- TRẦN NHÂN TÔNG
CON NGƯỜI & TÁC PHẨM
Tiến sĩ Lê Mạnh
Thát
Nhà
Xuất Bản TP.HC1999
--o0o--
PHẦN
II
TÁC
PHẨM
TRẦN
NHÂN
TÔNG
--o0o--
BÀI
GIẢNG
TRẦN
NHÂN
TÔNG
BÀI
GIẢNG
TẠI
CHÙA
SÙNG
NGHIÊM
“Lúc
đầu
khai
đường,
Thượng
hoàng
lên
tòa
giảng,
niêm
hương
báo
ân
xong,
bèn
đếõn
tòa
giảng.
Thượng
thủ
đánh
bảng.v.v.
xin
mời
Điều
Ngự.
Bèn
nói:
‘Đức
Thích
Ca
Văn
Phật
vì
một
việc
lớn
mà
xuất
hiện
ở
đời,
49
năm,
nhúc
nhích
đôi
mép
môi,
mà
chưa
từng
nói
một
chữ.
Ta
nay
vì
các
người
mà
lên
tòa
giảng
này,
thì
nói
cái
gì?’
Rồi
Thượng
hoàng
ngồi
xuống
giường
thiền.
một
chốc,
bèn
nói:
Đỗ
quyên
rền
rỉ,
trăng
ngày
sáng
Đừng
để
tầm
thường
xuân
luống
qua
Lại
đánh
xuống
một
cái:
-
Chẳng
có
gì
cả,
hãy
đi
ra
đi,
đi
ra
đi.
Một
vị
tăng
hỏi:
-
Thế
nào
là
Phật?
Đáp:
-
Hiểu
theo
như
trước
là
chẳng
phải.
Lại
tiến
lên
hỏi:
-
Thế
nào
là
Pháp?
Đáp:
-
Hiểu
theo
lối
trước
là
chẳng
phải.
Lại
đứng
lên
hỏi:
-
Rốt
ráo
là
thế
nào?.
Đáp:
Tám
chữ
mở
toang
trăn
trối
hết
Chẳng
còn
gì
nữa
để
trình
ông.
Lại
đứng
lên
hỏi:
-
Thế
nào
là
Tăng?
Đáp:
-
Hiểu
theo
lối
trước
lại
chẳng
phải.
Lại
đứng
lên
hỏi:
-
Rốt
ráo
là
như
sao?
Đáp:
Tám
chữ
mở
toang
trăn
trối
hết
Chẳng
còn
gì
nữa
để
trình
ông.
Lại
đứng
lên
hỏi:
-
Thế
nào
là
một
việc
hướng
thượng?
Đáp:
-
Đứng
chống
đầu
gậy
chọc
trời
trăng.
Lại
đứng
lên
hỏi:
-
Dùng
công
án
cũ
để
làm
gì?
Đáp:
-
Mỗi
lần
nêu
ra
mỗi
lần
mới.
Lại
đứng
lên
hỏi:
-
Thế
nào
là
giáo
ngoại
biệt
truyền?
Đáp:
-
Ểnh
ương
nhảy
không
ra
khỏi
đấu.
Lại
đứng
lên
hỏi:
-
Hiện
ra
rồi
chìm
mất
là
thế
nào?
Đáp:
-
Còn
tùy
còn
tùy
bước
ếch
cát
bùn
vương.
Tiến
lên
hỏi:
-
Thế
còn
nhảy
không
ra?
Điều
Ngự
bèn
lên
tiếng:
-
Tên
mù
kia
thấy
cái
gì?
Bèn
đứng
lên
nói:
-
Đại
tôn
đức
lừa
người
để
làm
gì?
Điều
Ngự
bèn
thở
dài.
Vị
tăng
ngẫm
nghĩ.
Điều
Ngự
liền
đánh.
Vị
tăng
lại
định
đi
ra
hỏi.
Điều
Ngự
liền
hét.
Vị
tăng
cũng
hét.
