Lược giải Kinh Pháp
Hoa
---o0o---
ĐI“U
KIỆN ĐỂ ĐẾN VỚI KINH PHÁP HOA
---o0o---
Người
Phật tử khi đã phát tâm nghiên cứu và trì tụng kinh Pháp
Hoa, luôn luôn tinh tấn, giữ ý niệm như vậy, nhờ đó mà
trong cuộc sống hằng ngày họ có thể tránh được nhiều ý
nghĩ, lời nói, việc làm không hay, thay vào đó những ý nghĩ
tốt đẹp, lời nói và việc làm hợp với Chánh pháp thường
ứng hiện với họ.
Công đức
nghiên cứu và trì tụng như vậy thật là to lớn và nó un đúc
cho người Phật tử tăng trưởng đạo tâm, Bồ-đề tâm và
nhất là tăng trưởng trí tuệ Vô thượng chánh đẳng chánh
giác.
Trong
kinh Pháp Hoa, phẩm đầu tiên là phẩm Tựa, và phẩm cuối cùng
là phẩm Chúc lụy. Sau phẩm Chúc lụy có phẩm Phổ Hiền
khuyến phát. Tuần tự theo từng phẩm, mỗi phẩm có một ý
nghĩa riêng để nói lên tác dụng và công năng của mỗi
phẩm Kinh. Trong giáo pháp Đại thừa của đức Phật Thích
Ca, luôn luôn có hai vị đại Bồ-tát thượng thủ đứng hai
bên để hổ trợ cho việc giáo hóa của Ngài, đó là Bồ-tát
Văn-thù và Bồ-tát Phổ Hiền.
Lời
mở đầu trong phẩm Tựa, Bồ-tát Văn-Thù là một vị tiêu
biểu cho cái trí tuệ đầu tiên. Trong phẩm này có một điểm
đặc biệt đáng chú ý là : Đức Phật phóng hào quang đến
phương Đông chiếu khắp mười ngàn thế giới, chúng sanh
nhờ hào quang đó mà được thấy lẫn nhau, được thấy người
nào phát tâm, chưa phát tâm, hành Bồ-tát hạnh, xây tháp cúng
dường, trì kinh, bố thí, giữ giới và thấy đức Phật
thuyết pháp, giáo hóa, Thành đạo và nhập Niết-bàn... Trước
một cảnh giới lạ lùng như vậy, cả hội chúng bấy giờ
hết sức thắc mắc không biết đức Phật phóng hào quang như
vậy có ý nghĩa gì? Đức Di-lặc cũng không hiểu ý nghĩa đó
như thế nào, nên mới đại diện cho hội chúng để hỏi
Bồ-tát Văn-thù, có biết cái điềm mà đức Phật phóng hào
quang thuyết pháp, hiện rõ các cảnh giới như thế là ý nghĩa
gì không ? Lúc ấy, Bồ-tát Văn-thù trả lời rằng : "Thưa
Tôn giả, tôi nhớ đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh Quang Như
Lai đã từng phóng hào quang hiện các tướng lạ như vậy,
rồi sau đó Ngài thuyết kinh Đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa. Tôi
chắc rằng ngày hôm nay, đức Phật Thích-ca phóng hào quang
hiện rõ cảnh giới như thế cũng là điềm báo trước rằng
; Ngài sẽ thuyết kinh Đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa chăng?"
Khi Bồ-tát Văn-thù giải đáp được thắc mắc của hội chúng,
cho nên hội chúng mới biết rằng : Chính đức Phật sắp
sửa thuyết kinh Đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa. Ngài thuyết
kinh Đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa là nói đến cảnh giới Đại
thừa thậm thâm vi diệu, cảnh giới cần phải có trí tuệ
rộng lớn, đó là phát cái tâm Bồ-đề dõng mãnh, một cái
chí nguyện cao siêu thì mới có thể thân cận, mới có thể
nghe được và thể nhập được. Đức Phật phóng hào quang là
cốt để cho chúng sanh sửa soạn tâm tư nguyện vọng của mình
mà nghe lời dạy của đức Phật. Đó là Phẩm mở đầu
bằng sự hiện hữu của đại trí Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát.
