Ăn
Chay và Sức Khỏe
Trần Anh Kiệt
Sydney, 1999
--- o0o---
Phần Ba
ĐẶC
TÍNH DINH DƯỠNG
CỦA VÀI LOẠI THỰC VẬT
Bài I
ĐẬU NÀNH VÀ KHẢ
NĂNG
PHÒNG CHỐNG BỊNH TẬT
Đậu
nành là một loại thực vật quen thuộc
đối với người Việt Nam mình. Nó là
một thứ nguyên liệu dùng để chế
biến các loại tương, chao, đậu hủ và
một số thực phẩm chay lạt khác. Hiện
nay trên thế giới người ta sản xuất
rất nhiều đậu nành để làm thực
phẩm cho người và cho gia súc. Đối
với các loại rau quả, ngũ cốc và thịt
động vật, đậu nành chứa một trữ
lượng chất Protein dồi dào hơn cả. Theo
tự điển bách khoa World Book, đậu nành
chứa đến 40 phần trăm chất Protein so
với cùng trọng lượng thịt bò và cá
chỉ chứa có 18 phần trăm protein mà
thôi. Theo sách Một trăm Cây Thuốc Vạn
Linh Bá chứng của Linh mục Vũ Đình
Trác, đậu nành có đặc tính giải
nhiệt, lợi khí và tăng lực. Chủ trị
điều hòa ngũ tạng, bổ nguyên khí và
thông lợi 12 kinh mạch. Đặc biệt đậu
nành chống được tà khí, trợ ruột,
giúp làm ấm tỳ vị, nhất là bồi bổ
tim, thận và trị bệnh của thận. Lá
đậu nành có đặc tính an thần và giúp
d ngủ.
Hiện
nay trước tình trạng bệnh nan y đang lan
tràn trên thế giới, các khoa học gia
đã nghiên cứu đủ mọi phương pháp
để phòng chống kể cả áp dụng phương
pháp dưỡng sinh, y thuật Đông Phương
và dược thảo. Trong quá trình nghiên
cứu, các khoa học gia đã để ý tới
hai nước Trung Hoa và Nhật Bản. Phần
đông dân chúng trong hai quốc gia này có
thói quen tiêu thụ đậu nành và những
sản phẩm của đậu nành trong các bữa
ăn thường nhật. Nên tỷ số những
người mắc bệnh nan y rất thấp so với
các nước Tây Phương và Hoa Kỳ. Vì
thế họ đổ xô nhau đi nghiên cứu về
đặc tính của đậu nành để xem có thể
ứng dụng vào y dược để điều trị
một số bệnh tật hay không.
Tháng
9 năm 1996, hội nghị quốc tế lần thứ
hai nhằm tổng kết các thành quả nghiên
cứu của khoa học gia về công dụng của
đậu nành trong lãnh vực y học đã
được din ra trong 5 ngày liền tại
Brussels. Hơn 80 khoa học gia đến từ khắp
nơi trên thế giới đã lần lượt
thuyết trình về những kết quả sưu tầm
mới nhất mà họ đã thu đạt được
trong lãnh vực y khoa trị liệu. Sau đây
chúng tôi xin tóm tắt những thành quả
đó và coi như là những tin vui để
cống hiến quý vị độc giả.
1.
Đậu nành có khả năng chữa được
bệnh tim mạch:
Hiện
nay nhiều bằng chứng cụ thể cho thấy
đậu nành có khả năng làm giảm
lượng cholesterol của những người bị
bệnh cao mỡ. Những bệnh nhân này nếu
để lâu sẽ dẫn đến bệnh tim trầm
trọng và có nguy cơ bị chết bất đắc
kỳ tử vì mạch máu bị nghẽn hay tim bị
kích ngất. Thực ra chất Protein trong đậu
nành có khả năng làm hạ mức độ hai
độc tố LDL Cholesterol và Triglyceride, tác
nhân gây ra bệnh cao mỡ. Kết quả này
rất khả quan và công hiệu hơn hẳn việc
trị liệu bằng phương pháp ăn uống theo
qui thức do các chuyên gia y tế ấn định,
kể cả việc chữa được các chứng
bệnh cao mỡ trầm trọng và bệnh cao mỡ
ở trẻ con.
Thêm
vào đó, đậu nành còn có khả năng
làm tăng lượng HDL cholesterol, một chất
hữu ích trong cơ thể có tác dụng đề
kháng lại hai chất LDL Cholesterol và
Triglyceride độc hại kể trên. Ngoài ra
đậu nành cũng còn có công hiệu ngăn
chận sự oxýt hóa của chất LDL
Cholesterol, không cho chúng có cơ hội
chuyển hóa thành những nguyên tố độc
hại khác, và phòng ngừa được chứng
nghẽn các mao huyết quản.
Isoflavones
là một hợp chất thiên nhiên hàm
chứa trong đậu nành có cấu trúc hóa
học tương tợ như kích thích tố nữ
oestrogen. Hiện thời người ta chưa chứng
minh được chính protein trong đậu nành hay
chỉ riêng chất Isoflavones trong protein của
đậu nành là có công hiệu chữa các
chứng bệnh trên. Tuy nhiên các khoa học
gia đều đồng quan điểm rằng đậu nành
nói chung có khả năng trị được bệnh
tim mạch, đặc biệt là chứng cao
Cholesterol trong máu.
2.