Điều
Ngự
nói:
-
Lão
tăng
bị
ngươi
hét
một
tiếng,
thì
hét
hai
tiếng
rốt
ráo
thế
nào?
Nói
mau,
nói
mau.
Tăng
ngẫm
nghĩ.
Điều
Ngự
lại
hét
một
tiếng,
nói:
-
Con
hồ
tinh
hoang
kia
vừa
mới
đến
liến
thoắng,
nay
ở
chỗ
nào
rồi?
Tăng
lạy
và
rút
lui.
Hỏi:
-
Đại
đức
siêng
năng
khó
nhọc
tu
hành,
lâu
trải
năm
tháng,
đối
với
sáu
thần
thông
của
Phật,
nay
chứng
được
thần
thông
nào?
Đáp:
-
Cũng
được
sáu
thần
thông.
Lại
đứng
lên
hỏi:
-
Năm
thần
thông
thì
hãy
để
đó,
còn
tha
tâm
thông
thì
thế
nào?
Đáp:
-
Đất
nước
chỗ
ông
có
bao
nhiêu
thứ
tâm,
Như
Lai
biết
hết,
Như
Lai
thấy
hết.
Tăng
đưa
thẳng
nắm
tay
lên,
nói:
-
Đã
có
thể
biết
hết,
thấy
hết,
thì
có
biết
cái
này
có
vật
gì
không
?
Đáp:
Như
có
như
không
Chẳng
không
chẳng
sắc
Hỏi:
-
Xưa
có
tăng
hỏi
hòa
thượng
Lang
Da
rằng:
Đã
là
“thanh
tịnh
bản
nhiên”sao
bỗng
chốc
sinh
ra
núi
sông
đất
lớn?
Ý
chỉ
thế
nào?
Đáp:
-
Rất
giống
thuyền
câu
ra
bể?
Lại
đứng
lên
hỏi:
-Thế
là
ý
nghĩa
gì?
Đáp:
Khói
sóng
ai
hay
tránh.
Riêng
có
việc
khéo
bàn
Hỏi:
-
Thế
nào
là
gia
phong
của
Phật
quá
khứ?
Đáp:
Rừng
vườn
vắng
vẻ
không
người
quản,
Mận
trắng
đào
hồng
tự
nở
hoa
Hỏi:
-
Thế
nào
là
gia
phong
của
Phật
hiện
tại?
Đáp:
Bạch
thủy
gia
phong
mê
én
sớm,
Đào
thắm
vườn
tiên
say
gió
xuân.
Lại
đứng
lên
hỏi:
-
Thế
nào
là
gia
phong
của
Phật
vị
lai?
Đáp:
Bãi
biển
chờ
triều
trời
đợi
nguyệt,
Thôn
chài
nghe
sáo
khách
mong
nhà.
Lại
đứng
lên
hỏi:
-
Thế
nào
là
gia
phong
của
hòa
thượng
?
Đáp:
Áo
rách
ôm
mây,
mai
húp
cháo,
Bình
xưa
rót
nguyệt,
tối
chưng
trà.
Hỏi:
-
Linh
Vân
giác
ngộ
khi
đào
nở
hoa
là
thế
nào?
Đáp:
Tự
búp
tự
nở
theo
thời
tiết,
Hỏi
tới
Đông
quân
thảy
chẳng
hay
Lại
đứng
lên
hỏi:
-
Giết
người
không
chớp
mắt
là
thế
nào?
Đáp:
-
Toàn
thân
là
mật.
Hỏi:
-
Bậc
đại
tu
hành
có
còn
rơi
vào
vòng
nhân
quả
nữa
không?
Đáp:
Miệng
tựa
máu
bồn
chê
Phật
tổ,
Răng
như
cây
kiếm
thọc
thiền
lâm.
Một
mai
chết
xuống
A
tỳ
ngục,
Cười
ngất
nam
mô
Quán
Thế
Âm.
