Lược giải Kinh Pháp
Hoa
---o0o---
8b
---o0o---
Kinh văn:
Lúc bấy giờ đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà nói
kệ rằng:
Đấng
Thế Hùng bất khả lường, hàng chư thiên và thế nhơn, tất
cả loài chúng sanh, không ai biết Phật được. Phật đủ 10
lực, bốn Vô sở úy, tám giải thoát, các tam muội và các pháp
khác của Phật, không thể nào trắc lường hết được.
Giải thích:
Đây là bài tụng tán thán Phật và pháp. Bốn câu đầu tán
thán Phật là Đấng giác ngộ được thật tướng sâu xa, là
Đấng có đầy đủ công đức chúng sanh không thể nào thấu
hiểu hết được. Bốn câu sau là tán thán pháp, tức tán thán
những điều đức Phật chứng ngộ được như mười lực,
bốn Vô sở úy..., những pháp này chúng sanh cũng không thể nào
trắc lường được.
Kinh văn:
Vốn từ vô số các đức Phật, thật hành đầy đủ các đạo,
pháp thậm thâm vi diệu khó thấy khó hiểu. Trải vô lượng
ức kiếp, tu các đạo hạnh ấy xong, ở nơi đạo tràng
chứng thành quả giác, Ta đã đều biết hết. Như vậy, đại
quả báo và các nghĩa tánh tướng chỉ có Ta cùng mười phương
chư Phật mới có thể biết việc đó, pháp ấy không thể
chỉ bày, tướng ngôn ngữ vắng bặt, các loài chúng sanh khác,
không làm sao hiểu được, trừ chúng Bồ-tát bằng sức tin
kiên cố (mới tín giải mà thôi).
Giải thích:
Đoạn kinh này cũng là tiếp lời tán thán trên.
Trên là
tán thán Phật và pháp của Phật chứng ngộ.Tại sao đức
Phật lại chứng ngộ được các pháp đó? Bởi vì như trên
đã nói, không phải một hai ngày mà phải rất nhiều công
phu tu tập trãi qua vô số kiếp, gặp vô số các đức Phật,
thực hành đầy đủ đạo hạnh, cho nên đức Thích Tôn mới
chứng được những pháp đó. Những pháp Phật chứng ngộ
được rất là thậm thâm vi diệu. Mà pháp đó là gì? Tức
chỉ cho thật trí và quyền trí, hay nói rộng ra là 10 trí
lực, bốn điều không sợ, tám món giải thoát,... Do đó Ngài
đã chứng thành quả vị Bồ-đề nơi đạo tràng, và điều
đó Ngài đã biết rõ. Chỉ có đức Thích Tôn cũng như 10 phương
chư Phật khắp cùng biết rõ đại quả báo và các tánh tướng
của các pháp. "Quả báo tánh tướng" ở đây là nói
tóm gọn"10 như" ở trước. Tánh tướng là đứng
về nhơn, quả báo là đứng về quả báo. Cho nên bốn tướng
này tóm thâu cả 10 như thị. Chỉ có đức Phật và 10 phương
các đức Phật mới biết rõ pháp đó, mà pháp đó là pháp
dứt bặt các tướng ngôn từ, không thể dùng ngôn từ để
chỉ thị ra được, bởi vì pháp ấy cần tri chứng, thì
phải dùng bằng trí chứng. Ngôn từ chỉ có thể là phương
tiện chỉ dẫn, ngôn từ không thể nói đích thật pháp mà
Phật chứng ngộ. Cho nên đối với pháp đó tướng ngôn từ
vắng bặt, các loài chúng sanh không thể hiểu được.
Nhưng chúng
sanh không hiểu được thì làm sao ngộ được trí chứng
của Phật, học theo trí của Phật, để đạt đến trí của
Phật được, duy chỉ các hàng Bồ-tát bằng sức tin kiên
cố mà hiểu được, hiểu bằng tín giải chứ chưa hiểu
bằng chứng giải. Nghĩa là dựa theo lời Phật dạy rồi phát
lòng tin vững mạnh nơi lời đức Phật mà hiểu.
Đối
với các vị Bồ-tát trước khi kiến đạo, thì đầy đủ
bốn chứng tịnh hay bốn bất hoại tín là tin Phật tin Pháp,
tin Tăng, tin Giới. Bốn thứ này người học đạo phải tin
vững chắc không lay chuyển, không thay đổi. Khi người học
đạo có đủ bốn đức tin như thế thì người đó đã gần
tới địa vị kiến đạo. Chẳng những hàng Bồ-tát như
vậy, mà những người học đạo cũng đều phải như vậy.
Cho nên đức Phật nhắc nhở đến đức tin kiên cố để tín
giải Phật pháp. Nếu không thì luôn luôn chỉ đứng ngoài
cửa chứ không làm sao vào nhà Phật pháp được.
Kinh văn:
Các đệ tử Phật, từng cúng dường các đức Phật, tất
cả lậu đã tận, ở vào thân tối hậu, những người như
thế sức họ không kham hiểu nổi.