Đậu nành chữa được bệnh của xương:
Xưa
nay các chuyên gia y tế đều công nhận
calcium có khả năng phòng ngừa được
bệnh xương xốp (osteoporosis), thường xảy
ra trong giới phụ nữ trọng tuổi. Bệnh
này cũng có xảy ra cho nam giới nhưng
với một tỷ lệ thấp hơn. Ngoài ra sự
ăn uống theo quy thức cũng có khả năng
làm cho xương được rắn chắc. Tuy nhiên
các nghiên cứu gần đây cho thấy
những người thường ăn đậu nành như
dân chúng Nhật Bản cũng ít khi mắc
phải bệnh xương xốp.
Người
ta thí nghiệm trên loài chuột bằng cách
cho chúng ăn toàn đậu nành không
những ngăn chận được chứng thoái
hóa calcium của xương mà còn làm cho
xương được rắn chắc. Isoflavones trong
đậu nành là một chất có tính năng
động có tác dụng giống như oestrogen
ngăn ngừa được chất men tyrosin kinase
làm cho xương bị xốp và d gãy. Nó cũng
còn trợ giúp cho tế bào xương hình
thành vững vàng. Một cuộc thí nghiệm
khác được thực hiện bằng cách cắt
bỏ noãn sào (buồng trứng) của chuột
cái để cho nó không sản xuất ra kích
thích tố oestrogen nữa, rồi cho chúng ăn
toàn bằng đậu nành. Chất Isoflavones trong
đậu nành vẫn ngăn chận được sự
thoái hóa của xương và làm cho xương
luôn luôn khỏe mạnh.
Những
nghiên cứu gần đây cho biết những
phụ nữ sau thời kỳ tắt kinh, mỗi ngày
dùng bột hay sữa đậu nành thường
xuyên thì mật độ khoáng chất trong
xương vẫn duy trì ở mức độ bình
thường. Hiện nay tại Úc Châu xưởng
bào chế dược phẩm đã sản xuất ra
thuốc bằng đậu nành để cho người
phụ nữ trong tuổi tắt kinh sử dụng
hằng ngày rất tiện lợi.
3.
Đậu nành có thể phòng chống được
bệnh ung thư:
Qua
những nghiên cứu gần đây, các khoa
học gia ghi nhận những người thường
dùng đậu nành hoặc các sản phẩm của
đậu nành trong khẩu phần ăn uống hằng
ngày ít có nguy cơ bị bệnh ung thư nhũ
hoa, tử cung, ruột già và nhiếp hộ
tuyến. Các nghiên cứu khác được
thực hiện trên cơ thể súc vật bằng
cách gây cho chúng bị nhim bệnh ung thư
rồi dùng chất genistein hàm chứa trong
đậu nành để chữa trị thì thấy nó
ngăn chận được sự phát triển của
bịnh ung thư ruột già, gan và vú. Người
ta còn nghiên cứu bằng cách giả tạo
một sự sống như thể trạng thật của
một con người đang bị nhim bệnh ung thư
và đặt trong ống nghiệm . Sau đó họ
trích các hợp chất từ đậu nành để
chữa trị và đạt được kết quả hữu
hiệu. Những hợp chất này còn có khả
năng ngăn chận sự cung cấp máu để
nuôi dưỡng một loại tế bào đặc
biệt có khuynh hướng hình thành các
bướu ung thư.
Hiện
nay các thí nghiệm được thực hiện
trên cơ thể của loài thú về khả năng
chống bệnh ung thư của đậu nành đã
thành công một cách tốt đẹp. Tuy nhiên
đối với con người cần phải thực
hiện thêm nhiều cuộc thí nghiệm khác
nữa để xác dịnh mức độ hữu hiệu
và an toàn rồi mới công bố để sử
dụng. Gần đây khoa học gia Yehudith Birk
của trường Đại học Hebrew ở Jerusalem
đã thực hiện được một vài phương
pháp đáng khích lệ, có thể chữa
được bệnh ung thư ở nhiều cấp độ
trầm trọng và trong nhiều bộ phận cơ
thể khác nhau mà không cần biết bệnh
đã phát sinh vì nguyên do gì. Hiện nay Cơ
quan Quản Trị Thực Phẩm và Dược Phẩm
Hoa Kỳ đang cho phép áp dụng phương pháp
này để điều trị một số bệnh nhân
tình nguyện trong bệnh viện để thí
nghiệm và kiểm chứng. Saponin và những
hợp chất khác của đậu nành cũng đang
được nghiên cứu và áp dụng. Mong
rằng cuộc thí nghiệm này được sớm
thành công và sẽ mang lại một tin vui cho
nhân loại trên toàn thế giới.
4.
Đậu nành và bệnh thận:
Trong
lãnh vực này, người ta nghiên cứu
một cách lẻ tẻ và hiện chưa có một
kết quả thỏa đáng nào. Song vài thí
nghiệm cho thấy đậu nành cũng có ích
lợi trong việc chữa trị bệnh thận. Các
khoa học gia của Ấn Độ đã chứng minh
quy thức ăn uống bằng cách tiêu thụ
rất ít chất béo và chất protein rồi
phối hợp thêm đậu nành trong khẩu
phần hằng ngày có công hiệu giảm
được chất cholesterol trong máu. Các
cuộc thí nghiệm khác trên loài chuột
chứng minh được chất Genistein trong đậu
nành có thể làm cho mạch máu được
thư dãn và giảm chế được tốc độ
lọc máu của hận, nên tránh được
bệnh tiểu đường. Người ta đã trích
hợp chất trong đậu nành để tiêm cho
những con bò đã bị gây bệnh tiểu
đường thì thấy tốc độ lọc máu của
chúng trở lại mức độ bình thường.