Sau khi
đức Phật nói 27 phẩm Kinh, tiếp đến phẩm thứ 28; Ngài nói
đến phẩm Phổ Hiền khuyến phát. Nói "Phổ Hiền
khuyến phát" là nói đến cái hạnh của đại Bồ-tát
cần đến, mà tiêu biểu là đại hạnh Phổ Hiền Bồ-tát.
Trong kinh Pháp Hoa, Văn-thù đại sĩ là tiêu biểu cho đại trí,
thì Phổ Hiền đại sĩ là tiêu biểu cho đại hạnh. Đại trí
ví dụ như con mắt, đại hạnh ví dụ như hai chân, Đại trí
ví dụ cho sự hiểu biết, đại hạnh ví dụ cho sự thật hành.
Có con mắt nhìn thấy mà không có chân bước đi thì cũng
chỉ ngồi một chỗ. Có trí hiểu biết mà không có thực hành
thì cái trí đó cũng chỉ là một cái trí suông không đạt
kết quả. Cho nên, Văn-thù đại sĩ luôn luôn tiêu biểu cho
trí tuệ, cho sự hiểu biết. Phổ Hiền Bồ-tát tiêu biểu
cho hai chân đi, cho sự hành động sáng suốt. Có hành động
sáng suốt thì mới thành tựu quả vị Vô thượng bồ-đề.
Cho nên trong kinh Pháp Hoa, mở đầu với Bồ-tát Văn-thù và
kết thúc với Bồ-tát Phổ Hiền là có ý nghĩa lớn lao và sâu
xa như vậy.
Ở
Việt Nam chúng ta, nếu các Phật tử đi đến chùa nhất là các
chùa miền Bắc hiện giờ, thì thấy các chùa thờ Phật rất
nhiều. Phía trên có ba dòng Phật. Dòng trên hết có ba vị
gọi là tam thế Phật, tức là đức Phật ba đời : (Đức
Phật Di-đà, đức Phật Thích-ca và đức Di-lặc). Đức Di-đà
chỉ Phật quá khứ, đức Thích-ca là Phật hiện tại và đức
Di-lặc là Phật vị lai. Chúng ta thường gọi là thờ Tam
Thế Phật. Dòng thứ hai cũng thấy có thờ ba vị : Chính
giữa là đức Phật Di-đà, bên hữu là Quán Thế Âm, bên
tả là đức Đại Thế Chí. Đức Quán Thế Âm, đức Đại
Thế Chí là hai vị Bồ-tát thượng thủ, trợ thủ cho việc
tiếp dẫn chúng sanh với đức Phật Di-đà. Cho nên đức Quán
Thế Âm, đức Đại Thế Chí luôn luôn ở bên tả và bên
hữu của đức Phật A-di-đà. Dòng thứ hai nầy gọi là thờ
Tịnh độ tam Thánh. Tịnh độ tam Thánh tức là đức Phật
Di-đà ở giữa, đức Quán Thế Âm bên tả, đức Đại Thế
Chí bên hữu gọi là ba vị Thánh ở cõi Tịnh độ, ba vị Thánh
tiếp dẫn chúng sanh về cõi Tịnh độ. Xuống dòng thứ ba cũng
có ba vị : Chính giữa là đức Phật Thích-ca, bên hữu là
Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi và bên tả là Bồ-tát Phổ Hiền. Đó
là hai vị đại Bồ-tát làm trợ thủ cho đức Phật Thích-ca
giáo hóa chúng sanh, cho nên, hai vị đó luôn luôn ở bên
cạnh Ngài - tức là ở bên tay phải và ở bên tay trái của
đức Phật Thích-ca. Ba vị nầy gọi là Hoa Nghiêm Tam Thánh.
