
chớ
chấp
chằng
chằng;
Nén
niềm
vọng
mựa
còn
xóc
xóc.
Công
danh
mảng
đắm,
ấy
toàn
là
những
đứa
ngây
thơ;
Phúc
tuệ
gồm
no,
chỉn
mới
khá
nên
người
thực
cốc.
Dựng
cầu
đò,
dồi
chiền
tháp,
ngoại
trang
nghiêm
sự
tướng
hãy
tu;
Săn
hỷ
xả,
nhuyễn
từ
bi,
nội
tự
tại
kinh
Lòng
hằng
đọc.
Rèn
lòng
làm
bụt,
chỉn
xá
tua
một
sức
dồi
mài;
Đãi
cát
kén
vàng,
còn
lại
phải
nhiều
phen
lựa
lọc.
Xem
kinh
đọc
lục,
làm
cho
bằng
thửa
thấy
thửa
hay;
Trọng
bụt
tu
thân,
dùng
mựa
lỗi
một
tơ
một
tóc.
Cùng
nơi
ngôn
cú,
chỉn
chăng
hề
một
phút
ngại
lo;
Rất
thửa
cơ
quan,
mựa
còn
để
tăm
hơi
lọt
lọc.
HỘI
THỨ
CHÍN
Vậy
cho
hay:
Cơ
quan
tổ
giáo;
Tuy
khác
nhiều
đàng,
Chẳng
cách
mấy
gang.
Chỉn
xá
nói
từ
sau
Mã
tổ;
Ắt
đã
quên
thuở
trước
Tiêu
Hoàng.
Công
đức
toàn
vô,
tính
chấp
si
càng
thêm
lỗi;
Khuếch
nhiên
bất
thức,
tai
ngu
mảng1
ắt
còn
vang.
Sinh
Thiên
Trúc,
chết
Thiếu
Lâm,
chôn
dối
chân
non
Hùng
Nhĩ;
Thân
bồ
đề,
lòng
minh
kính,
bài
giơ
mặt
vách
hành
lang.
Vương
lão
chém
mèo,
rạt
thảy2
lòng
ngừa
thủ
tọa;
Thầy
hồ
khua
chó,
trỏ
xem
trí
nhẹ
con
giàng.3
Chợ
Lư
Lăng
gạo
mắc
quá
ư,
chẳng
cho
mà
cả4;
Sở
thạch
đầu
đá
trơn
hết
tấc,
khôn
đến
thưa
đang.
Phá
Táo
cất
cờ,
đạp
xuống
dấu
thiêng
thần
miếu;
Câu
Chi
dời
ngón,
dùng
đòi
nếp
cũ
ông
ang5.
Lưỡi1
gươm
Lâm
Tế,
nạng
Bí
Ma,
trước
nạp
tăng
no
dầu
tự
tại;
Sư
tử
ông
Đoan,
trâu
thầy
Hựu,
răn
đàn
việt
hượm2
xá
nghênh
ngang.
Giơ
phiến
tử,
cất
trúc
bề,
nghiệm
kẻ
học
cơ
quan
nhẹ
nhẵn;
Xô
hòn
cầu,
cầm
mộc
thược,
bạn
thiền
hòa
chước
móc
khoe
khoang.
Thuyền
Tử
rà
chèo,
dòng
xanh
chửa
cho
tịnh
tẩy;
Đạo
Ngô
múa
hốt,
càn
ma
dường
thấy
quái
quàng.
Rồng
Yểm
Lão
nuốt
càn
khôn,
ta
xem
chỉn
lệ3;
Rắn
ông
Tồn
ngang
thế
giới,
người
thấy
ắt
dang4.
Cây
bách
là
lòng,
thác
ra
trước
phải
phương
Thái
Bạch;
Bính
đinh
thuộc
hỏa,
lại
trở
sau
lỗi
hướng
Thiên
cang.
Trà
Triệu
Lão,
bánh
Thiều
Dương,
bầy
thiền
tử
hãy
còn
đói
khát;
Ruộng
Tào
Khê
vườn
Thiếu
Thất,
chúng
nạp
tăng
những
để
lưu
hoang.
Gieo
bó
củi,
nẩy
bông
đèn,
nhân
mang
mới
nết;
Lộc
đào
hoa,
nghe
tiếng
trúc,
mặc
vẻ
mà
sang.
HỘI
THỨ
MƯỜI
Tượng1
chúng
ấy,
Cốc
một
chân
không;
Dùng
đòi2
căn
khí.
Nhân
lòng
ta
vướng
chấp
khôn
thông;
Há
cơ
tổ
nay
còn
thửa
bí.
Chúng
Tiểu
thừa
cốc
hay
chữa
đến,
Bụt
xá
ngăn
Bảo
sở
hóa
thành;
Đấng
Thượng
sĩ
chứng
thực
mà
nên,
ai
ghẻ3
có
sơn
lâm
thành
thị.
Núi
hoang
rừng
quạnh,
ấy
là
nơi
dật
sĩ
tiêu
dao;
Chiền4
vắng
am
thanh,
chỉn
thực
cảnh
đạo
nhân
du
hý.