5.
Đậu nành và ảnh hưởng sinh lý của
phụ nữ:
Aedin
Cassidy và các khoa học gia của Anh Quốc
đã ngiên cứu biết được đậu nành
điều hòa chu kỳ kinh nguyệt của phụ
nữ và kềm chế được sự phát triển
quá mức kích thích tố oestrogen của phụ
nữ trẻ tuổi. Vì khi kích thích tố này
phát triển quá nhiều, người phụ nữ
sẽ có sát suất d bị bệnh ung thư nhũ
hoa hơn.
Đối
với những phụ nữ sau thời kỳ tắt
kinh, dùng đến 40% đậu nành trong khẩu
phần ăn uống hàng ngày sẽ không cần
phải uống thuốc hồi phục kích thích tố
mà vẫn có thể phòng ngừa được
bệnh xương xốp. Nếu cảm thấy ăn uống
bất tiện thì có thể dùng oestrogen thiên
nhiên được bào chế thành thuốc viên
từ đậu nành hiện có bày bán hợp
pháp tại các tiệm dược phẩm.
6.
Đậu nành và sức khỏe của trẻ con:
Tại
New Zealand, người ta thí nghiệm bằng cách
nuôi những con vẹt bằng bột đậu nành
theo công thức sữa nuôi trẻ con và
báo cáo rằng không có ảnh hưởng gì
xấu đối với sự sinh sản và cơ quan
sinh thực của chúng. Tuy nhiên thí nghiệm
ở loài vật có kết quả chưa hẳn sẽ
trùng hợp với thí nghiệm ở loài
người. Trong thập niên qua, ông Kenneth
Setchel, chuyên gia nghiên cứu về đậu
nành đã báo cáo rằng trẻ con được
nuôi dưỡng với sữa đậu nành có
công thức Isoflavones cao vẫn được an
toàn. Trong nhiều năm nuôi dưỡng như
vậy cũng không có ảnh hưởng gì xấu
cho đứa bé cả. Khoa học gia Alercreutz
bảo rằng người Á Châu thường ăn
uống nhiều đậu nành hơn không có ảnh
gì bất lợi cho việc sinh sản của họ
cả. Chất Isoflavones tập trung trong thủy
dịch bao bọc chung quanh bào thai tương
đồng với mức độ Isoflavones trong máu
của một người mẹ bình thường. - Nhật
Bản, trẻ con khoảng 4 tháng tuổi là đã
cho dứt sữa mẹ và được thay thế
bằng sữa đậu nành, được bảo đảm
rằng nó sẽ có đầy đủ sức khỏe
trong tương lai vào thời kỳ khôn lớn.
Lamartinière đã thí nghiệm bằng cách cho
chuột ăn chất Genistein của đậu nành
sẽ tránh được bệnh ung thư vú về sau.
Hiện thời người ta vẫn còn nghiên
cứu để xác định rõ ràng vai trò của
đậu nành trong việc nuôi dưỡng trẻ con
quan trọng như thế nào.
Tóm
lại, qua sự trình bày trên đây, chúng
ta thấy quả thật đậu nành đã có
công hiệu đối với việc phòng ngừa
và chữa trị một số bệnh tật. Tuy
nhiên vì bản thân nó xuất xứ từ
một loại thảo mộc tầm thường nên
trong dân gian ít ai để ý tới. Tại Hoa
Kỳ, người ta đang nghiên cứu dể nắm
vững các chứng minh cụ thể về công
dụng của đậu nành rồi mới chính
thức đưa vào y khoa trị liệu. Tại Úc
Châu tầm mức của đậu nành có khả
năng y dược chưa được đặt thành
đề tài nghiên cứu quan trọng. Tuy nhiên
trong thời gian gần đây người ta đã
bắt đầu sử dụng đậu nành để sản
xuất chất oestrogen nhân tạo và được
bày bán trong các nhà thuốc tây một
cách hợp pháp để cho các phụ nữ
trong tuổi tắt kinh sử dụng hàng ngày
rất tiện lợi. Mong rằng trong tương lai,
những công dụng khác của đậu nành
trong lãnh vực y dược sẽ còn được
quảng bá rộng rãi hơn nữa và sẽ mang
lại nhiều hữu ích thiết thực trong
việc bảo vệ sức khỏe của con người.
Người
Á Châu mình đã biết dùng đậu nành
để chế biến nhiều loại thức ăn. Tuy
không nghiên cứu rõ ràng, nhưng may mắn
ngẫu nhiên trùng hợp về giá trị dinh
dưỡng đặc biệt của nó.
[^]
Bài
II
CHUỐI CÓ KHẢ
NĂNG TRỊ BỆNH CAO HUYẾT ÁP
Bệnh
cao máu là một chứng bệnh thường xảy
ra trong giới những vị trọng tuổi.
Nguyên do phần lớn vì sự di truyền của
huyết thống hoặc vì sự ăn uống kém
cẩn trọng trong xã hội văn minh hiện nay.