Bởi vì trong kinh Hoa Nghiêm lấy đức Phật Thích-ca, Bồ-tát
Văn-thù, Bồ-tát Phổ Hiền là ba vị tiêu biểu nhất ở
trong Pháp hội Hoa Nghiêm của đức Phật, cho nên gọi là Hoa
Nghiêm Tam Thánh. Có trường hợp khác người ta không thờ
Bồ-tát Văn-thù, Bồ-tát Phổ Hiền mà thờ Tôn giả A-nan và
Tôn giả Ca-diếp. Tôn giả A-nan và Tôn giả Ca-diếp cũng là
hai vị thượng thủ trong hàng Thanh văn, trợ hóa hai bên giúp
đỡ đức Phật Thích-ca trong việc giáo hóa của Ngài. Nói như
vậy để cho những ai có đi ra miền Bắc thăm các di tích
thấy trong chùa mà thờ như vậy thì cũng biết được trên
hết là thờ Tam Thế Phật, thứ hai là thờ Tịnh độ Tam Thánh
hoặc là nhiều khi để Hoa Nghiêm Tam Thánh, tầng thứ ba là
thờ đức Thích-ca, Bồ-tát Văn-thù và Bồ-tát Phổ Hiền
vậy.
Thấy rõ,
biết rõ rằng các vị Bồ-tát nầy luôn luôn có cái công
hạnh lớn lao là giúp đỡ cho công việc giáo hóa của Phật
được thành tựu, cho nên khi thờ Phật chúng ta cũng thờ luôn
các vị Bồ-tát đó, huống gì các Ngài đã phát đại
nguyện Bồ-đề cứu độ tất cả chúng sanh. Với hạnh
nguyện lớn lao của các Ngài như thế, cho nên chúng ta thờ các
Ngài, một mặt nhớ ơn cao siêu của các Ngài đồng thời
học lấy cái hạnh Bồ-tát của các Ngài để tu hành. Trong
phẩm Phổ Hiền khuyến phát cuối cùng, chúng ta thường hay
đọc, nhớ rõ trong đó Bồ-tát Phổ Hiền hỏi đức Phật Thích-ca,
làm thế nào để chúng sanh trong thời mạt pháp có được
kinh Pháp Hoa, gần gũi được kinh Pháp Hoa, tụng được kinh
Pháp Hoa, thâm nhập được kinh Pháp Hoa ? Đức Phật Thích-ca
trả lời phải hội đủ bốn điều. Bốn điều đó là gì ?
Điều thứ nhất : Được chư Phật hộ niệm. Điều thứ hai
: Gieo trồng căn lành. Điều thứ ba : Vào trong chánh định.
Điều thứ tư : Phát đại bi tâm. Chúng sinh có được bốn
điều đó, hội đủ bốn điều đó là có kinh Pháp Hoa, gần
gũi, trì tụng, thâm nhập, thực hành kinh Pháp Hoa. Bây giờ
chúng ta thử tìm hiểu thêm bốn điều trên :
Điều
thứ nhất : Chư Phật hộ niệm : Điều này đối với tất
cả chúng ta là hết sức cần thiết. Đức Phật với tâm
từ bi rộng lớn, thương yêu tất cả chúng sinh, luôn luôn
hộ niệm cho tất cả chúng sinh, mong mõi tất cả chúng sinh
được thành tựu : Ly khổ đắc lạc, thoát mê đắc ngộ, luôn
luôn hộ niệm cho tất cả chúng sinh, nhưng nếu chúng sinh
quay lưng lại thì tất nhiên, sự hộ niệm đó không thành
được. Ví như chúng ta tìm một người mà người đó cố tình
tránh chúng ta mãi, thì dầu chúng ta có tìm mấy đi nữa cũng
không thể gặp được. Cho nên khi được đức Phật hộ
niệm, tức là khi chúng ta có phát tâm hướng về đức Phật,
cũng ví như một người tìm về với chúng ta thì chúng ta tìm
họ mới bắt gặp, nếu không, chúng ta cứ tìm mãi mà họ
cứ tránh mãi thì dầu có tìm bao nhiêu đi nữa cũng không
thể gặp được. Cho nên muốn được đức Phật hộ niệm
thì điều cần thiết là phải hướng tâm về với Phật, mà
lẽ tất nhiên khi chúng ta hướng tâm đến Phật thì sẽ có
một sự cảm ứng lớn lao "đạo giao" tức nhiên đức
Phật hộ niệm cho chúng ta. Ngài hộ niệm cho chúng ta bằng tâm
từ bi, bằng trí tuệ, bằng lời giáo hóa và bằng sự cảm
ứng bất tư nghì. Nhờ sự hộ niệm của chư Phật, chúng ta
