Lược giải Kinh Pháp
Hoa
---o0o---
NHẤT THỪA ĐẠO
---o0o---
Có một
câu trong phẩm Phương tiện của kinh Pháp Hoa mà người học
Phật thường để ý, đó là câu :
"Chư Phật lưỡng
túc tôn,
Tri pháp thường
vô tánh,
Phật chúng tùng
duyên khởi,
Thị cô thuyết
nhất thừa.
Thị pháp trụ pháp
vị,
Thế gian tướng
thường trụ,
Ư đạo tràng tri
dĩ,
Đạo sư phương
tiện thuyết." 2
Bây
giờ lần lượt chúng ta tìm hiểu câu này có ý nghĩa gì?
Chư
Phật : Chỉ tất cả Phật trong quá khứ, hiện tại, vị lai.
Các đức Phật đều có danh hiệu Lưỡng túc tôn. Bằng đôi
chân, chúng ta đi chỗ này chỗ kia, thì đức Phật cũng có
hai chân phước đức và trí tuệ dạo khắp tam giới để
cứu độ chúng sanh. Phước đức và trí tuệ hay đại bi và
đại trí, hai đức tính tôn quí đó Phật đã thành tựu, nên
Ngài được tôn xưng là đấng Lưỡng túc tôn. Vì có đại
bi đại trí nên Phật biết rõ tánh các pháp. Tánh đó là tánh
bình đẳng, bất sinh bất diệt hay còn gọi là vô tánh mà
chỉ có trí Bát-nhã mới có thể ngộ nhập. Chư Phật rõ
được tánh ấy, nên nói: "Tri pháp thường vô tánh".
Câu này được giải thích khác nhau tùy theo tinh thần của
mỗi tông phái. Tánh Tông giải thích : Các pháp là chơn không,
vô tự tánh, vì các pháp nhờ nhiều nhân duyên, nhờ đối đãi
mà thành. Lìa các duyên, lìa sự đối đãi thì không có các
pháp. Như vậy, các pháp có mà như không, vì cái có đó không
có tự tánh, tức không có tánh độc lập với cái khác.
Với tâm lý phàm phu, chúng ta thấy có pháp này pháp kia sai khác,
cái thấy đó không đúng với thực tướng các pháp. Đức
Phật thì thấy các pháp trùng trùng duyên khởi, tương quan
lẫn nhau vô cùng tận mà hình thành. Như vậy, một pháp
hiện hữu giữa tất cả các pháp, tất cả các pháp hiện
hữu từ một pháp. Ngoài một pháp không có tất cả pháp,
ngoài tất cả pháp không có một pháp. Nếu thấy các pháp riêng
biệt là không hiểu rõ lý duyên khởi ấy. Đức Phật biết
rõ các pháp đều vô tự tánh. Pháp sinh cũng vô tự tánh, pháp
diệt cũng vô tự tánh, pháp có, pháp không, đều vô tự tánh.
Chẳng hạn, khi ta thấy pháp hiện hữu trước mắt, thì pháp
đó cũng vô tự tánh, mà khi nó không hiện hữu, cũng là vô
tự tánh. Các pháp có khi thành, khi hoại, khi có, khi không,
gọi là sanh tử thành hoại, nhưng cái vô tự tánh của các
pháp thì không có sanh tử thành hoại, nên Bát-nhã tâm kinh có
câu : "Thị chư pháp không tướng bất sanh, bất diệt,
bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm". Câu này có
thể giải thích ý nghĩa câu "Tri pháp thường vô tánh"
của kinh Pháp Hoa.
Nhưng
theo tinh thần Tướng tông, ngài Khuy Cơ giải thích như sau : Các
pháp chia ra pháp thường tánh và pháp vô tánh. Pháp thường tánh
là viên thành thật, pháp vô tánh là biến kế chấp và y tha
khởi. Các pháp do duyên mà hiện hữu, nên gọi là y tha khởi.
Chúng sanh chấp các pháp y tha này là có thực, đó là biến
kế chấp, nghĩa là một sự hiểu biết theo vọng tình. Các
nhà Duy thức thường lấy ví dụ đêm thấy sợi dây thành
con rắn. Con rắn đó trên vọng tình thì có mà trên sự
thực khách quan thì không. Trong luận có một bài kệ để
diễn tả ba tự tánh nói trên của các pháp :
"Bạch nhất
kiến thằng, thằng thị ma,
Dạ lý kiến
thằng, thằng thị xà.