Người ta có thể chữa bệnh cao máu
bằng thuốc kết hợp với sự ăn uống
có phương pháp do bác sĩ y khoa hướng
dẫn.
Theo
tạp chí New Vegetarian and Natural Health chuyên
phổ biến các nghiên cứu về ăn chay
và dinh dưỡng, xuất bản gần đây tại
Úc Châu cho biết: Hàng ngày, mỗi
người trung bình chỉ cần ăn một trái
chuối là có đủ khả năng phòng ngừa
được bệnh cao máu. Đối với bệnh
nhân đang mắc phải chứng bệnh này,
chuối cũng có thể chữa trị hoặc làm
giảm thiểu được tầm mức nguy hiểm
của bệnh.
Bác
sĩ y khoa Frank M. Sack, thuộc viện Đại học
Harvard ở Boston Hoa kỳ cho biết chuối là
một thứ trái cây chứa nhiều hàm
lượng chất potassium, một loại khoáng
chất thiên nhiên rất hữu ích cho sự
hoạt động của tim mạch. Ông đã thực
hiện cuộc khảo sát bằng cách chia 300 y
tá của nhà trường, trong tình trạng
bình thường về huyết áp, ra thành 3
nhóm. Rồi cho họ ăn uống bằng những
thực phẩm có chứa đựng các loại
dưỡng chất khác nhau trong một thời
hạn ấn định. Kết quả cuộc thí nghiệm
cho thấy thành phần máu của những
người trong nhóm ăn nhiều dưỡng chất
calcium và magnesium không hề hấn gì.
Ngược lại nhóm người đã dùng thực
phẩm có chứa nhiều chất Potassium thì
áp suất máu của họ đã giảm xuống 2
điểm.
Những
nghiên cứu khác cũng còn cho thấy
potassium cũng có khả năng làm cho huyết
áp của những người đang bị bệnh cao
máu trở lại tình trạng bình thường.
Cuộc khảo sát cũng còn cho biết một
người lớn chỉ cần mỗi ngày từ 3500
đến 4000mg chất potassium thiên nhiên là
đủ. Một trái chuối trung bình chứa 450mg
potassium và một củ khoai tây nướng trung
bình chứa 850mg potassium. Ngoài ra chất
potassium cũng còn tìm thấy trong các loại
trái cây và rau cải tươi khác.
[^]
Bài
III
KHẢ NĂNG
PHÒNG CHỐNG BỆNH UNG THƯ DA
CỦA TRÁI CÂY VÀ RAU
CẢI
Theo
thống kê của các cơ quan y tế, Úc Châu
là một trong những nước có tỷ số
dân chúng mắc bệnh ung thư da cao nhất
trên thế giới. Cho nên họ thường
khuyến cáo mọi người nên sử dụng kem
chống nắng mỗi khi sinh hoạt ở ngoài
trời.
Tuy
nhiên theo nhật báo The Sydney Morning Herald
xuất bản ngày 19-2-1998 đã tiết lộ: Kem
chống nắng không có khả năng toàn
diện trong việc phòng ngừa các bệnh ung
thư da mà chỉ có rau cải và trái cây
tươi mới thực sự có công hiệu dề
kháng lại chứng bệnh nguy hiểm này mà
thôi.
Phần
lớn các loại rau cải và trái cây
đều chứa các sinh tố A, C và E gọi
chung là chất Antioxidant. Chất này có
tác dụng ngăn chận các tia quang tuyến
tử ngoại loại A của ánh nắng mặt
trời, không cho chúng có cơ hội tổng
hợp các chất melanoma thành những vết
thâm trên da rồi dần dần chuyển biến
thành các vết ung thư nguy hiểm.
Nhà
quang tuyến học Richard Setlow thuộc viện
nghiên cứu Brookhaven ở New York đã phát
biểu trong một buổi họp các khoa học gia
rằng kem chống nắng không có công hiệu
ngăn ngừa sự tạo thành chất melanoma
gây ra bởi ánh nắng mặt trời. Ông
bảo 90 phần trăm chất melanoma tai hại
được hình thành bắt nguồn từ tia
cực tím UV-A và chỉ 10 phần trăm là do
tia UV-B mà thôi.
Bác
sĩ chuyên khoa về da là ông Frank Gasparro
thuộc viện Đại học Thomas Jefferson ở
tiểu bang Philladelphia bảo kem chống nắng
thông thường chỉ có công dụng ngăn
ngừa sự cháy nắng và phỏng da. Tuy
nhiên những loại kem chống nắng được
bào chế với kỹ thuật cao, có công
thức phối hợp với các chất antioxidant
mới có công hiệu ngăn chận các tia
tử ngoại, nhưng khả năng rất hạn hẹp.
Cách tốt nhất là chúng ta nên ăn
nhiều loại rau trái hàng ngày để củng
cố sức đề kháng của cơ thể rồi bôi
thêm kem chống nắng là phương pháp tốt
và hữu hiệu nhất trong việc đề phòng
bệnh ung thư da mà thôi.
Ngoài
ra các nghiên cứu cũng cho biết chất
antioxidant trong diệp lục tố của trà xanh
cũng có công hiệu chống lại bệnh ung
thư da và một vài loại ung thư khác.
Tóm
lại sự ăn uống đóng một vai trò vô
cùng quan trọng trong việc bảo vệ sức
khỏe của con người. Biết cách ăn uống
thích hợp cũng là phương pháp hữu
hiệu để ngăn ngừa các loại bệnh nan y
hiện nay đang lan tràn trên thế giới.