Giải thích:
Nghĩa là trừ hàng Bồ-tát dùng sức tin kiên cố nói trên,
bậc A-la-hán ở Thanh văn thừa, những vị này đã từng tu
tập, từng cúng dường, từng đoạn hết lậu hoặc. -Nên
nhớ lậu hoặc ở đây chưa phải là đoạn vô minh mà là đoạn
dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu, đó là ba thứ lậu trong
tam giới chứ chưa phải đoạn vô minh lậu ngoài tam giới. -Khi
đoạn hết lậu này rồi thì chứng A-la-hán, là thân cuối cùng,
thân này không còn tái sanh trong tam giới nữa. Cho nên một
vị A-la-hán thành tựu là một vị luôn luôn có đầy đủ
bốn nghĩa: Thử sanh dĩ tận (Do đoạn Khổ đế, chấm dứt
sanh tử), phạm hạnh dĩ lập (Do thành tựu Đạo đế, đủa
các phạm hạnh), sở tác dĩ biện (Do chứng Diệt đế, việc
cần làm đã làm xong), bất thọ hậu hữu (Do chứng Tập đế,
không còn trở lại trong sanh tử). Đầy đủ bốn nghĩa đó
gọi là A-la-hán. Bất thọ hậu hữu là ở thân cưối cùng.
Trong vòng luân hồi sanh tử của chúng sanh trãi qua vô lượng
vô số thân khi loài này, khi loài khác, không biết ngang đến
mức nào mới gọi là thân cuối cùng? -Đến quả vị A-la-hán
là thân cuối cùng không còn tái sanh nữa. Những bậc A-la-hán
như thế cũng không thể hiểu được pháp Phật chứng ngộ.
Kinh văn:
Giả sử, đầy cả thế gian gồm có những người như Xá-lợi-phất,
suy nghĩ cùng tột, chung nhau lại so lường cũng không thể so
lường biết được trí của Phật.
Giải thích:
Các vị A-la-hán không biết đã đành, những vị trí tuệ như
Tôn giả Xá-lợi-phất, đầy cả thế gian chung nhau lại để
suy lường pháp của Phật chứng ngộ cũng không thể được.
Kinh văn:
Giả sử, đầy cả 10 phương đều như Xá-lợi-phất và các
hàng đệ tử khác cũng đầy cả 10 phương cõi nước, cùng
tột tư lường, chung nhau trắc lường, thì cũng không thể
biết được trí chứng ngộ của Phật.
Đến hàng
Bích Chi Phật lợi trí, ở thân vô lậu tối hậu và cũng đầy
cả 10 phương giới, số những vị đó nhiều như rừng tre,
chung nhau lại đồng nhất tâm, trãi qua ức vô lượng kiếp,
muốn suy nghĩ thật trí của Phật cũng chẳng làm sao biết
được phần ít.
Dù đến
hàng tân phát ý Bồ-tát, từng cúng dường vô số Phật
liễu đạt được các nghĩa thú, lại khéo thuyết pháp.
những vị đó nhiều như lúa, mè, tre, lau đầy khắp cả 10
phương cõi, nhất tâm dùng diệu trí ở trong hằng sa kiếp đều
cùng nhau tư lường cũng không biết được trí của Phật.
Cho đến
hàng Bất thối Bồ-tát, số đó như hằng sa, nhất tâm cùng
nhau tư cầu cũng không thể biết được trí của Phật.
Giải thích:
Tóm lại, trí Phật, thật tướng Phật chứng ngộ, chỉ trừ
hàng Bồ-tát, bằng sức tin kiên cố mới tín giải được
một phần, ngoài ra, hàng tân phát ý Bồ-tát (Bồ-tát còn ở
địa vị trước thập tín), bất thối Bồ-tát (Bồ-tát đã
lên trên thập địa), A-la-hán, Bích Chi Phật và những vị có
đại trí tuệ như Xá-lợi-phất đầy khắp cả thế gian
chung nhau lại để tu lường cũng không ai biết được trí
của Phật và cũng không ai biết được thật tướng Phật
chứng ngộ.
Trí
của Phật sâu xa như vậy, lý của Phật sau xa như vậy, điều
đó để nói lên rằng cái sâu xa của Phật không thể biết
được. Vì sao như vậy? Bởi vì lý này, trí này là cần
thật chứng chứ không thể tư lường phân biệt. Nếu đem tư
lường phân biệt thì dù có phân biệt đến vô số kiếp, đem
bao nhiêu tâm tư lanh lợi khôn ngoan để phân biệt cũng không
phân biệt được.
Dựa vào
ý này để hiểu thì giáo pháp của Phật đối với chúng ta
cũng vậy, điều này luôn luôn được đức Phật nhắc nhở.
Nếu ai nghĩ rằng đem tâm tư phân biệt để hiểu lời Phật
dạy thì lời ấy sẽ trở thành một môn triết lý, nó không
là một chân lý cứu cánh, chân lý giác ngộ của Phật nữa.
Cho nên trong kinh thường nhắc nhở chúng ta là cần phải
chứng ngộ. Và cũng như đoạn trước, đức Phật trong khi Ngài
đang nói nửa chừng Ngài bảo "Thôi" không nên nói
nữa. "Thôi" đó có ý nhắc nhở chúng ta là cần
phải ly ngôn tự chứng chứ không phải cứ nói mãi trên ngôn
từ mà hiểu được, cũng không thể bằng vào ngôn từ mà
ngộ được.