Ma thượng sanh
thằng, do trí loạn,
Khởi kham thằng
thượng cánh sanh xà?"
Tạm
dịch:
"Ban ngày
thấy dây, dây là gai,
Trong đêm thấy dây,
dây là rắn.
Gai thấy thành dây,
trí đã loạn,
Dây còn hóa rắn
nữa sao đang?"
Tất
cả các pháp đều do duyên sinh gọi là y tha khởi, vì y tha
khởi nên như huyễn, không có thực. Thấy dây là gai (thằng
thị ma) tức thấy rõ thực tướng của dây, thì gọi là viên
thành thật. Thấy gai là dây (ma thượng sanh thằng) là y tha
khởi tánh. Thấy dây thành rắn (thằng thượng cánh sanh xà)
là biến kế chấp. Các pháp y tha và biến kế chấp đều là
pháp hư vọng, vô tánh, chỉ có viên thành thật là pháp thường
tánh.
Pháp
nhất thừa cũng là chân như, thật tế pháp trụ, pháp vị.
Chữ "pháp trụ, pháp vị" ở trong câu kệ trên đồng
nghĩa với chân như, pháp tánh, thật tế, thật tướng, nghĩa
là đều chỉ tánh bình đẳng nhất như, tánh thường hằng
trong tất cả pháp. Chân như cũng là thật tướng thường trú
của thế gian. Ngộ được lý chân như này thì thấy rõ tất
cả các pháp thế gian đều ở trong chân như, đều thường
trú bất biến kiến "thế gian tướng thường trú". Tướng
đây là thực tướng, không phải tướng hư vọng bên ngoài,
(giả tướng thì có sinh trú diệt, mà thực tướng thì luôn
luôn là chân như thường trú).
Đức
Phật ở Bồ-đề đạo tràng chứng ngộ được pháp tánh
ấy và ngộ được Bồ-đề chủng tử của chúng sinh phải
cần có duyên mới phát khởi được, cho nên Ngài dùng các phương
tiện để làm phát khởi Bồ-đề chủng tử, nên mới nói pháp
nhất thừa. Bồ-đề chủng tử là hột giống lớn, hột
giống làm Phật, thì phải có pháp lớn là pháp nhất thừa
mới đủ sức làm duyên cho nó phát khởi (Phật chủng tùng
duyên khởi, thị cố thuyết nhất thừa... ư đạo tràng tri dĩ,
Đạo sư phương tiện thuyết).
Pháp
Phật chứng bất khả tư nghị, chỉ có Phật với Phật
hiểu nhau, còn chúng sanh không thể ngộ nhập trực tiếp, (Trường
Bộ Kinh nói : Pháp này do Ta chứng được thật là sâu kín,
khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, cao thượng, siêu lý luận,
vi diệu, chỉ người có trí mới hiểu thấu. Còn quần chúng
này thì ưa ái dục, khoái ái dục, ham thích ái dục, thật khó
thấy được định lý y tánh duyên khởi pháp. Thật là khó
thấy được tịnh lý tất cả hành là tịch tịnh, tất cả
sanh y được từ bỏ, ái được đoạn tận, ly dục, ái
diệt Niết-bàn), nên Phật phải dùng phương tiện, tuỳ căn
cơ trình độ chúng sanh để nói. Nghĩa là khi nói pháp không
phải Ngài luôn luôn đem lý nhất thừa ra dạy. Chẳng hạn đối
với phàm phu, ngoại đạo, căn cơ thấp thì Ngài chỉ dạy
bố thí, trì giới. Với hàng Thanh Văn trình độ khá hơn, Ngài
dạy Tứ diệu đế để thấy khổ, nguyên nhân khổ, sự
diệt khổ và con đường diệt khổ. Cao hơn nữa, đối với
hàng Duyên giác quán được lý nhơn duyên sinh, Ngài mới dạy
12 Nhơn duyên để đưa họ đến giác ngộ. Tất cả những pháp
đó đều là phương tiện Phật dùng để dìu dắt chúng sinh
cho đến khi phát khởi được Bồ-đề chủng tử (Bồ-đề tâm)
mới nói nhất thừa. Vì chỗ chứng của Phật thâm diệu, căn
cơ của chúng sinh không thể một lần mà ngộ được, Phật
phải dùng phương tiện giáo hóa dần dần. Phẩm Phương
tiện trong kinh Pháp Hoa do đó giữ vai trò rất quan trọng. Thí