[^]
Bài
IV
SINH TỐ CÓ
TRONG CAM, CHANH, QUÍT VÀ BƯỞI CHỐNG
ĐƯỢC BỆNH CẢM CÚM MÙA ĐÔNG
Tại
Úc Châu, hàng năm khi đến mùa đông,
dân chúng thường hay mắc phải bệnh
cảm cúm. Tuy cảm cúm không phải là
chứng bệnh khó trị, nhưng nếu khinh
thường hoặc không chạy chữa kịp thời
và đúng cách, nó có thể làm cho sức
đề kháng của cơ thể bị suy yếu và
rất d bị vi khuẩn của các bệnh tật
khác tấn công. Vi thế các cơ quan y tế
của chính phủ thường hay khuyến cáo
dân chúng, nhất là những người già
cả, bệnh hoạn hay yếu đuối nên chích
ngừa để đề phòng bệnh cảm cúm mỗi
khi mùa đông sắp đến.
Tuy
nhiên người ta cũng có thể đề phòng
bị cảm cúm bằng cách giữ gìn cho cơ
thể luôn luôn được khỏe mạnh mà
sự ăn uống với đầy đủ chất bổ
dưỡng cũng đóng một vai trò vô cùng
cần thiết.
Theo
thống kê, hàng năm mỗi người trong
chúng ta trung bình mắc phải bệnh cảm
cúm nặng hay nhẹ tổng cộng là 6 lần.
Các chứng bệnh cảm cúm này cùng với
vi khuẩn của những bệnh tật khác sẽ
đồng lõa với nhau tàn phá sức khỏe
của chúng ta và làm cho sức min nhim bị
suy yếu. Vì thế chúng ta sẽ bị cảm cúm
trầm trọng hay biến chứng sang các bệnh
tật khác. Các chuyên gia y tế thường
khuyến cáo chúng ta nên giữ gìn sức
khoẻ để phòng bệnh tốt hơn là để bị
bệnh rồi mới chạy chữa. Nhưng giữ
gìn sức khỏe không phải chỉ chú trọng
tới thường xuyên hoạt động về thể
lực mà phải biết cách ăn uống sao cho
cơ thể có khả năng đề kháng lại
bệnh tật một cách hữu hiệu.
Ông
Peter Sevcek, một chuyên gia y tế cho biết,
sinh tố C trong rau quả mà đặc biệt trong
cam, chanh, quít và bưởi có khả năng
dinh dưỡng đáng kể làm gia tăng sức
mạnh và số lượng bạch huyết cầu nên
đề kháng được một số bệnh tật mà
trước mắt là bệnh cảm cúm mùa
đông.
Những
người thường dùng sinh tố C hàng ngày
ít khi bị bệnh hoặc nếu đã bị bệnh
rồi thì số ngày nghỉ dưỡng bệnh cũng
giảm thiểu được 30 phần trăm. Trong số
100 người dùng sinh tố C hàng ngày thì
có 40 người hoàn toàn không mắc phải
chứng bệnh nào hết kể cả bệnh cảm
cúm mùa đông. Sinh tố C cũng là một
thành phần trong hợp chất antioxidant có
khả năng phòng chống lại với sự suy
thoái tế bào gây ra bởi nhiều nguyên
nhân khác nhau. Các loài động vật khác
có khả năng tự sản sinh ra lượng sinh
tố C đủ để cung ứng cho nhu cầu của
cơ thể. Tuy nhiên con người thì không
có cái khả năng bẩm sinh đó nên phải
hấp thụ từ bên ngoài như thuốc men và
sự ăn uống. Nhưng có điều cơ thể
của chúng ta có thể sản sinh ra một
chất xúc tác gọi là Calcium L-Threonate
có nhiệm vụ kích thích sự hấp thụ sinh
tố C. Song không phải ai cũng có khả
năng tiếp nhận đồng đều. Những
người ít có khả năng tiêp thụ sinh
tố C lại thường là những người d bị
thất thoát sinh tố C qua đường bài
tiết.
Hiện
nay sinh tố C được các hãng dược
phẩm bào chế từ hóa chất hay các
hợp chất thiên nhiên với nhiều nhãn
hiệu thương mại khác nhau. Tuy nhiên sinh
tố C hàm chứa trong các loại rau quả
mà nhất là trong cam, chanh, quít và
bưởi là dồi dào và tốt nhất vì nó
còn giữ được đặc tính thiên nhiên
vì chưa thông qua giai đoạn bào chế bằng
phương pháp khoa học nên rất thích hợp
cho sự dinh dưỡng của con người.
[^]
Bài
V
DẦU MÈ TRONG
ĂN UỐNG VÀ DINH DƯỠNG
Mè
là một loại thực vật thường được
trồng rất nhiều tại các nước nhiệt
đới và ôn đới thuộc vùng Á Châu.
Hạt của nó rất nhỏ nhưng lại chứa
rất nhiều dầu. Có hai loại mè: Mè hạt
đen thường được gọi là mè đen và
mè hạt trắng thì thường được gọi
là mè trắng. Tuy nhiên khi đã ép thành
dầu rồi thì người ta chỉ gọi một tên
duy nhất là Dầu Mè chớ không có phân
biệt đen hay trắng. Mè không được
thông dụng tại các quốc gia Âu Mỹ cho
lắm, mặc dầu một phần lãnh thổ của
Âu Châu và Bắc Mỹ đã có trồng mè.
