Lược giải Kinh Pháp
Hoa
---o0o---
PHÁP MÔN QUÁN ÂM (HAY NHĨ
CĂN VIÊN THÔNG)
---o0o---
(Theo kinh Thủ Lăng
Nghiêm, bổ sung phẩm Phổ môn trong kinh Pháp Hoa).
I.
KINH NGHĨA
Bấy
giờ Quán Thế Âm Bồ-tát từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh
lễ dưới chân Phật mà bạch Phật rằng :
"Bạch
đức Thế Tôn, con nhớ vô số kiếp về trước, có đức
Phật ra đời hiệu là Quán Thế Âm, con từ nơi đức Phật
ấy mà phát tâm Bồ-đề, Ngài dạy con từ nghe, suy nghĩ và
tu tập mà vào Tam-ma-địa. Con vâng lời Phật dạy, ban đầu
từ trong cái nghe để tâm quán nhập, vào dòng tánh nghe viên
thông, xả bỏ ngoại trần. Trần sở nhập (đối với căn là
năng nhập) đã vắng lặng thì hai tướng động tịnh rõ
thật không phát sanh. Như vậy lần lượt tăng tiến, nên tướng
năng văn sở văn đều hết; năng văn sở văn hết mà không
trú lại nơi đó nên năng giác sở giác cũng không ; không giác
cùng tột viên mãn nên năng không sở không toàn diệt. Tướng
sanh diệt đã diệt thì bản tánh tịch diệt hiện bày, bỗng
nhiên vượt khỏi thế gian và xuất thế gian, sáng suốt cùng
khắp mười phương, được hai thứ thù thắng : Một là trên
hợp với bổn diệu giác tâm của mười phương chư Phật, cùng
chư Phật đồng một Từ lực, cứu độ chúng sanh ; hai là dưới
hợp với tất cả chúng sanh trong lục đạo mười phương, cùng
chúng sanh đồng một lòng bi ngưỡng (bi ngưỡng vô thượng
Bồ-đề).
Bạch đức
Thế Tôn ! do con cúng dường đức Quán Thế Âm Như Lai, nhờ
Ngài trao dạy cho con pháp tu như huyễn văn huân văn tu Kim-cang-tam-muội,
mà được cùng chư Phật đồng một từ lực, nên làm cho thân
con được thành tựu 32 tướng ứng thân, hiện vào các quốc
độ. Bạch Thế Tôn :
1. Nếu
có các Bồ-tát vào Tam-ma-địa, tinh tấn tu hành đạo nghiệp
vô lậu, mà tánh thắng giải được hiện tiền viên mãn, thì
con hiện ra thân Phật đà vì họ nói pháp, khiến đặng
giải thoát.
2. Nếu
có các hàng Hữu học tu phép tịch tịnh diệu minh mà tâm
thắng giải được hiện tiền viên mãn, thì con ở trước người
đó hiện thân Độc giác vì họ nói pháp, khiến được
giải thoát.
3. Nếu
có các hàng Hữu học đoạn trừ Mười hai nhân duyên, do Mười
hai nhân duyên đoạn trừ mà thắng tánh thắng diệu hiện bày
viên mãn, thì con ở trước người đó hiện thân Duyên giác
vì họ nói pháp, khiến đặng giải thoát.
4. Nếu
có các hàng Hữu học chứng được tánh Không của Tứ đế,
tu Đạo đế và vào Diệt đế mà thắng tánh hiện bày viên
mãn, thì con ở trước người kia hiện thân Thanh văn vì họ
nói pháp, khiến đặng giải thoát.
5. Nếu
có các chúng sanh muốn tâm đặng tỏ ngộ, không phạm vào
cảnh trần ngũ dục và muốn thân thanh tịnh, thì ở trước
người kia con hiện thân Phạm vương vì họ nói pháp, khiến
đặng giải thoát.
6. Nếu
có các chúng sanh muốn làm vị Thiên chủ thống lãnh chư thiên,
thì ở trước người kia con hiện thân Đế Thích vì họ nói
pháp, khiến đặng thành tựu.
7. Nếu
có các chúng sanh muốn thân được tự tại dạo đi khắp mười
phương, thì ở trước người kia con hiện thân trời Tự
tại vì họ nói pháp, khiến đặng thành tựu.
8. Nếu
có các chúng sanh muốn thân được tự tại bay đi giữa hư
không, thì ở trước người kia con hiện thân trời Đại Tự
tại vì họ nói pháp, khiến đặng thành tựu.
9. Nếu
có các chúng sanh muốn thống lãnh các quỸ thần, cứu hộ cõi
nước, thì ở trước người kia con hiện thân Thiên đại tướng
quân vì họ nói pháp, khiến đặng thành tựu.