Hỏi:
Cò
trắng
xuống
đồng,
nghìn
điểm
tuyết,
Oanh
vàng
trong
khóm,
một
nhành
hoa.
là
thế
nào?
Đáp:
-
Lầm
rồi.
Lại
đứng
lên
hỏi:
-
Bậc
đại
tôn
đức
nghĩ
sao?
Đáp:
Cò
trắng
xuống
đồng,
nghìn
điểm
tuyết,
Oanh
vàng
trong
khóm,
một
nhành
hoa.
Lại
đứng
lên
hỏi:
-
Đó
là
lời
của
tôi.
Đáp:
Nếu
biết
thần
tiên
lò
lửa
thuật
Viên
đan
nguyên
ấy
tử
châu
sa
Hỏi:
-
Thế
nào
là
pháp
thân
thanh
tịnh?
Đáp:
Đục
vàng
rớt
trúng
phân
sư
tử
Sắt
núi
Côn
Lôn
chim
chá
cô
Lại
hỏi:
-
Học
nhân
không
hiểu.
Đáp:
Không
được
thương
Hồ
biết
rành
thách
giá
Đáng
cười
kẻ
chợ
khổ
lường
nhau
Lại
đứng
lên
hỏi:
-
Báo
thân
tròn
đầy
là
thế
nào?
Đáp:
Cánh
bằng
gió
đứng
cao
bay
mãi
Ngọc
Lệ
trơn
tru
sóng
biển
trong
Tăng
lạy
vái.
Điều
Ngự
nói:
Nguyên
lai
đầy
đủ
muôn
công
dụng
Thiên
lệch
vì
ngươi
chẳng
được
nên
Lại
đứng
lên
hỏi:
-
Thế
nào
là
ngàn
trăm
ức
hóa
thân?
Đáp:
Mây
mù
kéo
bắt
lên
trời
lượn
Thước
nước
như
xưa
cửa
ngực
vây
Lại
đứng
lên
hỏi:
-
Như
thế?
Điều
Ngự
nói:
Dưới
núi
nhóm
mây
cười
chết
kẻ
Bốn
bề
hỗn
độn
sắt
ăn
xong.
Tăng
lạy
vái
rút
lui.
Hỏi:
-
Bàn
huyền
nói
diệu,
đem
cổ
luận
kim,
thảy
đều
nhờ
vào
ngôn
ngữ.
Chẳng
dính
ngôn
ngữ
một
câu
làm
sao
mà
nói
ra
đây?
Đáp:
Gió
xuân
lất
phất
ngàn
hoa
nở
Gãy
mất
càng
xe
một
tiếng
thôi
Tăng
ngẫm
nghĩ,
mở
miệng.
Điều
Ngự
lại
nói:
Chim
kêu
rỉ
máu
đâu
dùng
chỗ
Như
cũ
mây
chiều
vắt
núi
tây.
Lại
đứng
lên
hỏi:
-
Muôn
dặm
mây
nhóm
là
thế
nào?
Đáp:
-
Mưa
mênh
mông.
Lại
đứng
lên
hỏi:
-
Muôn
dặm
mây
phủ
là
thế
nào?
Đáp:
-
Sáng
rõ
Lại
đứng
lên
hỏi:
-
Rốt
ráo
là
thế
nào?
Đáp:
-
Chớ
nhúc
nhích.
Nhúc
nhích
thì
ba
mươi
gậy.
Hỏi:
-
Thế
nào
là
mặt
mũi
xưa
nay?
Điều
Ngự
chặp
lâu,
nói:
-
Hiểu
không?
Đáp:
-
Không
hiểu.
Điều
Ngự
liền
đánh.
Hỏi:
-Thế
nào
là
ba
mươi
hai
tướng
tốt,
tám
mươi
vẻ
đẹp?
Đáp:
Nếu
dùng
sắc
thấy
ta
Dùng
âm
thanh
tìm
ta
Người
ấy
hành
đạo
tà
Chẳng
thể
thấy
Như
Lai.
Hỏi:
-
Thế
nào
là
Phật?