Dầu mè chứa rất nhiều khoáng chất và
protein có phẩm chất cao, rất thích hợp
cho sự ăn uống và dinh dưỡng của con
người.
Dầu
mè là một loại dầu thực vật chứa
rất nhiều chất béo d tan nên được
hấp thụ trực tiếp vào tế bào và
được cơ thể tiêu dùng ngay. Lọai chất
béo này cũng cung cấp khí oxy cho cơ thể
để đốt các thức ăn thành ra năng
lượng góp phần hữu hiệu trong sự
thanh lọc để loại trừ các chất cặn
bã. Dầu mè cũng còn phòng ngừa và
chữa trị được bệnh táo bón, bệnh ung
mủ, da chốc lở và một số bướu độc
nữa. Nó cũng công hiệu để làm cho an
thần, chữa chứng mất ngủ, kích thích
sự hoạt động và gia tăng sức mạnh
của cơ tim vì nó chứa nhiều thành phần
sinh tố E và đặc biệt rất hữu ích cho
người phụ nữ trong thời kỳ thai
nghén. Hạt mè và dầu mè là một thứ
thức ăn rất tốt cho những bệnh nhân
đau gan và mật vì nó là một loại dầu
rất d tiêu hóa.
Mè
hữu ích cho sức khỏe của con người
trong nhiều phương diện. Nên chúng ta cần
khuyến khích trẻ con ăn nhiều thực phẩm
bằng mè để thay thế cho bánh kẹo bình
thường vì trong lãnh vực dưỡng sinh
mè chứa nhiều chất bổ dưỡng thiên
nhiên và hoàn hảo nhất cần thiết cho
sự tăng trưởng của cơ thể con
người.
Trong
xã hội văn minh và hoạt động không
ngừng nghỉ, con người lúc nào cũng
căng thẳng từ thần kinh não bộ cho
đến các cơ quan ngũ tạng. Người ta
thường hay ăn uống vội vàng và không
chú trọng đến phẩm chất của thức
ăn. Cho nên ngoài bao tử ra, gan cũng là
cơ quan chịu rất nhiều ảnh hưởng. Tuy
nhiên muốn cho gan được khoẻ mạnh và
luôn hoạt động điều hòa không gì tốt
hơn là phải ngó ngàng và chăm sóc
nó. Mè và dầu mè là loại thực phẩm
không thể thiếu trong mọi gia đình. Hàng
ngày chúng ta có thể ăn mè rang rắc
vào cơm gạo lứt, ăn bánh mì mè hoặc
có thể dùng dầu mè để trộn xà lách
rất thơm ngon và rất tốt cho gan và mật.
Mè chứa rất nhiều protein gồm 8 loại
amino acids căn bản cho nhu cầu dinh dưỡng.
Khi gan và mật khỏe mạnh, sức dề kháng
của cơ thể chúng ta cũng mạnh theo, nên
có khả năng chống lại được các vi
khuẩn viêm gan độc hại xâm nhập vào
cơ thể. Khi ăn mè chúng ta phải nhai cho
thật kỹ để cho hạt mè nát hẳn hoàn
toàn rồi mới nuốt vào thì khả năng
hấp thụ dưỡng chất của cơ thể mới
có công hiệu hơn.
Mè
thường được trồng ở vùng ôn đới
có nhiều nắng ấm nên tiếp nhận rất
nhiều năng lượng từ ánh nắng mặt
trời. Bản thân nó đã là một thứ
thảo mộc khỏe mạnh rồi. Nguồn năng
lượng khỏe mạnh đó sẽ du nhập vào
cơ thể chúng ta bằng đường ăn uống.
Mè
cũng còn có khả năng làm giảm cơn đau
nhức và bắp thịt mệt mỏi. Chúng ta chỉ
cần dùng dầu mè để xoa bóp vào
những chỗ đau thì chốc lát sau sẽ thấy
thoải mái. Nó cũng là một thứ thuốc
nhuận trường rất hay và sử dụng lâu
dài chỉ tốt chớ không hề gây ra
những phản ứng bất lợi. Mè là một
loại thực phẩm hoàn hảo. Nhưng tiếc
thay không mấy ai trên thế giới này
để ý đến nó. Vậy khi chúng ta sử
dụng mè và thấy nó thật sự là một
thức ăn tốt thì cũng cần nên phổ
biến cho bạn bè và đồng hương. Một khi
thân thể khỏe mạnh cường tráng thì
bệnh tật khó xâm nhập được.
Tại
vùng Cận Đông như ở Palestine, mè
được dân chúng coi như là một loại
thực phẩm dưỡng sinh và thuốc gia
truyền đã được sử dụng từ ngàn
xưa. Riêng tại Á Đông, dân Nhật là
một sắc dân đã biết tận dụng sự
ích lợi của mè để điều trị nhiều
loại bệnh tật. Phương pháp Oshawa của
Nhật Bản ăn bằng gạo lứt muối mè
để chữa bệnh nan y cũng được nhiều
người biết và áp dụng có hiệu quả.