10. Nếu
có các chúng sanh ưa thống lãnh thế giới, bảo hộ chúng
sanh, thì ở trước người kia con hiện thân Tứ Thiên vương
vì họ nói pháp, khiến đặng thành tựu.
11. Nếu
có các chúng sanh ưa sinh về thiên cung để sai sử quỷ thần,
thì ở trước người kia con hiện thân thái tử con của Tứ
Thiên vương vì họ nói pháp, khiến đặng thành tựu.
12. Nếu
có các chúng sanh muốn làm Vua cõi người, thì con ở trước
người kia hiện thân Vua mà vì họ nói pháp, khiến đặng thành
tựu.
13. Nếu
có các chúng sanh muốn làm chủ giòng họ danh tiếng, thế
gian kính nhường, thì ở trước người kia con hiện thân trưởng
giả mà vi họ nói pháp, khiến đặng thành tựu.
14. Nếu
có các chúng sanh muốn đàm luận những lời hay, giữ mình
trong sạch, thì ở trước người kia, con hiện thân cư sĩ mà
vì họ nói pháp, khiến đặng thành tựu.
15. Nếu
có các chúng sanh muốn cai trị cõi nước, chia đoán các bang
ấp, thì ở trước người kia, con hiện Thân Tể quan mà vì
họ nói pháp, khiến đặng thành tựu.
16. Nếu
có các chúng sanh thích toán số, chú thuật, sống tự nhiếp
hộ thân tâm, thì ở trước người kia con hiện thân Bà-la-môn
mà vì họ nói pháp, khiến đặng thành tựu.
17. Nếu
có người con trai muốn học pháp xuất gia, giữ gìn giới
luật, thì ở trước người kia, con hiện thân Tỳ-kheo mà vì
họ nói pháp, khiến đặng thành tựu.
18. Nếu
có người con gái muốn học pháp xuất gia, giữ gìn cấm
giới, thì ở trước người kia, con hiện thân Tỳ-kheo-ni mà
vì họ nói pháp, khiến đặng thành tựu.
19. Nếu
có người con trai muốn thọ trì ngũ giới, thì ở trước người
kia con hiện thân Ưu-bà-tắc mà vì họ nói pháp, khiến đặng
thành tựu.
20. Nếu
có người con gái muốn thọ trì ngũ giới, thì ở trước người
kia, con hiện thân Ưu-bà-di mà vì họ nói pháp, khiến đặng
thành tựu.
21. Nếu
có người con gái lập thân trong nội chánh để tu tề gia
quốc, thì ở trước người kia, con hiện thân nữ chúa,
quốc phu nhân, mệnh phu, đại cô, mà vì họ nói pháp, khiến
đặng thành tựu.
22. Nếu
có chúng sanh không bị hoại năm căn, thì ở trước người
kia, con hiện thân đồng nam mà vì họ nói pháp, khiến đặng
thành tựu.
23. Nếu
có người xử nữ ( người nữ sống độc thân) không cầu
sự xâm bạo, thì ở trước người kia, con hiện thân đồng
nữ mà vì họ nói pháp, khiến đặng thành tựu.
24. Nếu
có chư Thiên, muốn thoát khỏi loài Trời, thì con hiện thân
Trời mà vì họ nói pháp, khiến đặng thành tựu.
25. Nếu
có các loài Rồng muốn ra khỏi loài Rồng, thì con hiện ra thân
Rồng mà vì họ nói pháp, khiến đặng thành tựu.
26. Nếu
có loài Dược-xoa, muốn thoát khỏi loài mình, thì ở trước
họ, con hiện thân Dược-xoa mà vì họ nói pháp, khiến đặng
thành tựu.
27. Nếu
có loài Càn-thát-bà, muốn thoát khỏi loài mình, thì ở trước
họ, con hiện thân Càn-thát-bà mà vì họ nói pháp, khiến đặng
thành tựu.
28. Nếu
có loài A-tu-la muốn thoát khỏi loài mình, thì ở trước họ,
con hiện thân A-tu-la mà vì họ nói pháp, khiến đặng thành
tựu.
29. Nếu
có loài Khẩn-na-la muốn thoát khỏi loài mình, thì ở trước
họ, con hiện thân Khẩn-na-la mà vì họ nói pháp, khiến đặng
thành tựu.
30. Nếu
có loài Ma-hê-la-già muốn thoát khỏi loài mình, thì ở trước
họ, con hiện thân Ma-hê-la-già mà vì họ nói pháp, khiến đặng
thành tựu.
