Lược giải Kinh Pháp
Hoa
---o0o---
KINH PHÁP HOA GIỮA CÁC
KINH ĐẠI THỪA
---o0o---
Tinh
thần của Đại thừa giáo lấy Bồ-tát hạnh làm cao điểm.
Trong Bồ-tát hạnh thì kinh Pháp Hoa là kinh tiêu biểu, là kinh
đúc kết, tóm thâu tinh thần thuyết giáo của đức Phật
trong 45 năm ở cõi Ta-bà.
Kinh Pháp
Hoa diễn tả một chân lý linh động qua các hạnh của các
vị Bồ-tát, Đức Phật nhìn tất cả chúng sanh đều có
Phật tánh cho nên tất cả các việc làm thiện dù là một
việc thiện rất nhỏ cũng đều đưa đến Phật quả, như
kinh có câu:
"Nhược nhơn
tán loạn tâm,
Nhập ư tháp
miếu trung,
Nhứt xưng Nam mô
Phật,
Giai dĩ thành
Phật đạo."
Nghĩa là:
"Hoặc người
tâm tán loạn,
Đi vào trong tháp
Phật,
Niệm một lần Mô
Phật,
Đều đã thành
Phật đạo."
Hoặc:
"Nãi chí đồng tử hý, tụ sa vì Phật tháp, giai dĩ thành
Phật đạo." (Cho đến trẻ con chơi đùa, nhóm cát làm tháp
Phật đều đã thành Phật đạo).
Đó là
những điều mà các thời giáo trước Ngài chưa nói, đợi đến
khi nói kinh Pháp Hoa, đức Phật mới đề cập đến, bởi
lẽ những việc thiện dù rất nhỏ cũng xuất phát từ Pháp
tánh. Nếu như không có Phật tánh thì không thể có các
việc thiện, dù là việc thiện đó trong tán loạn tâm, việc
thiện đó cũng đưa đến kết quả thành Phật.
Những năm
đầu tiên, đức Phật thuyết giáo với giáo lý căn bản, Ngài
muốn đưa tất cả chúng sanh đến Phật quả, nhưng không
thể đưa được-như trong kinh Hoa Nghiêm-nên thuyết ra Tam
thừa. Trong khi Ngài thuyết Tam thừa, mỗi thừa đều có nhân
riêng, quả riêng, hạnh riêng. Thanh Văn thì tu Thanh Văn thừa,
Duyên Giác thì tu Duyên Giác thừa, Bồ-tát thì tu Bồ-tát
thừa. Nhân của thừa nào thì chứng quả thừa ấy, mỗi
thừa đều riêng biệt không tương quan với nhau. Ngay như kinh
Bát Nhã, Hoa Nghiêm đức Phật cũng thọ ký cho hàng đệ tử
thành Phật. Nhưng Bát Nhã, Hoa Nghiêm, Ngài chỉ thọ ký cho
Bồ-tát; như vậy là Bồ-tát riêng, Thanh Văn riêng, Nhị
thừa riêng, Tam thừa riêng. Đợi đến hội Pháp Hoa, Phật
mới thọ ký cho hàng Thanh Văn và đưa về Nhất thừa Phật
quả. Đức Phật dạy rằng, tất cả các pháp môn Ngài dạy
từ trước như Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa...đều là phương
tiện để đưa đến Nhất thừa (Phật quả). Phương tiện không
có nghĩa là cái đó không có giá trị, mà giá trị đó chỉ
trên bước đường dẫn dắt để đưa đến Nhất thừa
Phật quả, và chính đó mới là mục đích cứu cánh, là tinh
thần của kinh, hoài bảo của Phật vậy.
Đức
Phật Thích Ca đản sanh tại vườn Lâm-tỳ-ni, thành Đạo nơi
cội Bồ đề và trải qua 45 năm giáo hóa rồi thị tịch
tại rừng Sa-la song thọ. Đức Phật đó là đức Phật hóa
thân. Vì muốn đem giáo pháp huyền vi dạy cho chúng sanh cho nên
Phật mới thị hiện ra đời. Hóa thân thị hiện đó là phương
tiện, mà những gì Ngài đạy trước hội Pháp Hoa cũng là phương
tiện. Chỉ có Pháp thân và pháp Nhất thừa Phật dạy trong
hội Pháp Hoa mới là chân thật. Chính điều đó ngày hôm nay
trong hội Pháp Hoa đức Phật mới diễn nói rõ ràng.
Theo ngài
Thiên Thai Trí Giả, kinh Pháp Hoa chia ra làm hai phần:
1. Khai
quyền hiển thật
2. Khai
cận hiển viễn
Đó là
hai phần chính trong kinh Pháp Hoa.