Kinh văn:
Lại này Xá-lợi-phất, pháp thậm thâm vi diệu vô lậu bất
tư nghì Ta nay đã đầy đủ, chỉ có ta biết tướng ấy và
mười phương chư Phật biết tướng ấy. Xá-lợi-phất nên
biết, lời các đức Phật nói không đổi khác, hãy sanh đức
tin to lớn đối với pháp của đức Phật nói. Pháp Thế Tôn
lâu về sau cần phải nói chân thật.
Phật
bảo chúng Thanh Văn và những người cầu Duyên Giác thừa, Ta
khiến cho thoát khỏi sự trói buộc của các khổ, mau chứng
được Niết-bàn, Ta dùng sức phương tiện để khai thị giáo
nghĩa tam thừa, dắt dẫn khiến chúng sanh ra khỏi các nơi
chấp trước.
Giải thích:
Đoạn kinh này ý rằng, trong khi chứng ngộ cần phải đem lòng
tin mới chứng giải được.
Có người
nghĩ rằng, đạo Phật là đạo chú trọng về trí chứ không
chú trọng về đức tin, còn các đạo khác thì chủ trương
về đức tin chứ không chủ trương về trí. Nhưng nên hiểu
rằng trong Phật giáo không phải không có đức tin, nhưng đức
tin đó luôn luôn dựa theo giải (sự hiểu biết) tức trí tín,
chứ không phải hoàn toàn trí mà không có tín. Nói có đức
tin nghĩa là đối với những pháp chưa có thể nhất thời
liễu ngộ, chứng ngộ rõ ràng được thì chỉ bằng vào lòng
tin, mà khi đã hiểu rõ pháp đó rồi thì gọi là ngộ chứ
không phải tín nữa. Ví dụ, như tôi nói các vị hãy tin tôi,
các vị vào đây tôi sẽ cho một vật rất quý, mà vật quý
đó các vị chưa thấy. Như vậy, vật tôi sẽ cho đó các
vị chưa biết (giải). Nhưng các vị tin tôi, bằng vào bao nhiêu
lần nói khác, tôi nói đúng thật, không hư dối. Hôm nay, tôi
bảo các vị vào đây để các vị vật quý đó, các vị tin
theo tôi nên vào. Đó gọi là tín giải. Nếu các vị không
tin, đòi phải cho thấy rồi mới chịu vào, nhưng mà vật đó
vốn dĩ nằm bên trong chứ không thể đem ra ngoài cho các vị
thấy được, nếu như các vị không chịu tin lời tôi, cứ
ở bên ngoài thì luôn luôn các vị không làm sao thấy vật quý
đó được. Có tin lời tôi đi vào thì mới thấy, đó gọi là
tín giải, có tín giải mới đi đến chỗ chứng giải,
chứng ngộ.
Qua câu
chuyện bà Kisagotami sau đây để hiểu thêm: Bà Kisagotami sanh
được một đứa con duy nhất, trong khi sống bên nhà chồng,
bà không được thương yêu, nhờ khi sanh đức con mà bà được
thương yêu đôi chút, cho nên, đứa con đó đối với bà là
một vật quý báu, một nguồn an ủi, bao nhiêu hy vọng, bao
nhiêu hạnh phúc của mình đều đặt nơi đứa con. Nhưng không
may con bà chết. Bà sầu khổ cùng tột, không chịu đem xác
con đi chôn. Bà ôm xác con đi cùng khắp để tìm thầy cứu
sống. Có người hiểu được hoàn cảnh nên chỉ bà đến đức
Phật cầu cứu. Bà ôm con tìm Phật, đức Phật dạy bà hày
đi xin một ít hạt cải nơi nhà nào xưa nay không có người
chết đem về, Ngài sẽ cứu cho. Bà tin theo lời Phật dạy,
đi gõ cửa từng nhà xin hạt cải, ai cũng sẵn lòng cho, nhưng
khi hỏi nhà này xưa nay có ai chết không thì họ đều ngạc
nhiên và trả lời rằng hoặc cha chết, mẹ chết... Cứ dần
dần từ nhà này đến nhà kia đều trả lời giống nhau, làm
tâm bà bừng tỉnh, hiểu rõ luật vô thường có sanh là có
chết. Bà lặng lẽ đem xác con đi chôn rồi trở về bạch
Phật rằng: -Bạch đức Thế Tôn, việc Ngài dạy con đi xin
hạt cải con đã làm xong, xin đức Thế Tôn chứng cho.
Qua câu
nói của bà Kisagotami, chứng tỏ một người từ lòng tin mà
đi đến chỗ chứng ngộ. Nếu như không tin lời Phật dạy
thì chắc bà nói "nếu Phật có cứu thì đưa cho chớ con
có biết đâu mà xin", mà nếu không tin lời Phật thì bà
ấy không bao giờ tự mình giác ngộ đích thật được điều
Phật chỉ cho: Cuộc đời là vô thường có sanh tức có
chết. Thứ nữa, qua câu chuyện cho thấy rằng giáo pháp
Phật, tin rồi là phải thực hành, không thể ngồi đó chờ
Phật mang sự hiểu biết, sự sáng suốt tới cho mình được.