31. Nếu
có các chúng sanh thích làm Người mà tu nghiệp nhơn làm Người,
thì ở trước họ, con hiện thân Người mà vì họ nói pháp,
khiến đặng thành tựu.
32. Nếu
có các hàng phi nhân hoặc loại có hình, loại không binh hình,
loại có tưởng, loại không tưởng... mà muốn thoát khỏi
loải mình, thì ở trước họ, con hiện các loài đó mà vì
họ nói pháp, khiến đặng thành tựu.
Ấy là
Ba mươi hai ứng thân thanh tịnh nhiệm mầu, hiện vào các
quốc độ, đều do sức diệu lực vô tác của pháp Tam-muội
văn huân văn tu mà được thành tựu tự tại.
Bạch đức
Thế Tôn ! con lại do sức diệu lực vô tác của pháp văn huân
văn tu Kim-cang-tam-muội ấy, mà được cùng với tất cả chúng
sanh trong mười phương ba đời, sáu đạo đồng một bi ngưỡng,
nên khiến các chúng sanh ở nơi thân tâm con được 14 món công
đức vô úy.
14
MÓN CÔNG ĐỨC VÔ ÚY
Một là,
do con không quán theo âm thanh mà chỉ quán cái tâm năng quán,
nên khiến cho chúng sanh khổ não trong mười phương kia liền
đặng giải thoát, khi con quán đến âm thanh của họ.
Hai là,
do xoay tri kiến hư vọng về nơi chân tánh, mà khiến cho các
chúng sanh dù vào lửa lớn không bị đốt cháy.
Ba là,
do quán cái nghe xoay về nơi chơn tánh, nên khiến cho các chúng
sanh dù nước lớn trôi mà không chết đuối.
Bốn là,
do diệt hết vọng tưởng, tâm không sát hại, nên khiến cho
các chúng sanh vào các nước quỉ, không bị quỉ hại.
Năm là,
do huân tu văn căn, thành tựu văn tánh, cả sáu căn đều tiêu
dung về bản tánh, đồng như cái nghe, cái tiếng, nên có
thể khiến cho các chúng sanh sắp bị hại, dao kiếm gãy
từng đoạn, khiến các binh khí chạm vào thân như cắt dòng
nước, như thổi ánh sáng, bản tánh không hề lay động.
Sáu là,
do huân tập tánh nghe đặng tinh minh sáng suốt soi cả pháp
giới, thì các chỗ tối tăm không thể giữ toàn tính được,
nên có thể khiến cho chúng sanh dầu ở gần bên quỉ Dạ-xoa,
La-sát, Cưu-bàn-trà, Tỳ-xá-già, Phú-đôn-na v.v... mà chúng không
thể trông thấy.
Bảy là,
do tánh âm thanh đã viên thoát, sự thấy nghe đã xoay trở
lại vào tự tánh, rời các cảnh trần hư vọng nên có thể
khiến cho chúng sanh những thứ cùm, dây, gông, xiềng không
thể dính vào mình được, không bị gông xiềng trói buộc.
Tám là,
do diệt âm trần, viên văn căn phát sanh năng lực từ tế cùng
khắp, nên có thể khiến cho chúng sanh đi qua đường hiểm,
giặc không thể cướp được.
Chín là,
du huân tu tánh nghe, xa lìa trần cảnh, không bị sắc trần lôi
kéo nên có thể khiến cho những chúng sanh đã xa rời tâm
tham dục.
Mười là,
do thuần một thật tướng của âm thanh, không còn tiền
trần, căn và cảnh đều viên dung, không có năng sở đối đãi,
nên có thể khiến cho tất cả chúng sanh nóng giận, rời bỏ
tâm giận hờn.
Mười
một là, do tiêu dung trần tướng xoay về tánh bản minh, thì
pháp giới cùng thân tâm sáng suốt vô ngại như ngọc lưu ly,
nên có thể khiến cho những kẻ bất tín (A-diên-ca) ngu
ngốc, u mê, xa lìa ngu ám.
Mười
hai là, do viên dung các căn hình, trở về tánh nghe, vẫn an trú
nơi đạo tràng bất động mà khắp vào các thế gian, tuy không
hủy hoại thế giới, mà thường hiện làm Pháp vương tử bên
mỗi đức Phật, để cúng dường 10 phương Như Lai nhiều như
số vi trần. Vậy nên có thể khiến cho cả pháp giới những
chúng sanh không con, muốn cầu con trai thì đặng sanh con trai
phước đức trí huệ.
