PHẦN
II
TÁC PHẨM
TRẦN NHÂN TÔNG
--o0o--
THƠ
TRẦN NHÂN TÔNG
TỨC SỰ
Xong múa Giá
chi thử áo xuân,
Hôm nay huống
gặp tiết thanh minh.
Đầy mâm
bánh cuốn như hồng ngọc
Phong tục
từ xưa của Việt Nam.
2
TIỄN SỨ
BẮC LÝ TRỌNG TÂN
TIÊU PHƯƠNG
MAI
Thăm thẳm
Linh Trì ấm tiệc đưa
Người về
khôn cách gió xuân ngừa.
Nào hay sao
sứ hai ngôi phúc,
Sáng rọi
trời Nam mây tối bưa.
3
TIỄN SỨ
BẮC MA HỢP
KIỀU NGUYÊN
LÃNG
Trời nam,
sao sứ rọi hai ngôi
Dẫn lối
ba vòng đêm sáng soi
Bên ấy
ơn sâu tình dễ cảm
Nơi đây
tục bạc lễ thẹn tồi
Mù xông
cờ tiết thân mừng khỏe
Roi vút gió
xuân ngựa kết đôi
Trung thống
vạc lời xin hãy nhớ
Nỗi lo đất
nước khỏi nung sôi
4
HỌA THƠ
KIỀU NGUYÊN LÃNG
Non nam hành
lý nhẹ mây tưng
Xuân đến
cành mai mới mấy bông
Khắp thấy
cùng thương thiên tử đức
Sống không
giúp thế trượng phu buồn
Ngựa xông
sương tuyết đầu còn ngoái
Mắt ngắm
non sông xe chút ngừng
Sông Nhị
ngày mai mờ khói nước
Rượu đào
tươi mát rửa lòng trong
5
HOA MAI SỚM
Vàng điểm
tua hoa năm cánh tròn
San hô chìm
bóng vẩy phô tuôn
Ba đông
cành trắng hoa khoe trước
Một nén
hương xuân nhánh hãy còn
Cam lộ ngát
thơm say bướm tỉnh
Dạ quang
tựa nước khát chim buồn
Hằng nga
nếu biết đây hoa đẹp
Quế lạnh
cung Thiềm thôi ở luôn
6
Ngại rét
năm ngày cửa biếng ra
Gió xuân
trước đã đến cây già
Bóng giăng
mặt nước băng vừa vỡ
Hoa trĩu
đầu cành ấm chửa pha
Xóm núi
trăng chìm lời hát Việt
Ải quan
mây đẫm tiếng tiêu Hồ
Một cành
lạc tới giấc mơ bạn
Tỉnh dậy
tặng người chẳng nỡ đưa
7
CẢNH XUÂN
Chim hót nhởn
nhơ, hoa liễu dày,
Bóng thềm
nhà vẽ mây chiều bay
Chuyện đời
khách đến thôi không hỏi
Cùng tựa
lan can ngắm núi mây.
8
DỰ YẾN
VỚI VĂN TÚC VƯƠNG
Chân rùa
bóc đỏ mọng
Yên ngựa
nướng vàng thơm
Sơn tăng
giữ giới sạch
Cùng ngồi
chẳng cùng ăn
9
CHÙA THẦN
QUANG TRÊN NÚI ĐẠI LÃM
Bát ngát
Thần quang gợi tịch u
Trời trăng
ôm cởi đến ngao du
Lâu đài
một tá bày tranh vẽ
Thế giới
ba ngàn lọt mắt thơ
Lắm đỗi
thói đời mây thương cẩu
Đâu hay
tùng cỗi trắng đầu sư
Thắp hương
lễ Phật trừ đôi việc
Hết thảy
suy tư mặc bỏ lờ.
10
ĐỀ NHÀ
THỦY TẠ CHÙA PHỔ MINH
Xông hết
nghìn hương thơm ngát nhà,
Mới dâng
dòng nước mát đâu xa
Cửa chùa
dưới bóng đa già khép
Đầu tiếng
ve thu ý đậm đà
NGẮM CẢNH
CHIỀU THIÊN TRƯỜNG
Thôn trước
thôn sau tựa khói nhòa
Nửa không
nửa có mé chiều sa
Mục đồng
sáo vẳng trâu về hết,
Cò trắng
từng đôi ruộng xuống sà.
12
TRÊN ĐƯỜNG
TÂY CHINH
Hoa sóng tung
lên buồm gấm bay
Dưới mui
đầu mệt chẳng buồn quay
Mây chiều
Tam Giáp nhạn không đến
Trăng sáng
Cửu Than rồng có đây
Lạnh lẽo
đường đi cung mộng cũ
Ngổn ngang
sầu vướng rượu ly đầy
Hán hoàng
mang tiếng say chinh chiến
Vội vã
nam nhi chi lắm vậy.
13
TRĂNG
Đầy sách,
giường song chếch bóng đèn
Sân thu sương
bủa thoáng hơi đêm
Tiếng chày
thức dậy đâu hay biết
Hoa mộc
trên cành trăng mới lên
14
LÊN NÚI BẢO
ĐÀI
Đất vắng
đài thêm cổ
Ngày qua
xuân chửa nồng.
Gần xa,
mây núi cuốn,
Râm nắng,
ngõ hoa lồng.
Muôn việc
nước theo nước,
Trăm năm
lòng bảo lòng
Tựa hiên
nâng sáo ngọc,
Ngực áo,
đầy trăng trong.