Đáp:
-
Cám
trong
cối
Hỏi:
-
Thế
nào
là
ý
tây
lai
của
tổ
sư?
Đáp:
-
Bánh
vẽ.
Hỏi:
-
Thế
nào
là
đại
ý
của
Phật
pháp?
Đáp:
-
Cùng
hầm
không
đất
khác.
Hỏi:
-
Xưa
có
tăng
hỏi
Triệu
Châu
con
chó
có
tính
Phật
không,
Châu
bảo
không
có.
Ý
chỉ
thế
nào?
Đáp:
Vị
muối
trong
nước
Keo
xanh
trong
màu
Hỏi:
Câu
có
câu
không
Như
dây
bám
cây
Thì
thế
nào?
Điều
Ngự
bèn
nói:
Câu
có
câu
không,
Dây
khô
cây
đổ.
Mấy
vị
thầy
tu,
Dập
đầu
trán
vỡ.
Câu
có
câu
không,
Gió
vàng
thể
lộ.
Vô
số
cát
sông,
Kiếm
đâm
dao
bổ.
Câu
có
câu
không
Lập
chỉ
lập
tông.
Dùi
rùa
đập
ngói,
Trèo
núi
lội
sông.
Câu
có
câu
không
Chẳng
có
chẳng
không,
Khắc
thuyền
tìm
gươm,
Bản
đồ
kiếm
ngựa.
Câu
có
câu
không,
Đắp
đỗi
hay
không.
Nón
tuyết
giày
bông
Ôm
cây
đợi
thỏ
Câu
có
câu
không,
Từ
nay
từ
xưa.
Quên
trăng
giữ
ngón.
Chết
đuối
trên
bờ.
Câu
có
câu
không,
Như
vậy
như
vậy,
Tám
chữ
mở
toang,
Không
còn
mũi
rẫy
Câu
có
câu
không,
Ngó
phải
ngó
trái.
Ráo
riết
hùa
theo,
Ồn
ào
tranh
cãi.
Câu
có
câu
không,
Rầu
rầu
rĩ
rĩ.
Cắt
đứt
sắn
bìm,
Đó
đây
vui
vẻ.
Bèn
xuống
tòa.
BÀI
GIẢNG
TẠI
VIỆN
KỲ
LÂN
Ngày
mồng
9
tháng
giêng
nhuận
năm
Bính
Ngọ
(1306),
Trúc
Lâm
đại
tôn
giả
đến
viện
Kỳ
Lân
khai
đường,
chỉ
pháp
tòa
nói:
-
Tòa
này
là
giường
mây
khúc
lục,
là
tòa
báu
kim
nghê.
Ngồi
đây
đoán
định
lời
lẽ
Phật
tổ
thì
thật
rất
chật
hẹp.
Bèn
niêm
hương:
-
Một
nén
hương
này,
khói
lành
thơm
phức,
khí
tốt
bay
lên,
ngưng
đọng
năm
phần
pháp
thân,
biến
khắp
mười
phương
lễ
diệu.
Sức
nóng
lò
hương
dâng
lên
mười
phương
ban
phúc,
chín
miếu
ứng
thiêng,
tuổi
vua
lâu
bền,
ngôi
trời
vững
chãi.
Một
nén
hương
này,
trong
sạch
rễ
mầm,
hiếm
lạ
giống
tính,
không
mượn
sức
bón
vun,
toàn
nhờ
xông
thấy
biết.
Sức
nóng
lò
hương
vâng
xin
mưa
thuận
gió
hòa,
nước
thái
dân
yên,
trời
Phật
thêm
sáng,
xe
pháp
thường
quay.
Một
nén
hương
này,
nướng
cũng
không
chín,
đốt
cũng
không
cháy,
gõ
vào
không
mở,
kéo
lại
không
đến,
ngó
trộm
thì
con
ngươi
khô
kiệt,
ngửi
thử
thì
cửa
não
téc
đôi.