Mười
ba là, do sáu căn viên mãn thông suốt, sáng tối không hai, trùm
hiện mười phương thế giới trong đại viên cảnh Không Như
lai tạng, vâng lãnh pháp môn thâm diệu bí mật của mười phương
Như Lai, số như vi trần không hề thiếu sót, nên có thể
khiến trong pháp giới những chúng sanh muốn cầu con gái, được
sanh con gái, tướng tốt đoan chánh ; phước đức dịu dàng,
mọi người đều yêu kính.
Mười
bốn là, các vị Pháp vương tử (Bồ-tát) ước số 62 hằng
sa, hiện ở thế giới, trong Tam thiên Đại thiên thế giới
gồm có trăm ức mặt trời, mặt trăng nay đều là những
vị tu hành Chánh pháp, chỉ bày mô phạm giáo hóa chúng sanh,
tuỳ thuận chúng sanh mỗi vị có những phương tiện trí
huệ không đồng. Do con tu tập nhĩ môn viên thông, phát minh
diệu tánh, thân tâm vi diệu bao trùm khắp pháp giới, nên có
thể khiến cho chúng sanh trì niệm danh hiệu của con cùng chúng
sanh trì niệm danh hiệu của 62 hằng hà sa số vị Pháp vương
tử đó, phước đức của hai bên bằng nhau không khác.
Bạch
Thế Tôn, một danh hiệu của con mà cùng với nhiều danh
hiệu kia không khác, ấy là bởi con tu tập chứng đặng Chơn
viên thông vậy.
Ấy
gọi là 14 sức thí vô úy, đem phước lực thí cho khắp cả
chúng sanh.
Bạch
Thế Tôn, lại do con tu nhĩ căn viên thông, chứng đạo vô thượng,
nên thành đặng bốn món diệu đức không thể nghĩ nghì,
chẳng dụng ý mà tự nhiên thành tựu.
BỐN
MÓN DIỆU ĐỨC
Một là,
do con đầu tiên chứng được văn tánh vi diệu, tánh ấy
rất tinh minh, thoát ngoài năng văn sở văn, không bị sự
thấy, nghe, hiểu biết phân cách mà dùng thành một tánh bản
giác thanh tịnh viên mãn, nên con có thể hiện ra rất nhiều
hình dung tốt đẹp, nói ra không lường thần chú bí mật :
Hoặc hiện một đầu, ba đầu cho đến 84.000 tay kiết ấn ;
hoặc hiện hai mắt, ba mắt cho đến 84.000 con mắt trong sáng.
Những hình dung ấy hoặc từ có, oai có, định có, huệ có
để cứu độ chúng sanh không chút gì ngăn ngại.
Hai là,
do con tu tập văn, tư, tu, tam muội, thoát khỏi sáu trần không
còn trở ngại, ví như tiếng thâu qua vách, cho nên con hay
hiện mỗi mỗi hình dung, tụng mỗi mỗi bài chú, mà hình
dung và bài chú ấy đều đem bố thí sức vô úy cho chúng
sanh, nhân đó mười phương quốc độ đều gọi con là Bố
thí Vô úy.
Ba là,
do con tu tập nhĩ căn được thanh tịnh viên thông, nên hễ
qua thế giới nào thì đều khiến chúng sanh ở đó xả thân
mạng, tài bảo đó để cầu con thương xót.
Bốn là,
do con chứng được Phật tâm rốt ráo, nên có thể đem các món
trân bảo cúng dường mười phương Như Lai và chúng sanh trong
pháp giới lục đạo, cầu vợ được vợ, cầu con được
con, cầu tam muội được tam muội, cầu sống lâu được
sống lâu, cho đến cầu Đại Niết-bàn được Đại Niết-bàn.
Nay
Phật hỏi viên thông thì con do tu tập Nhĩ môn, được tam
muội viên chiếu, tâm duyên các pháp một cách tự tại, nhân
nhập tánh lưu, chứng Tam-ma-địa thành tựu Bồ-đề ấy là
thứ nhất.
Bạch
Thế Tôn, đức Phật kia tán thán con khéo đặng pháp môn viên
thông, nên trong đại hội của Ngài con đặng thọ ký tên là
Quán Thế Âm. Do con quán nghe cả mười phương đều viên
minh, cho nên có danh hiệu Quán Âm khắp các thế giới.
II.
ĐẠI Ý NHĨ CĂN VIÊN THÔNG
Viên thông
nghĩa là viên mãn dung thông. Bản tánh của muôn sự muôn
vật vốn là viên mãn dung thông, chơn như bình đẳng. Bất
cứ từ một vật nào mà chứng được bản tánh đó cũng đều
gọi là chứng viên thông.