15
CÂY MAI
Sắt đá
gan lì khinh tuyết sớm
Khăn xiêm
mộc mạc gió đông luồn
Trần gian
kiệm ước Hán Văn Đế
Thiên hạ
anh hùng Đường Thái Tông.
16
ĐÊM MƯỜI
MỘT THÁNG HAI
Rượu chút
sầu vơi, vị đậm đà,
Giường
rồng chiếu trúc trải yên ra
Cả trời
tựa nước, trăng ngày sáng,
Hoa phủ
đầy song xuân mãi mơ
17
NIỀM OÁN
HẬN CỦA NGƯỜI KHUÊ PHỤ
Ngủ dậy
vén rèm, hồng thấy rơi,
Hoàng ly
không hót giận xuân rồi.
Lầu tây
vô cớ vầng dương lặn
Bóng ngã
về đông hoa lẫn chồi
18
CẢNH CHIỀU
Ở CHÂU LẠNG
Chùa cổ
đìu hiu khuất khói mờ
Thuyền câu
chiều quạnh tiếng chuông đưa
Nước quang
non lặng vờn âu trắng
Gió lặng
mây đùa cây đỏ thưa.
19
XUÂN MUỘN
Tuổi trẻ
sao từng hiểu sắc không
Cả xuân
hoa nở ngất ngây lòng
Đến nay
đành rõ mặt xuân ấy
Nệm cỏ
giường thiền ngắm rụng hồng.
20
CHIỀU THU
Ở VŨ LÂM
Lòng khe vắt
ngược bóng cầu hoa
Hắt sáng
ngoài khe, vệt nắng tà
Vắng vẻ
nghìn non, rơi lá đỏ
Như mơ mây
đẫm tiếng chuông xa
21
NGÀY XUÂN
THĂM CHIÊU LĂNG
Hùm gấu
nghiêm nghìn cửa.
Áo mũ bảy
phẩm đầy.
Lính bạc
đầu còn đó,
Nguyên Phong
mãi kể say
22
BUỔI SỚM
MÙA XUÂN
Ngủ dậy,
mở cánh cửa,
Xuân về
đã chẳng hay!
Bươm bướm
một đôi trắng
Phơi phới
nhắm hoa bay
23
TRÊN HỒ
ĐỘNG THIÊN
Cảnh hồ
Động thiên nọ,
Hoa cỏ kém
vẻ xuân.
Thượng
đế thương hiu quạnh
Chuông Thái
thanh bỗng ngân.
24
PHỦ THIÊN
TRƯỜNG
Rậm lục
thưa hồng thêm quạnh hiu
Mây quang
mưa tạnh ngấn bùn tiêu
Nhà trai
giảng đoạn sư về viện
Quán bến
canh đầu cầu nguyệt treo
Ba chục
cung tiên giường tối đặt
Tám nghìn
bóng tháp triều xuân reo
Phố minh
phong cảnh y như cũ
Phảng phất
hình cha mộng thấy nhiều
25
BÀI MINH ĐỀ
TRÚC NÔ
Ruột rỗng,
tuyết giải
Đốt cứng,
sương phơi
Mượn ngươi
làm tớ,
E trái tính
trời.
26
MẠN HỨNG
Ở SƠN PHÒNG
Ai buộc mà
đi giải thoát tìm?
Không phàm
sao phải kiếm thần tiên
Vượn mòn,
ngựa mỏi ta già phải.
Như cũ am
mây một sập thiền
27
Phải trái
tâm theo hoa sớm rơi
Lợi danh
lòng lạnh mưa đêm rồi
Hoa tàn,
mưa tạnh non im ắng
Một tiếng
chim kêu xuân hết thôi.
28
TẶNG SỨ
BẮC LÝ TƯ DIỄN
Ơn Hán tràn
trề mưa móc tuôn
Chiếu son
phượng ngậm khỏi mây hồng
Khí hòa
góc đất đều lan tới
Bụi chiến
sông trời rửasạch trơn
Thảy bảo
thư vua mười lối viết
Còn hơn
đàn Thuấn năm dây đờn
Đất trời
thương hết không nam bắc
Sấm sét
sao lolại phải bươn
29
CA NGỢI THƯỢNG
SĨ TUỆ TRUNG
Nhìn lên
càng cao
Dùi càng
bền cứng
Chợt ở
phía sau
Thấy liền
trước đứng
Cái đó
gọi là
Thiền Thượng
sĩ vững
30
ĐỀ CHÙA
THÔN HƯƠNG CỔ CHÂU
Số đời
một màn kéo,
Tình người
đôi mắt ngân.
Cung ma chật
hẹp lắm,
Cõi Phật
khôn xiết xuân.
31
KỆ THỊ
TỊCH
Hết thảy
pháp không sinh
Hết thảy
pháp không diệt
Nếu hay
hiểu như vầy
Chư Phật
thường trước mặt
Đến đi
sao có đây
32
THÂN NHƯ
Thân như
hơi thở vào ra mũi
Thế tựa
gió luồn mây núi xa
Đỗ quyên
rền rĩ trăng ngày sáng
Đừng để
tầm thường xuân luống qua
33
NGƯƠI NÊN
NHỚ
Cối kê việc
cũ ngươi nên nhớ,
Hoan, Ái
đang còn chục vạn quân
34
TỨC SỰ
Xã tắc hai
phen chồn ngựa đá,
Non sông
nghìn thuở vững âu vàng.
35
HỌA THƠ
LÝ TƯ DIỄN
Tự xét không
tài thẹn được đất
Chỉ vì
nhiều bệnh thiếu chầu trời