mới được yên ổn để nghe pháp, tụng kinh, hành thiền và
nghiên cứu. Sự hộ niệm đó rất thiêng liêng, rất nhiệm
mầu không thể cắt nghĩa hết được. Ai có được cảm
ứng thì được nhìn thấy. Phật hộ niệm chúng sinh bằng
nhiều cách. Khi thì hiện cho chúng ta thấy, khi thì hộ niệm
cho chúng ta bằng cách khác mà chúng ta không thấy được. Nhưng
chúng ta luôn luôn sống được an lành là nhờ sự hộ niệm
của chư Phật.
Điều
thứ hai : Gieo trồng căn lành : Nếu chư Phật hộ niệm mà chúng
ta không gieo trồng căn lành thì cũng không gần được kinh Pháp
Hoa, đọc được kinh Pháp Hoa. Cho nên gieo trồng căn lành
lại là một điều cần thiết thứ hai. Gieo trồng căn lành
nghĩa là : Đối với đức Phật, chúng ta phát một tâm kính
lễ, tán thán công đức của Ngài, cúng dường Tam Bảo, trì
tụng kinh chú, thực hành lời dạy của đức Phật áp dụng
vào trong cuộc sống hằng ngày của mình qua ngôn ngữ, qua hành
động, qua ý nghĩ của mình, đó là gieo trồng căn lành. Bởi
vì tâm của chúng ta như một đám ruộng để cho các hạt
giống gieo xuống, nếu chúng ta không biết gieo vào đó những
hạt giống lành, giống phước mà ngược lại gieo trồng
giống ác, giống bất thiện thì tự nhiên cái đám ruộng
của chúng ta không mọc lên những cây lúa tốt mà lại mọc
lên những cây cỏ dại, những cây độc dược, những cây
xấu xa, không thể mọc lên cây tươi đẹp được. Ngược
lại, nếu chúng ta gieo trồng vào đám ruộng tâm của mình
những hạt giống tốt, chẳng hạn, hạt giống cúng dường,
lễ kính, tán dương Tam Bảo, thọ trì kinh chú, bố thí, trì
giới, thì chính cái hạt giống đó được gieo vào trong tâm
điền của chúng ta, nó sẽ mọc lên cây Bồ-đề, cây phước
đức, quả báo lớn lao tốt đẹp. Cho nên gieo trồng công đức
là điều thứ hai để cho chúng ta có được kinh Pháp Hoa. Tuy
sự gieo trồng này có nhiều cách hoặc bằng cách tu phước
hoặc bằng cách tu huệ. Có người có căn cơ tu huệ mà nhẹ
phần tu phước, nghĩa là ưa học kinh, ưa nghe giảng, ưa đọc
giáo lý, ưa tìm hiểu mà ít làm phước. Những vị này tìm
hiểu thì được, học giáo lý thì được, nhưng nói tới
sự giữ giới hay bố thí thì hơi khó khăn, ngược lại, có
những người có căn cơ ưa tu phước nhiều hơn tu huệ. Họ
ưa cúng chùa, ưa xây tháp, ưa tụng kinh, ưa lễ bái, ưa đọc
kinh, ưa bố thí ... nhưng nói đến chuyện đi nghe giảng hay nói
đến chuyện học hỏi, tìm hiểu giáo lý của đức Phật thì
có vẻ hơi khó khăn. Đức Phật dạy nếu chỉ riêng tu phước
không thì cũng không thể thành Phật được. Nếu ai chỉ riêng
tu phước thì họ chỉ đạt được cảnh giới tốt đẹp
trong hàng nhơn thiên, không thể đạt tới cái đạo lý giải
thoát tối hậu. Nếu riêng tu huệ thì chỉ đưa đến cái trí
tuệ giải thoát, không thể có được cái phước báo trong hàng
nhơn thiên, phước báo an lạc. Cho nên, có thể có những người
hết sức thông minh mà có thân hình rất xấu xí, vì sao vậy
? Vì họ chỉ tu huệ chứ không tu phước. Có người rất giàu
mà lại kém thông minh là vì sao ? Vì họ chỉ tu phước mà
thiếu tu huệ. Cho nên muốn được cái phước đức và trí
tuệ song song cần phải tu cả hai mặt. Muốn được một thân
hình tốt đẹp và có trí tuệ thì phải tu cả phước lẫn
huệ.