Nói tóm
lại, vì hai ý nghĩa đó nên kinh Pháp Hoa là kinh tiêu biểu,
kinh đúc kết giáo lý của Phật trong 45 năm thuyết pháp độ
sanh.
Và cũng
theo ngài Thiên Thai Trí Giả, Ngài chia giáo lý của Phật ra làm
Năm thời:
1. Hoa
Nghiêm : Cũng gọi là thời "Nhật xuất tiên chiếu cao sơn"
2. A Hàm
: Cũng gọi là thời "Nhật thăng thứ chiếu hắc sơn"
3. Phương
Đẳng : Cũng gọi là thời "Nhật thăng chuyển chiếu cao
nguyên"
4. Bát
Nhã : Cũng gọi là thời "Nhật thăng phổ chiếu đại địa"
5. Pháp
Hoa Niết Bàn : Cũng gọi là thời "Nhật một hoàn chiếu
cao sơn".
Nói
"Nhật xuất tiên chiếu...", "Nhật một hoàn
chiếu..." đó là ví giáo pháp Phật như mặt trời. Giáo
pháp Phật khi nói ra lần đầu tiên ví như mặt trời mới
mọc. Giáo pháp Phật nói đầu tiên đó là kinh Hoa Nghiêm.
Phật nói kinh Hoa Nghiêm ví như đỉnh núi cao, chỉ có hàng thượng
căn thượng trí Bồ-tát, đại Bồ-tát mới thấu hiểu, còn
tất cả như câm như điếc, cho nên đức Phật phương tiện
nói Tam thừa như A Hàm. Thời này ví như ánh mặt trời
chuyển chiếu xuống núi thấp - Hắc Sơn - hàng hạ căn mới
lãnh hội được.
Đến
thời thứ ba là thời Phương Đẳng. Phương Đẳng có 2 nghĩa:
1. Chỉ
riêng cho thời giáo thứ ba này như các kinh : Lăng Nghiêm, Lăng
Già, Tư Ích, Duy Ma... trừ hai thời trước là thời Hoa Nghiêm,
A Hàm và hai thời sau là thời Bát Nhã, Pháp Hoa Niết Bàn.
2. Bao trùm
cả bốn thời giáo trừ thời A Hàm.
Thời A
Hàm phá ngã nhưng còn pháp chấp, qua thời Phương Đẳng trừ
hết cả ngã và pháp chấp. Đến thời Bát Nhã đi về tinh
thần cao nhất phá trừ luôn cả hữu sở đắc (vô ngã khả
đắc, vô pháp khả đắc) như "Nhật thăng phổ chiếu Đại
địa" (Mặt trời cao khắp chiếu mặt đất).
Tuy nhiên,
còn có điểm mà thời Bát Nhã chưa nói đến đó là chưa
thật sự thọ ký cho tất cả chúng sanh đều thành Phật,
mặc dù về lý cũng đã có nói "Tất cả chúng sanh đều
có Phật tánh, tất cả chúng sanh đều thành Phật". Đến
thời Pháp Hoa, đức Phật mới đưa tất cả về Nhất thừa
Phật quả. Bởi cho dù Thanh Văn, Duyên Giác... và tất cả các
việc thiện, dù là việc thiện nhỏ như nhóm cát làm tháp
Phật, không phân biệt hữu sở đắc, vô sở đắc... cũng đều
đưa đến Phật quả. Cho nên thời Pháp Hoa bao hàm hết tinh
thần chân lý, và hoài bảo của Phật ra đời thuyết pháp độ
sanh, nên gọi là "Nhật một hoàn chiếu cao sơn".
Khi
"Nhật xuất tiên chiếu cao sơn" cũng chiếu trên mọi
căn cơ. Khi "Nhật một hoàn chiếu..." cũng chiếu trên
mọi căn cơ. Như vậy nên biết, thời Hoa Nghiêm và thời Pháp
Hoa Niết Bàn đều cũng là một chân lý tối thượng y như
nhau, nhưng trong thời Hoa Nghiêm đức Phật nói thẳng chân lý
tối thượng mà chưa có phương tiện. Khi nói thẳng như vậy
chúng sanh không hiểu, đức Phật mới phương tiện nói Tam
thừa, sau đó Ngài nói lại chân lý tối thượng để đưa
tất cả phương tiện trở về giáo lý tuyệt đối. Như vậy
chân lý được nói trong Hoa Nghiêm và chân lý được nói
trong Pháp Hoa Niết Bàn là một, nhưng Hoa Nghiêm thì nói
thẳng, trực chỉ chơn tâm, còn Pháp Hoa thì phải trải qua các
thời phương tiện dắt dẫn, đến lúc thấy căn cơ và trình
độ của chúng sanh đã thuần thục, đức Phật mới nói Pháp
Hoa, đó là giáo lý cao tột, đưa chúng sanh về Nhất thừa
Phật quả.