[^]
Bài
VI
SỰ ÍCH LỢI
CỦA DẦU Ô-LIU TRONG
ĂN UỐNG VÀ PHÒNG
CHỐNG BỆNH TẬT
Dầu
ô-liu là một loại dầu ăn thảo mộc
ngày nay được sử dụng một cách phổ
biến trên thế giới. So với mỡ động
vật và các loại dầu ăn thảo mộc
khác thì dầu ô-liu rất tốt và rất bổ
ích cho sức khỏe của con người. Chất
béo của trái ô-liu có khả năng kích
thích sự tiêu hóa và điều hòa hệ
thống tiêu hóa. Đặc biệt hơn cả là
lá của cây ô-liu cũng có công dụng
như một loại dược thảo. Nó có đặc
tính như thuốc trụ sinh có khả năng
tiêu diệt được vi khuẩn của một số
bệnh tật.
Sự
khám phá trên đây không phải là mới
mẻ. Từ ngàn xưa loài người đã biết
dùng lá ô-liu sắc thành nước uống
để chữa trị bệnh nóng lạnh và các
bệnh cảm cúm thông thường.
Theo
nghiên cứu của các khoa học gia gần
đây cho biết, lá ô-liu có chứa một
loại dược chất là oleuropein vừa có
khả năng như thuốc trụ sinh rất mạnh.
Ngoài ra nó cũng chứa hợp chất
antioxidant có công hiệu đề kháng lại
sự suy thoái tế bào (nguyên nhân gây
bệnh ung thư) và còn làm hạ giảm
được huyết áp... Hơn nữa nó cũng
còn có khả năng tăng gia sức mạnh
của hệ thống min nhim của cơ thể, chống
đỡ tiến trình lão hóa của con người
và tiêu diệt được nhiều loại vi
khuẩn khác nhau.
Ngày
nay người ta đã áp dụng phương pháp
khoa học tối tân để trích tinh chất của
lá ô-liu một cách thuần khiết để
chữa trị bệnh cảm hàn, diệt trùng và
chữa được một số bệnh nấm độc ở
ngoài da. Riêng việc người ta sử dụng
lá ô-liu để chữa bệnh cao huyết áp
đã được ghi chép trong các sách
dược thảo học tự ngàn xưa. Nó cũng
còn làm cho bắp thịt được thư dãn,
điều hòa sự tuần hoàn huyết và
chữa trị được một số bệnh tim thông
thường. Nó cũng giúp máu huyết lưu
thông đến tận các mao huyết quản, ngăn
ngừa được sự đông máu nên có
khả năng phòng ngừa được chứng tai
biến mạch máu não.
Qua
sự trình bày trên đây, chúng ta thấy
dầu ô-liu là một loại dầu thực vật
rất tốt cho sức khỏe của con người.
Vì vậy chúng ta nên sử dụng dầu ô-liu
để thay thế cho các loại dầu mỡ khác
để vừa xào nấu thức ăn một cách
ngon miệng mà lại vừa có khả năng
phòng ngừa được một số bệnh tật
có ảnh hưởng không tốt cho sức khỏe
của chúng ta.
[^]
Bài
VII
NHA ĐAM HAY LÔ
HỘI,
CÂY KIỂNG VÀ DƯỢC
THẢO
Nha
đam hay lô hội thường thấy được
trồng khá nhiều tại những nhà yêu
thích cây kiểng ở Việt Nam. Một số bà
con mình ở thôn quê cũng coi cây nha đam
như một loại thuốc dân gian cổ truyền
bằng cách lấy chất keo của nó đắp
lên mắt nhặm để chữa bệnh đau mắt
hay đắp lên vết thương nhẹ để cầm
máu. Trước đây đồng bào ta chưa có
kinh nghiệm nhiều về công dụng của nha
đam vì không có phương tiện nghiên cứu
kỹ lưỡng. Tuy nhiên trong những năm
gần đây, sau khi khoa học đã khám phá
ra công hiệu của nha đam trong lãnh vực y
dược, các nhà thương mại chụp lấy cơ
hội, thần thánh hóa và quảng cáo rầm
rộ để đưa lên thị trường như một
loại thuốc tiên và đã giúp cho một
số nhà đầu tư trên thế giới làm
giàu một cách nhanh chóng. Hiện nay một
số tư gia trong cộng đồng người Việt
tại Úc Châu cũng trồng nha đam, vừa
để làm kiểng và vừa để làm thuốc
như một phong trào.
Theo
sử sách, nha đam đã được loài
người biết dùng từ hơn 4 ngàn năm nay
như một loại dược thảo. Năm 1862, khoa
học gia George Elbers là người Ai Cập
đầu tiên đã khám phá ra công dụng
của nha đam được biên chép trong sách
cổ đã có từ 3500 năm trước Thiên
Chúa giáng sinh. Những khám phá khoa học
khác cũng xác nhận chính người Trung Hoa
và người Ấn Độ cũng biết dùng loại
dược thảo này từ ngàn xưa và đã
được ghi chép trong một số sách sử.
Các y sĩ của Hy lạp và La Mã thời cổ
như Dioscorides và Pliny The Elder đã nhận
thấy công hiệu rộng lớn của nha đam
và theo truyền thuyết thì Aristotle đã
thuyết phục Alexander Đại Đế xâm lăng
hòn đảo Socotra ở Ấn Độ Dương để
chiếm hữu loại thần dược này hầu
trị thương cho binh sĩ của họ bị chiến
thương ngoài mặt trận. Nữ hoàng Ai Cập
Nefertiti và Cleopatra cũng đã xếp hạng
nha đam là một loại mỹ phẩm tốt nhất
để dưỡng da thời bấy giờ.