Nếu như bà Kisagotami bảo, Phật có cứu thì Ngài hãy xin
thuốc về cho, còn bà cứ ngồi đó chờ thì chắc chắn bài
học giác ngộ của bà không bao giờ thành tựu được. Nếu
bà cứ ngồi đó và Phật giải thích thì bà cũng chỉ hiểu
sự vô thường một cách lờ mờ không xác thực, không thấm
thía bằng chính bà học bài học đó từ miệng mọi người,
từ sự kiện thực xảy ra. Thành ra, từ chỗ tín đi tới
chỗ giải, chỗ ngộ, hai thứ đó phải song hành, Phật giáo
không gọi bằng tín vì đó luôn luôn đi với trí, nếu tín mà
không có trí thì thành mê tín, tín đó không đi đến chỗ xác
thực. Nhưng phải có tín và tín đó phải đi đôi với trí.
Trong kinh văn Phật bảo: "Tin lời Ta nói không khác".
Chữ "không khác" có hai nghĩa: Một là đức Thích Tôn
nói, lời Ngài đã nói hôm trước và nói hôm nay là như
vậy, tuy trên phương diện ngôn từ có khác, nhưng trên phương
diện ý thức không khác, "vô dị". Thứ nữa, ý
rằng 10 phương chư Phật đồng chứng như nhau, đồng có trí
tuệ như nhau, thì cũng đồng nói pháp như nhau, "Phật
ngữ vô dị".
Nhưng vì
sao Phật cứ nhắc đi nhắc lại là cần phải tin lời Phật
nói không khác? -Bởi vì đức Phật sẽ nói một pháp mà đối
với hàng nhị thừa sẽ kinh ngạc, khó tin, cho nên Phật
phải nhiều lần nhắc đi nhắc lại "Pháp Thế Tôn lâu
về sau cần phải nói chân thật". Sao gọi là lâu về
sau? -Nghĩa là sau bao nhiêu năm thuyết giáo đến những năm
cuối cùng Ngài mới nói pháp chân thật mà chính Ngài muốn nói
từ lâu, cho nên gọi là lâu về sau.
Đoạn
kinh "Những hàng Thanh Văn và những người cầu Duyên Giác
thừa... dẫn dắt chúng sanh ra khỏi mọi chấp trước",
xứ xứ trước tức đắm trước mọi nơi. Chúng sanh ở dâu
thì đắm trước nơi đó, đắm trước về thân, tâm, cảnh
giới, về tập quán, về nghiệp lực của mình. Nếu như đức
Phật không dùng sức phương tiện nói tam thừa để dẫn
dắt thì không làm sao đưa chúng sanh ra khỏi (xứ xứ trước).
Kinh văn:
Lúc bấy giờ, trong đại chúng, có các hàng Thanh Văn lậu
tận A-la-hán như A-nhã Kiều-trần-như... một ngàn hai trăm người
và các vị phát tâm cầu Thanh Văn, cầu Bích Chi Phật, các
vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo Ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, mỗi mỗi đều
nghĩ rằng: Nay đây, vì cớ gì đức Thế Tôn ân cần tán thán
pháp phương tiện mà nói rằng: "Pháp của Phật chứng
ngộ thậm thâm khó hiểu, có nói dạy gì ý thú khó biết,
tất cả hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật không thể biết
kịp?" Phật nói nghĩa Nhất giải thoát thì chúng tôi đây
cũng đã được pháp đó, đạt đến Niết-bàn rồi, mà nay
không biết nghĩa thú về đâu.
Giải thích:
Đây là đoạn đại chúng nghi mà Tôn giả Xá-lợi-phất là
tiêu biểu. Nên nhớ ở phẩm Tựa, Phật chỉ hiện thần thông,
phóng quang, nhập định, đại chúng thấy các điềm lạ mà
sanh nghi. Nghi Phật hiện các thụy tướng đó để làm gì?
Phẩm Tựa Phật chỉ "mật khai tam hiển nhất", nghĩa
là Phật ngấm ngầm khai tam thừa để hiển Nhất thừa nên
đại chúng chưa có sanh nghi như ở phẩm Phương Tiện. Qua
phẩm Phương Tiện mới "hiển khai tam hiển nhất",
nghĩa là, Phật nói trắng ra việc khai Tam thừa hiển nhất
thừa như: "Ta dùng sức phương tiện để khai thị giáo
nghĩa Tam thừa", "Pháp của Ta lâu về sau cần phải nói
chân thật". Khi Phật nói rõ đến lý chân thật, đó là
hiển, vì "hiển khai Tam hiển Nhất" cho nên các vị
A-la-hán và đại chúng mới sanh lòng nghi. Không biết vì sao
trước Phật tán thán cả hai trí (Thật trí và Quyền trí) mà
đến đây Phật chỉ tán thán Quyền trí.