Ngày xưa
có bốn người, mà cả bốn người ngày chỉ ưa tu phước
chứ không ưa tu huệ. Họ nghe rằng, người nào làm phước
thì được sanh lên cõi trời hưởng phúc báo sống lâu vô
tận : Muốn ăn có ăn, muốn mặc có mặc, sung sướng đủ
mặt, có vàng có bạc, có nhà cao cửa tốt, đầy đủ tiện
nghi. Nghe như vậy, họ sung sướng vô cùng, Cho nên, cả bốn
người bàn bạc cùng nhau, muốn đến cúng dường đức Phật
để cầu được phước, hưởng giàu sang chứ không muốn
nghe đức Phật thuyết pháp. Họ ước nguyện với nhau, hễ cúng
rồi thì đi ngay chứ đừng ngồi nghe đức Phật thuyết pháp.
Người thứ nhất tới cúng dường đức Phật, khi cúng dường
đức Phật xong, Ngài định nói pháp cho họ nghe. Ngài mới
mở miệng nói được một câu "Chư hạnh vô thường"
thì anh ta bịt tai mà nói : "Xin Ngài cho tôi đi". Qua
đến anh thứ hai vào cúng dường xong định bụng, nhắm mắt
bịt tai mà đi, chứ không chịu nghe, nhưng rồi Phật cũng
cứ nói tiếp : "Thị sanh diệt pháp", nghe xong anh ta
bịt tai mà nói : "Xin Ngài cho tôi đi". Rồi đến anh
thứ ba cũng vào cúng dường, định bụng chỉ cúng dường để
được phước chứ anh không muốn giải thoát, đức Phật
vừa mới nói câu thứ ba "Sanh diệt diệc dĩ", anh cũng
nghe rồi bịt tai vùng chạy. Rồi anh thứ tư cũng vào cúng dường,
định bụng cúng dường rồi thì đi chứ không ưa nghe pháp.
Nhưng Phật nói tiếp "Tịch diệt vi lạc" cho anh nghe.
Bốn câu đó có nghĩa là : Các pháp vô thường, khôngcó cái
gì là không vô thường, thân quí cái thân của chúng ta, trau
tria thế nào đi nữa rồi cũng vô thường, chứ chúng ta không
giữ yên được. Vấn đề là làm sao đừng ôm lấy cái ngu
đối đãi với cái vô thường sanh diệt của các pháp, làm
sao để tiêu diệt, để phá bỏ cái ý niệm sanh diệt để
chỉ còn lại sự tịch tĩnh viên mãn ; đấy là niềm an lạc
tuyệt đối vậy. Người nào ngộ được lẽ vô thường đó
mà sống với một tinh thần giải thoát, không chấp nê, không
đắm trước, thì người đó sẽ được an vui. Ý nghĩa của
4 câu kệ đó là như vậy. Mỗi anh nghe một câu, nó không có
ý nghĩa gì hết, nhưng sau khi cúng Phật về rồi, bốn anh
ngồi xúm lại với nhau để bàn bạc, hỏi nhau khi tới cúng
Phật : "Ông Phật có làm cái gì, nói cái gì, khi Ông
nhận cúng dường không ?"