Theo
thống kê của các nhà thực vật học,
hiện có hơn 200 loại nha đam được tìm
thấy trên thế giới gồm cả những
loại mọc hoang dã hoặc được người ta
trồng tỉa và chăm bón. Nhưng tựu trung
chỉ có ba hay bốn loại là có đặc tính
dược chất cao và phù hợp theo tiêu
chuẩn dược thảo.
Người
ta đã dùng chất keo của nha đam để
uống hầu điều trị một số bệnh tật
hoặc phối hợp với vài loại thuốc
khác để làm kem dưỡng da và hiện
được bày bán hợp pháp ngoài thị
trường với nhiều nhãn hiệu thương
mại khác nhau.
Nha
đam gồm có 75 hợp chất khác nhau đã
được các khoa học gia phân tích và
tập trung vào các nhóm chính sau đây:
1.-Nhóm
Sinh Tố: Nha đam gồm rất nhiều sinh tố
đáng kể như sinh tố A, C và E nên là
một loại antioxidant quan trọng có khả
năng đề kháng lại sự tự phân hủy
và suy thoái tế bào nên ngăn ngừa
được sự nguy hiểm của một số bịnh
ung thư. Đặc biệt nha đam là một loại
thực vật có chứa sinh tố B12 nên rất
thích hợp để làm thuốc bổ thiên
nhiên cho người trường chay.
2.-Nhóm
Chất khoáng: Nha đam hàm chứa các
loại chất khoáng cần thiết cho cơ thể
như magnesium, manganese, kẽm, đồng, chromium,
calcium, sodium, potassium và đặc biệt nhất
là chất antioxidant selenium.
3.-Nhóm
Amino Acids: Có 22 loại Amino acids cần
thiết cho cơ thể của con người để tạo
thành protein theo nhu cầu nhưng nha đam đã
chứa đến 20 loại. Điều quan trọng hơn
cả là có 7 loại amino acids mà cơ thể
của con người không thể tự biến chế
được mà chỉ hấp thụ trực tiếp từ
thức ăn bên ngoài thì nha đam đã
chứa đến 7 loại trong số 8 loại này.
4.-Nhóm
Đường: Nha đam có chứa chất
đường quan trọng là Polysaccharides có
tác dụng củng cố hệ min nhim và trung
hòa được một số chất độc trong cơ
thể.
5.-Nhóm
Enzymes: Hai chất enzymes quan trọng trong
nha đam là lypases và proteases có khả
năng tiêu thực và làm mạnh bộ máy
tiêu hóa nên rất hữu ích cho những
bệnh nhân bị bệnh bao tử và đường
ruột.
6.-Nhóm
Lygnin: Đây là một nguyên tố có
khả năng thâm nhập sâu vào da để bảo
vệ da một cách rất công hiệu.
7.-Nhóm
Saponins: là một nguyên tố có hình
thức như bọt xà bông, có công hiệu
chống lại các loại vi khuẩn, nấm hoặc
men độc làm cho da bị chốc lở hoặc mụn
nhọt.
8.-Nhóm
Anthraquinones: Có khả năng như thuốc
chỉ thống, chống lại sự đau nhức,
diệt trừ được một số vi khuẩn và
đặc biệt là một loại thuốc nhuận
trường rất tốt, êm dịu và dùng lâu
không bị quen lờn hay phản ứng bất
lợi.
Cây
nha đam hiệu dụng trong những trường
hợp sau đây:
Chữa
lành các vết thương, cầm máu, nhuận
gan, giúp ích cho sự tiêu hóa, chống
lại sự phân hủy tế bào của cơ thể
nên phòng ngừa được sự phát sinh
của một số bịnh ung thư độc hại. Nó
cũng có khả năng làm chậm lại tiến
trình lão hóa và đặc biệt chữa
được bịnh ngoài da và làm cho da
được tươi nhuận hồng hào. Hiện nay,
các loại xà bông kể cả thuốc gội
đầu và kem dưỡng da có phối hợp
thành phần nha đam thiên nhiên được
bày bán khắp nơi trên thị trường
nước Úc và đã được khá đông
khách hàng chiếu cố.
Tóm
lại nha đam hay lô hội là một loại
được thảo có công hiệu trong nhiều
lãnh vực chữa trị một số bịnh tật.
Tuy nhiên một số nhà sản xuất đã cố
ý thổi phồng hiệu nghiệm của nó một
cách quá đáng hầu quảng cáo để thu
đạt được lợi nhuận lớn lao trên
thị trường thương mại. Dù vậy, nha đam
vẫn là một thứ thảo mộc thiên nhiên
thật sự hữu ích và d trồng nên chúng
ta cũng có thể dùng nó để vừa làm
cây kiểng trang trí ngoại thất và vừa
làm dược thảo để sử dụng mỗi khi
cần thiết.
[^]
--- o0o ---
[Mục lục] [Bài kế]
--- o0o ---
[Mục lục] [Giới thiệu tổng quát] [Phần 01] [Phần 02]
[Phần 03] [Phần 04] [Tham khảo]
--- o0o ---
Chân thành cảm ơn anh Kiệt
đã gởi tặng phiên bản điện tử tập sách này.
Cập nhật 01-03-2003