Thứ
nữa, pháp của Phật chứng ngộ được Ngài diễn bày ngôn
thuyết,mà ngôn thuyết đó cũng khó hiểu, khó biết, lời
gần ý xa. Trong chúng tự thấy mình là Thanh Văn, là Bích Chi
Phật mà không biết được. Phật nói Nhất giải thoát, nghĩa
Nhất giải thoát là thế nào? Phật đã từng nói ai tu theo pháp
Tứ đế,Thập nhị nhân duyên sẽ được giải thoát, Hữu dư,
Vô dư Niết-bàn đồng y như nhau, pháp đó gọi là Nhất
giải thoát, thì chính pháp đó nay đây chúng ta dã dược
rồi, bây giờ, Phật lại nói đó chỉ là pháp phương tiện
để đưa về pháp chân thật. Không biết cái nghĩa đó rồi
sẽ đi về đâu, cho nên, trong chúng sanh lòng nghi. Nghi đây là
vì do Phật nói rõ ý "khai tam hiển nhất" vậy.
Tóm
lại, ý thú Phật nói ra khiến hàng đệ tử khó biết mà
sanh nghi có ba lý do:
- Trước
Phật tán thán cả hai trí, nay tại sao Phật lại chỉ tán thán
có Quyền trí thôi, đó là điêù khó hiểu thứ nhất.
- Tại
sao trước đức Phật không nói Tam thưà là phương tiện mà
bây giờ Ngài lại nói Tam thừa là phương tiện, ý đó cũng
khó hiểu.
- Còn chân
thật nào nữa mà Phật nói "lâu về sau sẽ nói ý chân
thật, thế thì từ trước tới nay Phật chưa nói lý chân
thật sao? Và những giáo lý Phật nói đều không chân thật
sao? Đó là những điều hàng đệ tử không hiểu cho nên sanh
lòng nghi.
Kinh văn:
Lúc bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất biết tâm của tứ chúng
nghi hoặc, và tự mình cũng chưa rõ nên mới bạch Phật
rằng: "Bạch đức Thế Tôn, vì nhân duyên gì Ngài lại
ân cần tán thán đệ nhất phương tiện của Phật là pháp
thậm thâm vi diệu nan giải. Thật, con từ xưa đến nay chưa
từng nghe Phật nói như vậy. Nay đây, cả bốn chúng đều có
chỗ nghi, trông mong đức Thế Tôn, hãy phô diển việc này.
Đức Thế Tôn vì cớ gì lại ân cần tán thán pháp thậm thâm
vi diệu khó hiểu?
Giải thích:
Thậm thâm vi diệu khó hiểu tức là nói về Quyền trí hay Phương
tiện trí. Vì Phật nói rõ như vậy nên chúng sanh nghi. Trước
là nói ba việc chúng không hiểu, giờ nói về việc nghi của
chúng có ba:
Nghi giáo:
Trước kia Phật nói Tam thừa, tu theo thừa nào thì chứng
quả thừa đó, Phật không nói Đại thừa. Tiểu thừa hay pháp
này cao, pháp kia thấp gì hết, cũng không nói pháp này thật,
pháp kia quyền. Thế mà ngày hôm nay Phật nói Tam thừa là: phương
tiện, Nhất thừa mới là chân thật. Vậy thì lời dạy trước
kia đúng hay lời dạy hôm nay đúng? Và biết đâu ngày mai Ngài
sẽ nói Nhất thừa là phương tiện còn có pháp khác mới là
chân thật?
Nghi nhơn:
Nghi chính đức Phật, một vị nói trước sau bất nhất như
vậy có phải Phật hay không, hay là ma?
Nghi mình:
Trước kia nghĩ rằng, mình đã chứng quả A-la-hán. Như Tôn
giả Xá-lợi-phất đã từng được Phật ngợi khen là bậc
trí tuệ đệ nhất, thế mà giờ đây đối với lời Phật
dạy không hiểu gì hết nên nghi mình có phải là trí chưa, mình
có thật chứng La-hán không? Và tại sao Ngài lại ân cần tán
thán đệ nhất phương tiện của chư Phật?
Chữ
"đệ nhất phương tiện" có hai nghĩa:
- Diệu
dụng phương tiện thuyết pháp này chỉ có đức Phật mới
đủ sức dụng để thuyết pháp cho chúng sanh.
- Phật
phương tiện nói Tam thừa để đưa đến nhất thừa, như
vậy, Tam thừa là phương tiện của nhất thừa.
Kinh văn:
Lúc bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất muốn lặp lại nghĩa này
mà nói bài kệ rằng:
Đấng
Huệ nhất đại Thánh Tôn, lâu xa mới nói pháp, tự nói
rằng mình được thập lực như vậy, Tứ vô sở úy, Thiền
định tam-muội, giải thoát như vậy là những pháp bất tư
nghì. Pháp đã chứng được nơi đạo tràng không ai phát ra
lời hỏi được, ý của Ta (Phật) cũng khó trắc lường, không
ai hỏi được. Không hỏi mà tự nói, xưng tán đạo tu hành,
là trí tuệ rất vi diệu của chư Phật chứng đắc. Các vị
lậu tận A-la-hán, những người cầu Niết-bàn, nay đều bị
rơi vào trong lưới nghi. Cớ gì Phật nói như thế? Những người
cầu Duyên giác, hay hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, các trời,
rồng, quỉ thần và Càn-thác-bà... nhìn nhau lòng do dự nghi
nan, chiêm ngưỡng đấng Lưỡng túc tôn, muốn biết việc đó
là thế nào? Mong đức Thế Tôn nói cho.