Bồ-tát
Quán Thế Âm, một danh hiệu ấy đã phổ biến khắp cả mười
phương, muôn loài, chẳng mấy ai mà chẳng nghe chẳng biết ;
như thế cũng đủ tỏ tâm đại từ bi, đức cứu độ của
Bồ-tát lớn lao biết chừng nào !
Nhưng
sao lại gọi bằng danh hiệu Quán Thế Âm ? Ở nơi chúng sanh
thì biết đặng tiếng tăm là do nghe, biết đặng màu sắc là
do thấy v.v... đã thành một định lệ không thể chuyển đổi
qua cách khác lạ nghe sắc hay thấy tiếng được. Trái lại,
Bồ-tát tu hành cũng đồng trong sự nghe tiếng đó mà không
chiều theo thanh trần giả dối, vọng tưởng đảo điên, không
để tâm bị hôn mê theo căn và cảnh, mà chỉ chú tâm suy
tầm tánh nghe chơn thật, không sanh diệt, viên chiếu mười
phương, lúc ngủ chũng như lúc thức, khi động cũng như khi tĩnh,
chẳng có lúc nào gián đoạn tính nghe, cho nên không một
tiếng gì mà không tỏ rõ. Tiếng của muôn loài từ ngàn phương
đưa đến đều hiện bày trong tâm trí viên minh của Bồ-tát
và hợp với trí ấy còn có nguyện lực đại bi, cho nên
trong mười phương hễ có chúng sanh nào nhứt tâm niệm danh
hiệu Bồ-tát thời Bồ-tát liền quán biết, quán biết thì
liền giải thoát, lẽ cảm ứng tự nhiên không thể nghĩ nghì.
Nếu xét
kỸ chỗ nhân địa tu hành của các vị Bồ-tát, thì đều
phải phát tâm Bồ-đề, tu theo Phật giáo trải qua sự nghe
học Phật pháp, rồi sự suy nghĩ, tu tập, vậy sau mới đầu
đủ căn bản trí, hậu đắc trí mà chứng thành quả vị
diệu giác, Ngài Quán Thế Âm Bồ-tát cũng thế. Nhưng có khác
chăng là chỉ khác nơi pháp môn phương tiện mà thôi. Hai mươi
bốn vị Thánh trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, mỗi vị do mỗi pháp
môn mà tu chứng viên thông. Ở đây Ngài Quán Thế Âm do tu nhĩ
căn mà chứng ngộ. Trong sự tu hành này, trước hết ly
trần, rồi thoát căn, rồi tận giác, rồi diệt không mà sau
chơn tánh tịch diệt của Như Lai tạng mới đặng hoàn toàn
hiện rõ.
Tóm
lại, từ mới khởi công phu tu tập đến đây, trước do thô
sau mới đến tế, nhưng cũng đều ở trong tướng sanh diệt
cả. Như tướng động tịnh của cảnh trần diệt thì căn năng
văn sanh, văn căn diệt thì giác huệ sanh, giác huệ diệt thì
không tướng sanh, mà Như Lai tạng tánh hay Niết-bàn diệu tâm
thì không phải là tướng sanh diệt ấy, cho nên khi năng không,
sở không, ngã không, pháp không rồi mà tướng hai không ấy
cũng không nữa mới hiển hiện tánh chơn tịch diệt của Như
Lai tạng một cách đầy đủ.
Thật
ra, tánh chơn tịch diệt là đồng thể của chúng sanh và
Phật, chư Phật thì thường an trú trong tánh ấy, Bồ-tát thì
chứng nhập tánh ấy mà chúng sanh thì mê lầm tánh ấy. Nhưng
vì là đồng thể cho nên đến khi Bồ-tát chứng được thì
liền phát sanh diệu dụng thù thắng và nói rộng ra là được
32 ứng thân, 14 món vô úy, 4 món diệu dụng bất tư nghì, mà
nói tóm lại thì có 2 món thù thắng : Một là được Từ
lực đồng với chư Phật, và hai là Tâm Bi ngưỡng đồng
với chúng sanh. Vì chứng bốn giác tâm cùng Phật đồng thể
nên hay đồng một từ lực, vì chứng bốn giác tâm cùng chúng
sanh đồng thể nên hay đồng một bi ngưỡng. Cho hay từ lực
do tâm bổn giác huân tập, thành Phật do đó, độ sanh do đó,
mà Bồ-tát thành tựu 32 ứng thân khắp các căn cơ để giáo
hóa cũng do đó vậy.
32
ỨNG THÂN
1. Hiện
thân Phật đà để nói pháp viên đốn Phật thừa, giáo hóa
hạng người tu Bồ-tát mà chơn trí vô lậu chưa hoàn toàn pháp
hiện, tuy đã nhập Tam-ma-địa rồi nhưng chưa phải hết tu.