Sức
nóng
lò
hương
dâng
lên
Vô
Nhị
thượng
nhân,
Tuệ
Trung
đại
sĩ,
mưa
pháp
ơn
nhuần,
cháu
con
đều
gội.
Thượng
hoàng
đến
tòa
giảng,
khi
thăng
đường,
thượng
thủ
đánh
bảng.
Vân
vân.
Sư
nói:
-
Đại
chúng,
nếu
nhắm
vào
chân
lý
thứ
nhất
mà
nói,
động
niệm
tức
sai,
mở
miệng
là
bậy,
thì
làm
sao
hiểu
chân
lý,
làm
sao
hiểu
quán
tưởng
?
Hôm
nay,
hãy
căn
cứ
vào
chân
lý
thứ
hai
mà
nói,
thế
có
được
không
nào
?
Rồi
Sư
ngoảnh
nhìn
tả
hữu,
nói:
-
Ở
đây
chẳng
có
người
nào
có
đủ
được
con
mắt
to
lớn
hay
sao.
Nếu
có,
hai
đóa
lông
mày
không
mất
một
mảy
may.
Nếu
không,
bần
đạo
không
khỏi
cái
miệng
lầm
rầm,
đưa
ra
những
lời
thừa
rách
nát
sáo
mòn.
Nhưng
vì
các
người,
xin
lấy
ra
một
phần
hổ
lốt.
Hãy
lắng
nghe,
lắng
nghe.
Này
xem,
đạo
lớn
trống
rộng,
đâu
buộc
đâu
ràng,
bản
tính
sáng
trong,
chẳng
lành
chẳng
dữ.
Bởi
do
chọn
lựa,
lắm
ngả
sinh
ngang,
một
giây
thoáng
mờ,
dễ
thành
trời
vực.
Thánh
phàm
cùng
chung
một
lối,
phải
trái
há
được
phân
ranh.
Nên
biết
tội
phước
vốn
không,
nhân
quả
rốt
ráo
chẳng
thật.
Người
người
vốn
đủ,
ai
nấy
tròn
đầy.
Phật
tính
pháp
thân
như
hình
với
bóng,
lúc
ẩn
lúc
hiện,
chẳng
dính
chẳng
rời.
Lỗ
mũi
thẳng
xuống
cửa
mặt,
lông
mày
vắt
ngang
hố
mắt,
há
dễ
tìm
thấy
được
đâu
?
Nên
hãy
đi
tìm
cái
đạo
không
thấy.
Ba
ngàn
pháp
môn
cùng
về
tấc
dạ.
Hà
sa
diệu
dụng
thảy
tại
nguồn
tâm.
Cái
gọi
là
giới
môn,
định
môn,
tuệ
môn,
các
người
không
thiếu.
Nên
trở
về
mà
tự
nghĩ
suy.
Phàm
những
tiếng
ho
hắng,
mày
dương
mắt
nháy,
tay
cầm
chân
bước,
đó
là
tính
gì?
Biết
được
tính
đó
là
tâm
gì,
tâm
tính
rõ
thông,
thì
cái
gì
đúng,
cái
gì
là
không
đúng.
Pháp
tức
là
tính,
Phật
tức
là
tâm.
Tính
nào
chẳng
phải
là
pháp?
Tính
nào
chẳng
phải
là
Phật.
Tức
tâm
tức
Phật,
tức
tâm
tức
pháp,
pháp
vốn
chẳng
pháp.
Tức
pháp
tức
tâm,
tâm
vốn
chẳng
tâm,
tức
tâm
tức
Phật.
Này
các
người,
thời
gian
dễ
trôi
qua,
mạng
người
không
dừng
lại.
Cớ
sao
ăn
cháo
ăn
chay,
mà
không
rõ
việc
cái
bát
cái
tô,
chiếc
thìa
đôi
đũa
để
tìm
hiểu?
*
*
*
Bấy
giờ
có
vị
tăng
bước
ra,
nói:
Ăn
cơm
mặc
áo,
tầm
thường
việc
Sao
phải
quan
tâm
để
phát
ngờ.