Đối
với chúng Thanh Văn, Phật nói con (Xá-lợi-phất) là đệ
nhất. Thế mà con nay, đối với trí tuệ của mình, nghi
hoặc không sao rõ được. Đó là pháp cứu cánh hay là đạo
tu hành.
Hàng
Phật tử từ miệng Phật sanh ra, chấp tay chiêm ngưỡng chờ
mong Ngài buông lời vi diệu, đã đúng thời nên vì nói như
thật.
Các hàng
trời, rồng, quỉ thần số như hằng sa. Các vị Bồ-tát
cầu Phật quả, số lớn cũng có tám vạn và Chuyển luân Thánh
vương từ muôn ức cõi nước, đều đến đây chấp tay cung
kính muốn nghe Ngài nói Đạo chân thật đầy đủ.
Giải thích:
Huệ nhật đại Thánh Tôn là chỉ cho đức Phật, đấng đại
Thánh tôn có trí tuệ như mặt trời. Dùng chữ Huệ nhật có
ý rằng trí tuệ như mặt trời ấy phá được vô minh, giờ
đây trí tuệ này hiển nhất chân lý nên gọi là Huệ nhật.
Đoạn này
ý nói rằng Tôn giả Xá-lợi-phất nghĩ trí tuệ của mình thường
được Phật tán thán là đệ nhất, nhưng kỳ thật chưa
nhất gì hết. Bởi vì không hiểu được lời Phật dạy hôm
nay là pháp cứu cánh hay là đạo tu hạnh?
"Cứu
cánh pháp" tức chỉ cho Niết-bàn hay Diệt đế; "Sở
hành đạo" tức chỉ Đạo đế.
"Phật
tử"; từ miệng Phật sanh ra, từ Pháp Phật được hóa
sanh gọi là Phật tử. Nhờ nghe lời Phật dạy, từ kim khẩu
Phật mà phát tâm tu hành trở thành đứa con tinh thần của
Phật nên gọi là Phật tử.
Đoạn
kinh trên là lời của Tôn giả Xá-lợi-phất ân cần cầu xin
Phật thuyết pháp, cầu xin Phật giải nghi cho mình và đại
chúng.
Kinh văn:
Lúc bấy giờ, Phật bảo Xá-lợi-phất, thôi thôi không nên nói
nữa. Nếu nói việc này thì tất cả thế gian, trời, người
đều kinh hãi nghi ngờ.
Xá-lợi-phất
lại bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn, trông mong nói
cho! Trông mong nói cho! Bởi vì sao? Bởi vì nơi hội này vô
số trăm ngàn vạn ức A-tăng-kỳ chúng sanh, là những người
từng thấy các đức Phật, các căn lanh lợi, trí tuệ minh
liễu, nghe lời Phật nói tức sẽ kính tin.
Lúc
bấy giờ, Xá-lợi-phất muốn lập lại nghĩa này mà nói bài
kệ rằng:
Đấng
Pháp vương vô thượng, trông mong Ngài nói, chớ có lo nghĩ, vô
lượng chúng hội này, có người nghe được liền sanh tâm kính
tin.
Phật
lại bảo, thôi Xá-lợi-phất. Nếu nói việc này tất cả
thế gian, trời, người, A-tu-la đều sẽ kinh hãi nghi ngờ, hàng
tăng thượng mạn Tỳ-kheo sẽ rơi vào hầm lớn. Lúc bấy
giờ, đức Thế Tôn muốn lập lại nghĩa này mà nói bài kệ
rằng:
"Thôi
thôi không nên nói, pháp Ta rất nhiệm mầu, khó nghĩ, các hàng
tăng thượng mạn nghe chắc không kính tin.
Lúc
bấy giờ, Xá-lợi-phất lại bạch Phật rằng: Bạch đức
Thế Tôn, trông mong nói cho, trông mong nói cho! Nay ở trong chúng
hội này, những hàng so sánh như chúng con có tới trăm ngàn
vạn ức, đời đời đã từng theo Phật chịu sự giáo hóa,
những người kính tín, trường dạ an ổn được nhiều lợi
ích. Lúc bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất muốn lập lại nghĩa
này mà nói bài kệ rằng:
Đấng vô
thượng lưỡng túc tôn, trông mong nói pháp đệ nhất, con là
trưởng tử của Phật, mong dủ lòng từ phân biệt nói cho.
Hội này vô lượng chúng, hay kính tin pháp đó. Phật đã
từng đời đời giáo hóa chúng hội như vậy. Những người
đó đều nhất tâm chắp tay, mong nghe và lãnh thọ lời Phật
dạy. Chúng tôi một ngàn hai trăm và các người cầu Phật
quả trông mong Ngài vì chúng này mà dủ lòng từ phân biệt nói
cho. Những người như vậy nghe pháp này thì sanh tâm đại
hoan hỶ.
Giải thích:
Trong phần đầu của phẩm Phương Tiện, Phật có ba lần
bảo "thôi" và ba lần Tôn giả Xá-lợi-phất thỉnh
Phật nói pháp.