Anh thứ
nhất trả lời : "Có, tôi vào cúng rồi, Ông nói : "Chư
hành vô thường", khi nghe, tôi bịt tai tôi chạy. Anh thứ
hai nói : "Tôi cúng dường xong, Ông nói : "Thị sanh
diệt pháp". Nghe xong, tôi bịt tai tôi chạy. Anh thứ ba nói
: "Tôi cúng xong, Ông nói rằng: "Sanh diệt diệc dĩ".
Ông nói xong, tôi cũng bịt tai tôi chạy. Rồi anh thứ tư nói
: Ôi chao! tôi cúng xong ông cũng nói : "Tịch diệt vi lạc".
Tôi cũng bịt tai tôi chạy. Bốn người ngồi ráp lại 4 câu
đó thấy hay quá. Đó là :
"Chư hành vô
thường,
Thị sanh diệt pháp,
Sanh diệt diệc dĩ,
Tịch diệt vi
lạc".
Tam
dịch :
"Các hành vô
thường
Là pháp sanh diệt
Sanh diệt diệt
rồi
Tịch diệt an vui".
Trước
kia nghe từng câu thì nó không có y nghĩa gì cả, bây giờ đây
nghe suốt cả 4 câu thấy chúng có ý nghĩa là một bài
thuyết pháp tuyệt diệu. Ngài dạy hết cả chân lý của
cuộc đời, hay quá cho nên các anh mới thâm nhập được,
mới đến xin đức Phật : "Bạch Phật, hôm nay chúng con
hiểu rồi, tu phước phải tu huệ mới giải thoát, tu phước
không mà không tu huệ thì không được giải thoát, cho nên chúng
con xin theo Ngài để tu".
Nói như
vậy để cho chúng ta biết rằng : Trong khi chúng ta tụng kinh,
chúng ta thấy có hai ý nghĩa : Vừa được cả phước lẫn
cả huệ. Vậy, tu phước là gì ? Tu phước là đến trước
đức Phật tụng kinh, tán dương, ca ngợi, lễ bái đức
Phật... Tu huệ là nghe lời của Phật dạy, thâm nhập đạo
lý của đức Phật dạy, làm cho trí tuệ của mình được tăng
trưởng, những điều vô minh, đen tối của mình được phai
mờ đi, đó là huệ. Nên việc tụng kinh là việc gieo trồng
thiện căn rất lớn lao.
Điều
thứ ba : Vào trong chánh định : Thiền định là một môn
thực hành tu tập trong 3 môn học của Phật là Giới-Định-Tuệ.
Định là một pháp môn tu tập hết sức quan trọng. Ví như
ngọn đèn muốn sáng, ngọn đèn đó phải đứng yên, nếu như
ngọn đèn chao qua chao lại thì ngọn đèn sẽ không sáng được.