2. Hiện
thân Độc giác nói pháp tịch tĩnh cho hạng ngườ tu hạnh Độc
giác tự ngộ theo lý nhân duyên.
3. Hiện
thân Duyên giác nói pháp Thập nhị nhân duyên lưu chuyển và
hoàn diệt, để giáo hóa hàng hữu học có tâm mong đoạn
trừ 12 nhân duyên để thoát khỏi sự sanh tử luân hồi trong
ba cõi.
4. Hiện
thân Thanh văn nói pháp sanh diệt Tứ đế, Vô sanh Tứ đế, Vô
lượng Tứ đế, Vô tác Tứ đế, để giáo hóa hàng hữu
học có tâm mong cầu chứng tánh Chơn không của Tứ đế
nhập tịch diệt Niết-bàn.
5. Hiện
thâm Phạm vương nói pháp ly dục cho những chúng sanh trông
mong được thân tâm trong sạch không phạm đến ngũ dục.
6. Hiện
thân trời Đế-thích nói pháp Thập thiện cho những người
muốn làm chủ, thống lãnh Chư thiên.
7. Hiện
thân trời Tự-tại hay Tha-hóa-tự-tại thiên ở chót cõi
Dục để nói pháp cho những chúng sanh muốn có thần thông
tự tại đi khắp mười phương.
8. Hiện
thân trời Đại-tự-tại hay Ma-hê-thủ-la-thiên ở chót cõi
Sắc để nói pháp giáo hóa cho những chúng sanh muốn có
thần thông bay đi giữa hư không, chẵng bị chướng ngại.
9. Hiện
thân Đại tướng quân hay Vi-đà-thiên-tướng, (thần tướng
của Đế-thích), để nói pháp giáo hóa cho những chúng sanh có
tâm muốn thống lãnh quỉ thần, cứu hộ các quốc độ.
10.
Hiện thân Tứ-thiên-vương để nói pháp giáo hóa cho những
chúng sanh có tâm thống trị bảo hộ chúng sanh.
11.
Hiện thân Thái tử của Tứ-thiên-vương để nói pháp giáo hóa
cho những chúng sanh ưa sanh ở Thiên cung, sai sử tất cả
quỉ thần.
Bảy
ứng thân trên (từ 5 - 11) đều hiện về cõi trời. Các cõi
trời trong Dục giới phần nhiều đều lấy pháp Thập thiện
làm căn bản, rồi tùy theo chỗ Thập thiện hơn kém mà cảm
báo thân khác nhau, nên Bồ-tát cũng tùy đó nói pháp Thập
thiện sâu cạn để giáo hóa.
12.
Hiện thân Quốc vương để đem ngũ giới, Thập thiệp giáo hóa
cho các chúng sanh muốn tạo nhân lành để được phúc báo an
lạc.
13.
Hiện thân Trưởng giả đủ tài, đủ trí, đủ đức, giào
sanh vị cả, trên chuộng dưới yêu, để giáo hóa cho các chúng
sanh muốn làm chủ tể trong các dòng họ sanh quý, mọi người
kính vì.
14.
Hiện thân cư sĩ, chánh tín Tam Bảo, thanh tịnh tu hành, để
giáo hóa chúng sanh muốn sống một đời sống trong sạch không
tham trước.
15.
Hiện thân Tể quan đại thần tài đức liêm chính để giáo
hóa chúng sanh muốn quả quản trị pháp đóan việc xóm làng,
cõi nước theo Chánh pháp.
16.
Hiện thân Bà-la-môn thông minh phạm hạnh để giáo hóa chúng
sanh ưa thuật số, đạo học, bỏ tánh kiêu mạn.
17.
Hiện thân vị Tỳ-kheo giữ trọn oai nghi, giới luật để giáo
hóa các hàng nam tử có tâm xuất gia giữ giới.
18.
Hiện thân Tỳ-kheo-ni giới luật thanh tịnh, để giáo hóa các
hàng nữ nhơn có chí muốn xuất gia giữ giới.
19.
Hiện thân Ưu-ba-tắt, để giáo hóa các hàng nam tử pháp tâm
quy y thọ năm giới.
20.
Hiện thân Ưu-bà-di, để giáo hóa các hàng con gái phát tâm
quy y thọ năm giới.
21.
Hiện thân hậu nhi, mạng phụ v.v... đoan trang nết đức, để
giáo hóa các người con gái rèn luyện việc nội chánh, giúp
nhà lợi nước.
22.