Lần đầu
tiên, Phật đang tán thán thật trí và quyền trí nửa chừng
Ngài bảo "thôi". Thôi lần đầu tiên có ý rằng pháp
Phật chứng ngộ thâm diệu cao quá nói ra không được, không
thể dùng ngôn ngữ văn tự để diễn tả phân biệt mà
hiểu được, cần phải thân chứng, ly ngôn tự chứng, cho nên
Phật bảo thôi. Nhưng sau lần Phật bảo thôi đó, giờ đây,
Phật lại bảo "Ta đã dùng sức phương tiện mà nói tam
thừa". Phật gợi lên sự nghi ngờ rất lớn cho Xá-lợi-phất
và đại chúng, cho nên, Tôn giả Xá-lợi-phất lại ân cần
thỉnh Phật nói pháp. Thế là một lần Phật bảo "thôi"
và một lần Xá-lợi-phất cầu Phật nói pháp. Khi Xá-lợi-phất
cầu thỉnh Phật nói pháp, đức Phật lại bảo "thôi",
"thôi" không nên nói, nếu nói việc này thì tất cả
thế gian trời người kinh nghi. Đây là lần "thôi"
thứ hai, lần này không phải vì pháp sâu xa mà bảo "thôi",
nhưng vì căn cơ của hàng trời người thấp kém, sợ nghe pháp
này sẽ sanh lòng kinh ngạc nghi nan cho nên Phật bảo "thôi".
Phật bảo "thôi", Xá-lợi-phất lại một lần cầu
thỉnh Phật nói pháp, ngài nêu lý do rằng những người trong
hội chúng đều là những người đã từng thấy Phật, có căn
tánh lanh lợi, có trí tuệ, có thể nghe được và có thể kính
tin lời Phật dạy. Khi Tôn giả Xá-lợi-phất cầu thỉnh
Phật nói pháp lần thứ hai này thì Phật lại bảo "thôi,
Xá-lợi-phất, nếu nói việc này, tất cả thế gian, Trời,
Người, A-tu-la đều sẽ kinh nghi, hàng tăng thượng mạn
Tỳ-kheo sẽ rơi vào hầm lớn". Đây là lần thứ ba
Phật bảo "thôi". Lần này là vì không những hàng nhơn
thiên kinh nghi, không kính tin mà chính ngay hàng A-la-hán cũng
kinh nghi không kính tin nổi, hàng Tỳ-kheo tăng thượng mạn
sẽ khinh chê phỉ báng, do đó, bị đọa địa ngục cho nên
Phật bảo "thôi" không nói.
Đức
Phật đã ba lần bảo "thôi" không chịu nói, nhưng Tôn
giả Xá-lợi-phất lại lần thứ ba nữa nêu lý do rằng
những người trong chúng hội này chẳng những nghe được
lời Phật nói sanh lòng kính tin, mà cũng chính nhờ nghe lời
Phật mà họ có được nhiều sự lợi ích an ổn, để
thỉnh Phật nói cho.
Đó là
nguyên nhân của ba lần Phật bảo "thôi" không nói và
ba lần Phật lẫn Xá-lợi-phất cầu Phật nói. Và ba lần
"thôi" ấy còn có ý rằng pháp Phật thậm thâm,
Phật muốn chúng hội tập trung tư tưởng, chú ý vào và
tập trung lòng mong cầu ham muốn nghe pháp. Cũng để chứng
tỏ rằng pháp tâm viễn này không thể nói phi thời mà phải
nói đúng lúc, đúng thời. Thứ nữa là cũng để chờ những
người trong hội không đủ sức nghe, những kẻ tăng thượng
mạn đều lui ra. Bởi vì không nghe được mà ngồi đó thì
sanh lòng phỉ báng sẽ bị đọa lạc, cho nên ba lần nói
"thôi" đó cũng là một cách chờ cho hội chúng
thuần nhất rồi sẽ nói.
Vì sao hàng
A-la-hán mà còn kinh nghi? Vì bởi xưa nay nghĩ rằng mình là
A-la-hán đã chứng Niết-bàn rồi, giờ đây Phật lại bảo
đó mới là phương tiện, thì ra trước đây mình chưa chứng
Niết-bàn gì hết! Đó là vì thấy mình có sự tổn hại nên
kinh nghi. Một điểm nữa là trước đây Phật nói pháp tam
thừa, tu hành có giới hạn, bây giờ Phật lại nói về
Bồ-tát hạnh, thôi thì mênh mông vô cùng. Lục độ vạn
hạnh, hạnh nào cũng là Bồ-tát hạnh, hạnh nào cũng là
hạnh độ sanh, không biết hạnh nào mà lường. Mà những
hạnh ấy không phải tu một hai ngày hay một vài năm mà là vô
lượng kiếp, thời gian lâu xa làm sao ai theo nổi? Trước
Phật dạy tu theo Thanh Văn thừa, chứng Sơ quả Dự lưu thì
chỉ pcòn bảy lần sanh lại Dục giới, đến Nhất lai chỉ còn
một lần sanh lại Dục giới rồi chứng A-la-hán. Bất lai là
không còn sanh Dục giới nữa mà ở trên Tứ Thiền, Ngũ
tịnh cư thiên chứng A-la-hán thì không còn sanh tam giới
nữa, phá sạch phiền não, thoát ly sanh tử, có giới hạn rõ
ràng, còn Bồ-tát thì mênh mông trãi ba A-tăng-kỳ kiếp..., nên
sanh kinh nghi. Đó là đa sự kinh nghi.