Ngựa
cao
tán
cả,
Diêm
vương
nào
kể
đứa
nghênh
ngang;
Gác
ngọc
lầu
vàng,
ngục
tốt
thiếu
chi
người
yêu
quý.
Chuộng
công
danh,
lồng
nhân
ngã,
thực
ấy
phàm
phu;
Say
đạo
đức,
dời
thân
tâm,
định
nên
thánh
trí.
Mày
ngang
mũi
dọc,
tướng
tuy
lạ
xem
ắt
bằng
nhau;
Mắt
thánh
lòng
phàm,
thực
cách
nhẫn1
vàn
vàn
thiên
lý.
Kệ
rằng:
Cư
trần
lạc
đạo
thả
tùy
duyên
Cơ
tắc
xan
hề
khốn
tắc
miên
Gia
trung
hữu
bảo
hưu
tầm
mích
Đối
cảnh
vô
tâm
mạc
vấn
thiền
(Ở
đời
vui
đạo,
hãy
tùy
duyên,
Đói
cứ
ăn
đi
mệt
ngủ
liền.
Trong
nhà
có
báu
thôi
tìm
kiếm,
Đối
cảnh
vô
tâm,
chớ
hỏi
thiền.)
ĐẮC
THÚ
LÂM
TUYỀN
THÀNH
ĐẠO
CA
Sinh
có
nhân
thân,
Ấy
là
họa
cả;
Ai
hay
cốc
được,
Mới
óc1
là
đã.
Tuần
này
mà
ngẫm,
Ta
lại
xá
ta;
Đắc
ý
cong
lòng,
Cười
riêng
ha
hả.
Công
danh
chẳng
trọng,
Phú
quý
chẳng
màng;
Tần
Hán
xưa
kia,
Xem
đà
hèn
hạ.
Yên
bề
phận
khó,
Kiếm
chốn
dưỡng
thân;
Khuất
tịch
non
cao,
Náu
mình
sơn
dã.
Vượn
mừng
hủ
hỷ,
Làm
bạn
cùng
ta;
Vắng
vẻ
ngàn
kia,
Thân
lòng
hỷ
xả.
Thanh
nhàn
vô
sự,
Quét
tước
đài
hoa;
Thờ
phụng
bụt
trời,
Đêm
ngày
hương
hỏa.
Tụng
kinh
niệm
bụt,
Chúc
thánh
khẩn
cầu;
Tam
hữu
tứ
ân,
Ta
nguyền
được
bả.1
Niệm
lòng
vặc
vặc,
Giác
tính
quang
quang;
Chẳng
còn
bỉ
thử.
Tranh
nhân
chấp
ngã.
Trần
duyên
rũ
hết,
Thị
phi
chẳng
hề.
Rèn
một
tấm
lòng,
Đêm
ngày
đon
đả.
Ngồi
cong
trần
thế,
Chẳng
quản
sự
thay.
Văng
vẳng
ngàn
kia,
Dầu
lòng
dong
thả.
Học
đòi
chư
Phật,
Cho
được
viên
thành;
Xướng
khúc
vô
sinh.
An
thiền
tiêu
sá.
Ai
ai
xá
cốc,
Bằng
huyễn
chiêm
bao;
Xẩy
tỉnh
giấc
hòe,
Châu
rơi
lã
chã.
Cốc
hay
thân
huyễn,
Chẳng
khác
phù
vân;
Vạn
sự
giai
không,
Tựa
dường
bọt
bể.
Đem
mình
náu
tới,
Cảnh
vắng
ngàn
kia;
Dốc
chí
tu
hành,
Giấy
sồi
bô
bả.
Lành
người
chẳng
chớ.
Dữ
người
chẳng
hay;
Ngậm
miệng
đắp
tai,
Hề
chi
họa
cả.
An
thân
lập
mệnh.
Thời
tiết
nhân
duyên;
Cắt
thịt
phân
cho,
Dầu
là
chim
cá.
Thân
này
chẳng
quản.
Bữa
đói
bữa
no;
Địa
thủy
hỏa
phong,
Dầu
là
biến
hóa.
Pháp
thân
thường
trụ,
Phổ
mãn
thái
hư,
Hiển
hách
mục
tiền,
Viên
dung
lõa
lõa.
Thiền
tông
chỉ
thị,
Mục
kích
đạo
tồn;
Không
cốc
truyền
thanh,
Âm
hưởng
ứng
dã.
Phô1
người
học
đạo,
Vô
số
nhiều
thay;
Trúc
hóa
nên
rồng,
Một
hai
là
họa.
Bởi
lòng
vờ
vịt,
Trỏ
Bắc
làm
Nam;
Nhất
chỉ
đầu
thiền,
Sát
na
hết
cả.
Kệ
rằng:
Cảnh
tịch
an
cư
tự
tại
tâm
Lương
phong
xuy
đệ
nhập
tùng
âm
Thiền
sàng
thọ
hạ
nhất
kinh
quyển
Lưỡng
tự
thanh
nhàn
thắng
vạn
câm
(Cảnh
vắng
sống
yên
tự
tại
hồn,
Bóng
tùng
gió
mát
thổi
từng
cơn.
Giường
thiền
một
quyển
kinh
bên
gốc,
Hai
chữ
thanh
nhàn
vạn
nén
hơn)