Tâm của chúng ta muốn được sáng, tâm của chúng ta cũng
phải đứng yên, nếu tâm của chúng ta chao qua chao lại thì
sẽ không sáng được. Cho nên có nhập vào Thiền định thì
tâm mới đứng yên ; tâm có đứng yên như ngọn đèn thì tâm
mới sáng. Cho nên khi tụng kinh, nếu chúng ta không có định
tâm, không một chút định tâm vào trong kinh thì lúc bấy
giờ câu kinh đó không lọt vào đầu mình, không lọt vào tai
mình, khi đó tâm mình như ngọn đèn chao, ngọn đèn chao như
thế đó thì câu kinh cũng chỉ lờ mờ đến với mình mà thôi,
nó không sáng sủa gì hết, như ngọn đèn chao qua chao lại, nó
không sáng rõ một vật gì hết. Cho nên cần phải có điều
kiện thứ ba vào trong chánh định là như vậy. Định tâm
trong khi tụng kinh, định tâm trong khi ngồi trước Phật, định
tâm trong khi đến chùa. Thay vì nói chuyện lao xao, thay vì nghĩ
lung tung, nghĩ bậy bạ, thì định tâm trong khi tụng kinh đó
gọi là vào trong Thiền định. Vào trong Thiền định trong khi
tụng kinh, Thiền định trong khi về nhà, Thiền định trong
khi đi đường ; nghĩa là luôn luôn tâm mình được định
tỉnh chứ không bị sự chi phối bên ngoài làm cho tâm mình
như ngọn đèn chao mà không đứng vững, không sáng được.
Đó là vào trong Thiền định.
Điều
thứ tư : Phát đại bi tâm : Là phát một tâm từ, một tâm
thương tất cả mọi người, tất cả chúng sanh. Vẫn biết
giữa đời này chúng ta cũng có điều tốt, có điều xấu,
nhưng thường tâm bịnh của chúng sanh ưa thấy cái xấu của
người khác hơn là thấy cái tốt của người khác, mà khi
thấy cái xấu của người khác thì dễ sinh phiền não. Khi đã
thấy cái xấu của người khác tức cái tâm của mình cũng
không được tốt cho lắm. Tại sao người ta có cái tốt mà
mình không ưa thấy, mà chỉ ưa thấy cái xấu, phải chăng cái
tâm của mình không quảng đại, không từ bi, cho nên có tâm
quảng đại, từ bi là một người có tâm lớn lao thương yêu
tất cả, phát một cái tâm thấy cái tốt của người khác
thay vì thấy cái xấu của người khác, đó là tâm đại bi.
Hội đủ
được bốn điều đó tự nhiên chúng ta đến được với
kinh Pháp Hoa, nghĩa là chúng ta gần gũi kinh Pháp Hoa, trì
tụng, thâm nhập kinh Pháp Hoa để chứng ngộ được kinh Pháp
Hoa. Nên Ngài Phổ Hiền Bồ-tát nói rằng : "Như vậy tương
lai, nếu người nào thọ trì kinh Pháp Hoa thì trong khi đứng,
ngồi, nằm, khi đi, con đều hiện ra trước họ, khuyến khích
họ, tán thán họ, hộ trì họ được giữ mãi tâm Bồ-đề,
tâm thọ trì kinh điển không bị thối chuyển". Ở phẩm
cuối cùng, ngài Phổ Hiền Bồ-tát đến trước đức Phật
Thích-ca sau khi đã nói kinh Pháp Hoa xong phát đại nguyện hộ
trì cho những người thọ trì kinh Pháp Hoa, cho nên phẩm đó
được để sau hết. Trước phẩm đó, thì đến phẩm Chúc
Lụy, tức là phẩm kết thúc bộ kinh Pháp Hoa.
Như
vậy, chúng ta thấy rõ rằng mở đầu kinh Pháp Hoa là lấy ngài
Văn-thù tiêu biểu cho trí tuệ, có trí tuệ mới thâm nhập
được kinh Pháp Hoa. Kết thúc kinh Pháp Hoa là phẩm Phổ
Hiền khuyến phát tức là nói về sự tu hành, có tu hành
mới thành đạt được trí tuệ.
Cầu
mong cho tất cả chúng ta luôn luôn thọ trì kinh Pháp Hoa, luôn
hun đúc phước huệ trang nghiêm để viên thành Phật đạo.
--- o0o ---
Mục
lục Kinh Pháp Hoa | 1 |
2 | 3a |
3b | 4a | 4b
| 4c | 5a
| 5b | 5c
|
6a | 6b | 7a
| 7b | 8a
| 8b | 8c
| 8d |
---o0o---
|
Thư Mục Tác Giả
|