Hiện thân kẻ đồng nam (người đàn ông không phạm vào sự
dâm dục), để giáo hóa các chúng sanh từ nhỏ đến lớn không
phạm dâm sự, xu hướng pháp xuất thế.
23.
Hiện thân người đồng nữ (người đàn bà không phạm vào
sự dâm dục), để giáo hóa các người con gái có chí tu hành,
không ưng sự giá thú dâm bạo.
Mười
hai ứng thân trên đây (12 - 23) đều hiện trong cõi người.
Hoặc làm người thế gian, hoặc làm tại gia Phật tử, hoặc
xuất gia Phật tử để tùy cơ giáo hóa khiến các chúng sanh
ấy hiện tại trọn nên các sự lợi lạc, tương lai thành
tựu đạo Bồ-đề.
24.
Hiện thân Trời, để nói pháp xuất ly dạy các hàng Chư thiên
có tâm mong thoát khỏi loài trời. Bởi vì phúc báo Chư thiên
còn ở trong vòng sanh tử hữu lậu, tâm nhơn ngã chưa dứt, mê
chấp còn nhiều, tham dục đương nặng, chưa khỏi sự thống
khổ đối đầu, nên rất đáng nhàm chán.
25.
Hiện thân loài Rồng, để khuyến hóa các loài Rồng muốn
thoát khỏi quả báo thân Rồng nhiều thống khổ.
26.
Hiện thân quỷ Dược-xoa, để khuyến hóa các loài Dược-xoa
thoát khỏi quả báo Dược-xoa nhiều thống khổ.
27.
Hiện thân quỷ Càn-thát-bà, để khuyến hóa các hàng Càn-thát-bà
muống thoát khỏi quả báo Càn-thát-bà thống khổ.
28.
Hiện thân thần A-tu-la, để khuyến hóa những A-tu-la muốn
thoát khỏi quả báo A-tu-la thống khổ.
29.
Hiện thân thần Cẩn-na-la, để khuyến hóa những Cẩn-na-la
muốn thoát khỏi quả báo Cẩn-na-la thống khổ.
30.
Hiện thân thần Ma-hê-la-già, để khuyến hóa những Ma-hê-la-già
muốn thoát khỏi quả báo Ma-hê-la-già thống khổ.
31.
Hiện thân người, để giáo hóa phép tu nhân đạo cho những
kẻ muốn giữ mãi thân người, không bị chuyển sanh qua thân
cõi khác, vì ở nhân đạo vui khổ đồng đều, trong tương
lai lại dễ gặp Phật pháp nên dễ tu hành.
32.
Hiện thân phi nhân hoặc loài hữu tướng, vô tướng, hữu hình,
vô hình, để giáo hóa chúng ấy thoát khỏi quả báo ở các
loài ấy.
Chín
loại ứng thân Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la,
Khẩn-na-la, Ma-hê-la-già, Người và phi nhân... là Bồ-tát tùy
theo các loài trời hay không phải trời, người hay tương tự
người mà hiện đủ thân trong các loài ấy, giáo hóa họ đặng
thoát các báo thân thống khổ. Chúng sanh đương ở trong mê
mờ, tùy nghiệp chuyển các nào thì chịu cách nấy, nếu không
nhờ Bồ-tát hiện thân giáo hóa, chuyển đổi nghiệp nhân,
thì khó bề thoát khổ mà hưởng sự an vui theo ý muốn.
Vì thế
mà Bồ-tát ứng hiện 32 thân khắp các quốc độ, để giáo
hóa không chút ngừng ngại, như ngọc Ma-ni hiện đủ các màu
sắc mà vốn vô tâm không lay động.
Lại chư
Phật và chúng sanh giác tâm vốn đồng, mà chúng sanh thì bị
hành tướng cách ngại, cảnh giới xao ly, chấp huyễn thân làm
thật thân, chấp vọng cảnh làm chơn cảnh, nên mới có mọi
điều lo sợ. Trái lại, Bồ-tát đã hiệp tánh bản diệu giác
tâm, thấy muốn loài đồng một thể tánh tâm nguyên, đồng
một thân tâm, không có loài nào khác ngoài, không có cảnh
chi khác, tự mình thanh tịnh không còn vọng tưởng, diệt
hết tập khí sát, đạo, dâm, vọng. nên có thể khiến các
chúng sanh dầu lâm cảnh hoạn nạn mà nhớ đến danh hiệu
Bồ-tát Quán Thế Âm, tức khắc tâm ấy liền đồng với tâm
trở thành từ bi tâm, xoay cảnh tai nạn thành ra cảnh an
lạc, ấy là Bồ-tát đem công đức vô úy thí cho mười phương
chúng sanh, đó là 14 món vô úy.