dụ về phương tiện được Phật dùng để giáo hóa : Một bà
mẹ sầu khổ vì con chết, bà không nỡ đem chôn, cứ ôm con
khóc lóc mà đi đến Phật, Ngài bảo bà hãy đi xin lửa ở
nhà nào không hề có người chết, đem về để Ngài cứu đứa
con. Bà vâng lời ra đi, đến nhà nào cũng sẵn sàng cho lửa,
nhưng khi hỏi đến người chết thì không nhà nào khỏi có
người chết. Nhà thì chết cha, chết mẹ, anh em, chị em, con
cháu. Cứ mỗi câu trả lời như là một tia lửa chiếu sáng
tâm tư. Cuối cùng bà dần dần tỉnh ngộ trước sự thật,
nên nỗi đau khổ cũng nguôi dần. Bà trở về đức Phật
trong tâm trạng bình tĩnh hơn. Bà bạch lại với đức Phật
rằng : "Việc Ngài dạy con đã làm xong". Đức Phật
nhân đấy thuyết pháp cho bà, bà hoan hỶ kính thọ, đem xác
con đi chôn, cầu nguyện cho nó mà không còn quá đau khổ như
trước. Đó là phương tiện mà nếu đức Phật không dùng thì
không thể dẫn bà mẹ đau khổ ấy ra khỏi phiền não, đạt
đến trí tuệ. Đối với căn cơ của một người đang ngập
chìm trong đau khổ như bà này thì cần phải nhờ bài học
thực tế trực tiếp như Đức Phật dạy mới thức tỉnh
nổi, chứ nếu chỉ giảng lý thì thật khó làm cho bà lay
chuyển. Không có quyền trí (hay phương tiện trí) thì căn
bản trí không thể hiển bày được.
Người
ta thường xem đức Phật như một đấng thiêng liêng, một
vị thần. Ngài đã đánh tan hiểu lầm đó một cách dứt khoát
trong câu trả lời Bà-la-môn Dona. Bà-la-môn này, một hôm, trông
thấy dấu chân Ngài và chú ý đến những đặc điểm khác
thường nơi dấu chân ấy, ông ta lần tìm đến chỗ đức
Phật và hỏi :
- Ngài có
phải là một vị trời chăng? Phật đáp : Không, Bà-la-môn
lại hỏi : Vậy Ngài là Càn-thát-bà chăng ? (Là một loài
nhạc thần). Ngài đáp : Không. - Ngài là quỉ Dạ xoa chăng ?
Ngài đáp : Không phải. Vậy có phải Ngài là người chăng ?
Ngài đáp : Ta không phải là người. Quá ngạc nhiên, Bà-la-môn
hỏi tiếp : Vậy Ngài là ai? Khi ấy đức Phật trả lời như
sau : Nầy Bà-la-môn, Ta không phải là trời, nhưng đối với
loài trời chưa giác ngộ, còn mê hoặc thì Ta là một vị
trời đã giác ngộ, hết mê hoặc. Ta không phải là Càn-thát-bà,
là Dạ-xoa, là người.., nhưng đối với loài Càn-thát-bà, loài
Dạ-xoa, loài người... chưa giác ngộ, còn mê hoặc, thì Ta là
loài Càn-thát-bà... đã giác ngộ, hết mê hoặc. Ví như hoa
sen sanh ra trong nước, lớn lên trong nước, nhưng không bị nước
thấm ướt. Ta sanh ra trong đời, lớn lên trong đời, Ta chinh
phục đời, không bị đời làm ô nhiễm. Như vậy Ta là
Phật.
Bà-la-môn
Dona sụp lạy và xin quy y Phật.
Qua
chuyện ấy, chúng ta thấy đức Phật ở trong tất cả Trời,
Càn-thát-bà, Dạ-xoa, người... nhưng vượt lên tất cả
Trời, Càn-thát-bà, Dạ-xoa, người... Ngài không có xa vời đối
với chúng ta, nhưng rất khác chúng ta, vì Phật là một người
đã hết mê hoặc, đã giải thoát và viên mãn lòng từ bi
cứu độ chúng sanh, chỉ có thế. Nhưng chính đó là điều
cao quí nhất, siêu việt nhất mà tất cả chúng ta hết lòng
tôn thờ để tu theo.
--- o0o ---
Mục
lục Kinh Pháp Hoa | 1 |
2 | 3a |
3b | 4a | 4b
| 4c | 5a
| 5b | 5c
|
6a | 6b | 7a
| 7b | 8a
| 8b | 8c
| 8d |
---o0o---
|
Thư Mục Tác Giả
|