Bèn
lạy
xuống,
rồi
đứng
lên
hỏi:
-
Cõi
thiền
vô
dục
thì
không
hỏi.
Cõi
dục
không
thiền,
xin
nói
cho
một
câu.
Sư
đưa
tay
chỉ
vào
khoảng
không.
Lại
đứng
lên
hỏi:
-
Dùng
đờm
dãi
người
xưa
để
làm
gì?
Sư
nói:
-
Mỗi
lần
nêu
ra,
một
lần
mới.
Lại
đứng
lên
hỏi:
-
Người
xưa
đều
nói
như
thế
nào
là
Phật,
như
thế
nào
là
pháp,
như
thế
nào
là
tăng.
Chỉ
như
thế
nào
ấy
thì
việc
thế
nào?
Sư
đáp:
-
Như
thế
nào.
Việc
như
thế
nào.
Lại
đứng
lên
nói:
Không
dây
đàn
gảy
tri
âm
ít
Cha
đánh
con
nghe,
cách
điệu
cao.
Vân
vân.
*
*
*
Một
hôm,
sư
nghe
đồ
đệ
tụng
kinh,
bèn
hỏi:
-
Chúng
làm
gì
thế?
Có
tăng
đi
ra,
thưa:
-
Chúng
niệm
Phật
tâm.
Sư
nói:
Nếu
bảo
là
tâm,
Tâm
tức
không
Phật.
Nếu
bảo
là
Phật,
Phật
tức
không
tâm.
Thì
gọi
cái
gì
là
tâm?
Tăng
không
nói.
*
*
*
Lại
hỏi
một
vị
Tăng:
-
Chúng
đang
làm
gì?
Tăng
đáp:
-
Niệm
Phật.
Sư
nói:
-
Phật
vốn
vô
tâm
thì
niệm
cái
gì?
Lại
đứng
lên
nói:
-
Niệm
việc
đó.
Sư
hỏi:
-
Việc
đó
là
việc
gì?
Lại
đứng
lên
nói:
-
Không
biết.
Sư
nói:
-
Ông
đã
không
biết,
thì
người
nói
đó
là
ai?
Vị
Tăng
không
đáp
lời.
Vân
vân.
Lỗ
kiến
vỡ
đê
Mảy
bụi
che
mắt
Một
hạnh
vừa
mất
Trăm
hạnh
đổ
theo.
Trân
trọng
NGỮ
LỤC
NÓI
CHUYỆN
VỚI
SÀI
THUNG
(1278)
Tiên
quân
tôi
qua
đời.
Tôi
mới
nối
ngôi.
Thiên
sứ
đến
mở
đọc
chiếu
thư,
khiến
tôi
sợ
vui
lẫn
lộn
ở
trong
lòng.
Trộm
nghe
chúa
nước
Tống
bé
nhỏ,
mà
thiên
tử
thương
xót,
còn
phong
cho
tước
công,
thì
đối
với
tiểu
quốc
tất
cũng
được
thêm
lòng
thương
xót.
Xưa
có
bảo
sáu
việc,
đã
nhờ
ơn
tha
miễn.
Còn
lễ
tự
thân
đến
chầu
thì
tôi
sinh
trưởng
thâm
cung,
không
tập
cưỡi
ngựa,
không
quen
phong
thổ,
sợ
chết
dọc
đường.
Em
tôi
từ
thái
úy
trở
xuống
cũng
đều
thế
cả.
Thiên
sứ
trở
về,
xin
kính
cẩn
dâng
biểu
bày
tỏ
lòng
thành,
cùng
cống
vật
lạ.
NÓI
CHUYỆN
VỚI
TRƯƠNG
LẬP
ĐẠO
(1291)
Bản
quốc
quy
phụ
Thiên
triều
ba
mươi
năm
nay,
lòng
thờ
bề
trên
chưa
ngày
nào
có
chút
xao
lãng,
lễ
cống
hàng
năm
chưa
từng
thiếu
sót.