Trên đây
là theo lối phán giáo của ngài Thiên Thai, ngài là tổ của
Thiên Thai tông và đã chú thích kinh Pháp Hoa và dùng kinh này
lập tông. Sự chú thích ấy cũng ảnh hưởng đến ngài
Nhật Liên. Ngài Nhật Liên cũng căn cứ vào phần chú thích
đó mà lập ra tông Nhật Liên ở Nhật Bản.
Và cũng
nên biết, trong lịch sử đã có ba tông phái đặt kinh này
cao nhất : 1) Thiên Thai tông, 2) Nhật Liên tông. Cả 2 tông này
đều lấy kinh Pháp Hoa làm căn bản và 3) Tam Luận tông, Tổ
sư là ngài Cát Tạng, cũng đặt kinh Pháp Hoa vào vị trí cao
nhất. Theo ngài Cát Tạng, ngài chia giáo pháp ra làm ba pháp luân:
1. Căn
bản Pháp luân, thời Hoa Nghiêm.
2. Chi
mạt Pháp Luân, thời A Hàm, Phương Đẳng, Bát Nhã.
3.
Nhiếp mạt quy bản Pháp luân, thời Pháp Hoa, Niết Bàn
Thời
Hoa Nghiêm, theo ngài Cát Tạng gọi là căn bản pháp luân.
Thời giáo này đức Phật nói ra mà chúng sanh không ngộ được
nên Ngài phương tiện nói ba thừa. Những thời này là phương
tiện của căn bản nên gọi là Chi mạt pháp luân. Mặc dù Bát
Nhã là kinh rất cao nhưng Bát Nhã cũng chưa quy tất cả chúng
sanh đều thành Phật, nên Bát Nhã cũng còn là Chi mạt pháp
luân. Đến thời Pháp Hoa, Niết Bàn gọi là "Nhiếp mạt
quy bản..." - trở về gốc - đưa phương tiện về cứu cánh,
đưa ngọn về gốc.
Chữ
"chuyển pháp luân" : Dharma Cakka Pavatana.
Chuyển
- Pavatana : Chuyển động, xây dựng, củng cố.
Pháp -
Dharma : Trí tuệ, chân lý.
Luân -
Cakka : Bánh xe, vương quốc.
Do
những định nghĩa trên mà có người dịch là : Củng cố vương
quốc trí tuệ, xây dựng vương quốc trí tuệ, vương quốc
chân lý chuyển bánh xe pháp.
Chữ
"Luân" là bánh xe, có nghĩa là lăn chuyển, lăn
chuyển từ tâm người này đến tâm người khác, giáo pháp
từ chỗ chứng ngộ của Phật, Ngài truyền đến người khác,
cũng như bánh xe lăn từ chỗ này đến chỗ khác vậy.
Lại
chữ "Luân" cũng có nghĩa là dần ép, lăn đến đâu
ép đến đó, những gì dơ bẩn, gồ ghề đều được dằn
ép. Giáo pháp Phật đến tâm chúng sanh thì tâm tham, sân, si,
phiền não, tà kiến, cũng bị dằn ép. Đó là ý nghĩa của
chữ Chuyển Pháp Luân.
Lại
chuyển luân vương có xa luân bảo là biểu hiện chính, để
đi đến với muôn dân, đem lại sự an bình thịnh vượng, còn
Như Lai Pháp Vương thì có Pháp luân để đi đến với chúng
sanh, đem lại an lạc giải thoát.
Tóm
lại ngài Cát Tạng - Tổ sư của Tam luận tông - chia giáo pháp
Phật ra làm 3 pháp luân, mặc dù Tam Luận tông chú trọng về
Bát Nhã, thiên về nghĩa chân không, nhưng ngài đã để kinh
Pháp Hoa trong địa vị Nhiếp mạt qui bản. Thế cho biết vị
trí Pháp Hoa trong kinh điển Đại thừa là một vị trí rất
cao, vị trí kết thúc biểu lộ bản hoài ra đời thuyết pháp
của Phật, cốt đưa tất cả chúng sanh về Nhất thừa Phật
quả.
--- o0o ---
Mục
lục Kinh Pháp Hoa | 1 |
2 | 3a |
3b | 4a | 4b
| 4c | 5a
| 5b | 5c
|
6a | 6b | 7a
| 7b | 8a
| 8b | 8c
| 8d |
---o0o---
|
Thư Mục Tác Giả
|