14
MOَN VÔ ÚY
Khiến
chúng sanh khổ não, xưng danh Bồ-tát Quán Âm liền đặng
giải thoát.
Khiến
chúng sanh rủi vào lửa không bị lửa đốt.
Khiến
chúng sanh rủi vào nước không bị chìm.
Khiến
chúng sanh rủi vào chỗ quỷ không bị quỷ hại.
Khiến
chúng sanh rủi gặp binh qua, đao trượng không bị đâm nát.
Khiến
chúng sanh dẫu ở bên ác quỷ mà ác quỷ không trông thấy.
Khiến
chúng sanh lỡ phạm cấm chết không bị gông xiềng kiềm hãm.
Khiến
chúng sanh đi qua đường hiểm không bị giặc cướp.
Khiến
chúng sanh đa dục được ly dục.
Khiến
chúng sanh đa sân được ly sân.
Khiến
chúng sanh đa si được ly si.
Khiến
chúng sanh cầu con trai sanh con trai phước đức trí tuệ.
Khiến
chúng sanh cầu con gái được sanh con gái nhu thuận.
Khiến
chúng sanh chỉ niệm danh hiệu Bồ-tát mà phước ngang với người
niệm vô số vô lượng danh hiệu Bồ-tát khác.
Tóm
lại, 32 ứng thân là Bồ-tát cùng chư Phật đồng một từ
lực ; 14 món vô úy là Bồ-tát cùng với chúng sanh đồng
một tâm bi ngưỡng và tất cả đều do sức vô duyên từ
của Bồ-tát mà thành tựu. Tuy vậy, nơi Bồ-tát thì do vô
duyên từ mà tự nhiên ứng, nhưng nơi chúng sanh phải do tự
lực thiên căn mới thành, thế nên với chúng sanh đã phát
thiện căn thì liền có Bồ-tát hiện thân thuyết pháp. Với
chúng sanh khổ nạn một lòng bi ngưỡng xưng danh thì liền
cảm đến Bồ-tát thí đức vô úy. Một khi tự lực, tha
lực đã viên mãn như vậy thì sự cảm ứng tất được rõ
ràng.
Ngoài các
diệu dụng nêu trên, ngài Quán Thế Âm còn chứng được
bốn món diệu đức không thể nghĩ nghì, nghĩa là sau khi
chứng được quả Vô thượng Bồ-đề, bi và trí đầy đủ
thì tự nhiên không cần tâm niệm phân biệt nghĩ nghì mà
vẫn thành tựu được phương tiện khéo léo độ sanh.
Do ngài
Quán Thế Âm đã chứng đặng văn tánh viên diệu, lìa tánh
thấy nghe hư vọng, trong tánh giác đồng thể thì một thân
tức nhiều thân, nhiều thân tức một thân, nên tùy nghi
hiện ra thân hình từ một đầu đến nhiều đầu, từ hai
tay đến nhiều tay, từ hai mắt đến nhiều mắt, khi hiện dáng
từ bi, khi hiện dáng oai hùng, khi hiện dáng thiền định, khi
hiện dáng trí tuệ và nói ra vô lượng thần chú để cứu
độ chúng sanh. Đó là điều bất tư nghì thứ nhất.
Hiện
mỗi hình đọc mỗi mỗi bài chú, mà hình và chú ấy đều
đem lại cho chúng sanh sức vô úy. Đó là điều bất tư nghì
thứ hai.
Hay cảm
đến chúng sanh, khiến họ xả bỏ thân mạng, tài sản cúng
dường mà không sanh lòng tiếc nuối. Đó là điều bất tư
nghì thứ ba.
Từ
lực vô biên, thí tâm rộng lớn, Ngài Quán Thế Âm chẳng
những cúng dường chư Phật mà còn bố thí khắp tất cả chúng
sanh, cầu con thì đặng con, cầu vợ đặng vợ, cho đến
cầu Đại Niết-bàn đặng Đại Niết-bàn. Đó là điều
bất tư nghì thứ tư.
Như
thế nên gọi Ngài là Quán Thế Âm, vì hay tầm thanh cứu
khổ ; cũng gọi Ngài là Vị Thí Vô Úy, vì hay cứu vớt sự
sợ hãi cho chúng sanh.
--- o0o ---
Mục
lục Kinh Pháp Hoa | 1 |
2 | 3a |
3b | 4a | 4b
| 4c | 5a
| 5b | 5c
|
6a | 6b | 7a
| 7b | 8a
| 8b | 8c
| 8d |
---o0o---
|
Thư Mục Tác Giả
|