Kể
từ
đời
ông,
rồi
tới
cha,
cho
đến
ngày
nay,
trước
sau
một
lối.
Nhiều
lần
tiếp
được
chiếu
vời,
chỉ
vì
đau
yếu
không
thể
vào
chầu,
đến
nỗi
Thánh
thượng
nổi
giận,
dấy
quân
sang
đánh,
khiến
cho
sinh
linh
nước
tôi
bị
giết
hại,
lăng
mộ
bị
bới
đào,
chùa
chiền
bị
đốt
phá,
cây
cối
bị
chặt
đẵn
không
thể
kể
xiết.
Bản
quốc
chẳng
có
tội
tình
gì
mà
phải
chịu
nạn
lớn
như
vậy.
Chiếu
thư
của
thiên
tử
lần
nào
cũng
nói
nước
tôi
có
tội
giết
quốc
thúc,
đuổi
sứ
giả,
chống
cự
quân
thiên
triều,
tội
ấy
đến
nay
chưa
thể
tha,
nhưng
quốc
thúc
tôi
vốn
do
tiên
vương
tôi
sai
sang
chầu
“Thiên
tử”
để
thay
mặt
giải
bày,
“Thiên
tử”
lại
phong
quốc
thúc
làm
vương,
khiến
cho
quốc
thúc
tôi
tự
hãi
không
biết
tránh
đi
đâu.
Chẳng
phải
nước
tôi
hại
quốc
thúc
mà
quốc
thúc
tự
trốn
ra
miền
Hải
Nam,
người
trong
tông
tộc
cầm
quân
nghênh
chiến,
điều
ấy
quả
thực
tôi
không
hề
biết
vậy.
Duy
một
việc
không
sang
chầu
là
vì
tham
sống
sợ
chết
chứ
không
có
ý
gì
khác;
xa
ngoài
vạn
dặm,
đường
đất
gian
nguy,
chướng
khí
núi
non,
không
quen
thủy
thổ,
nếu
chết
ở
giữa
đường
phỏng
có
ích
gì
cho
“thượng
quốc”
đâu?
Liền
mấy
năm
nay,
lễ
cống
không
thiếu
sót,
cẩn
thận
thờ
người
trên,
phỏng
có
thiệt
gì
cho
“thượng
quốc”
đâu?
Tâm
tình
đó
của
người
dưới
không
được
đề
đạt
đến
người
trên
vậy.
Nay
thiên
sứ
sang
đây,
mong
được
kể
rõ
nỗi
oan
của
bản
quốc,để
ngài
về
kinh
tâu
bày
trước
“thiên
tử”.
“Khắp
cả
gầm
trời,
chẳng
đâu
không
phải
đất
nhà
vua;
khắp
các
bến
bờ
trên
cõi
đất,
chẳng
ai
không
phải
bề
tôi
nhà
vua.
Cả
nước
Nam
này
đã
là
dân
của
“Thiên
tử”
thì
lại
càng
không
có
chí
gì
khác.
“Thiên
tử”
coi
bốn
bể
là
nhà,
nước
tôi
tuy
không
sang
chầu
được
thì
cũng
vẫn
ở
trong
lãnh
vực
ấy,
vẫn
là
bề
tôi
của
xã
tắc,
điều
này
duy
trời
đất
biết
cho
thôi.
--o0o--
Mục
lục
Phần
I:
Chương
I|
Chương
II |
Chương
III
|Chương
IV
|Chương
V
|Chương
VI
|Chương
VII
|Chương
VIII
|Chương
IX
Phần
II:
|Lời
dẫn |Thơ
|Phú
|Bài
giảng
|Ngữ
lục|Văn
xuôi
|Văn
thư
---o0o---
| Thư Mục
Tác Giả |
---o0o---
Chân thành Đạo hữu Tâm Diệu đã gởi
tặng phiên bản điện tử tập sách này
(Trang nhà Quảng Đức, 02/2002)
Trình bày : Nhị Tường