Hàng phàm
phu mang ngã chấp nặng nề, tội chướng sâu dày, nghe Phật nói
sanh ra phiền não điên đảo, gọi là điên đảo kinh nghi.
Hàng trí
tuệ như Tôn giả Xá-lợi-phất nghe Phật nói pháp mà không
hiểu, sanh lòng ân hận, thà trước kia mình đừng nghe đừng
tu để đợi đến ngày hôm nay nghe rồi tu luôn khỏi hoài công
vô ích, gọi là hối kinh nghi.
Khi nghe
Phật nói thì sanh nghi ngờ, không biết Ngài nói như thế là
thật hay là có sự luống dối, vì khi Phật nói thế này, lúc
Ngài nói thế kia, đó là cuống kinh nghi.
Tóm
lại, đây là đoạn mở đầu cho phần "Khai tam hiển
nhất" ở sau. Sau ba lần cầu thỉnh, bấy giờ, Phật
hứa nói.
Kinh văn:
Lúc bầy giờ đức Thế Tôn bảo Xá-lợi-phất rằng: "Ông
đã ân cần ba phen thưa thỉnh há không nói được sao! Ông hãy
nghe cho kỸ, khéo suy nghĩ và nhớ mãi, Ta sẽ vì ông phân
biệt giải nói.
Giải thích:
Đức Phật hứa nói, nhưng khi nào Phật sắp nói pháp đều
bảo "đế thính, thiện tư, niệm chi". Nhiều kinh đều
có lời nhắc nhở này, trong lời nhắc nhở ấy có ý là khi
nghe giáo pháp Phật là phải dùng Văn huệ. Tư huệ và Tu
huệ chớ không phải nghe suông mà có thể hiểu được.
"Đế
thính" thuộc về Văn huệ. Nghe một cách kỸ lưỡng, rõ
ràng, ưa thích, có trí tuệ hiểu được trong khi nghe, đó là
Văn huệ.
"Thiện
tư" thuộc về Tư huệ. Nghe rồi phải suy nghĩ chín
chắn.
"Niệm
chi" thuộc về Tu huệ. Suy nghĩ rồi phải ghi nhớ mãi và
phải thực hành, trì niệm.
Kinh văn:
Khi Phật nói lời đó thì trong hội chúng có các Tỳ-kheo,
Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di năm ngàn người cả thảy,
từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ chân Phật mà lui ra. Vì
cớ sao? -Vì hạng này tội căn thâm trọng và tánh tăng thượng
mạn, chưa được cho là được, chưa chứng cho đã chứng, có
sự tội lỗi như thế nên họ không ở lại. Đức Thế Tôn
im lặng không ngăn chận.
Bấy
giờ, Phật bảo Tôn giả Xá-lợi-phất, nay đây trong chúng
hội này của Ta không còn cành lá nữa mà thuần là hạt
chắc thôi. Xá-lợi-phất, những kẻ tăng thượng mạn như
vậy lui đi cũng tốt, ông nay hãy khéo nghe, Ta sẽ vì ông mà
nói.
Xá-lợi-phất
bạch Phật rằng, thưa vâng, kính bạch Thế Tôn, con nguyện
muốn nghe.
Giải thích:
Khi Phật hứa nói thì trong hội chúng có năm ngàn người
gồm Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di đứng dậy
lễ Phật lui ra.
Trước
khi Phật chưa nói thì họ còn ngồi, đến khi Phật hứa nói
thì họ lui ra. Vì sao?
Vì:
1. Tội
căn thâm trọng, bởi những người này còn nặng về các
phiền não chướng, báo chướng, nghiệp chướng nên không
mong nghe pháp cao xa.
2. Vì tâm
tăng thượng mạn nên không muốn nghe. Thế nào là tăng thượng
mạn? -Chưa được nói là được, chưa chứng nói đã chứng
hay mới được một chút ít mà cho là đủ rồi (đắc thiểu
vi túc) nên không cần thêm nữa. Tăng thượng mạn là một
trong bảy món mạn. Bảy món mạn đó là:
- Mạn:
Ỷ mình hơn người rồi nói mình hơn người, mình bằng người
rồi nói mình bằng người. "Tôi hơn anh chứ, tôi bằng
anh chứ!" Chính từ câu nói đó đã chứa "Mạn"
trong ấy. Họ thua mình thật và mình hơn họ thật, nhưng hơn
thua đó tự nhiên không nói không nghĩ đến thì thôi, nhưng
khi nói ra hoặc đem lòng so sánh phân biệt tranh đua thì gọi
là "Mạn".
- Quá
mạn: Mình thua người mà cho mình bằng người, mình bằng người
mà cho mình hơn người, lúc nào cũng đưa mình làm hơn người
một bậc.
- Mạn
quá mạn: Hạng này quá hơn nữa, thua người mà nói mình hơn,
tự nâng mình lên hơn người đến hai bậc, nên gọi mạn quá
mạn.
-Tăng thượng
mạn: "Đắc thiểu vi túc" mới được một ít cho là
đủ, mới tu sơ sơ, mới học một vài kinh cho là vừa rồi
tu chi nhiều, học vậy là đủ rồi, hoặc chưa chứng Thánh
quả mà cho là đã chứng. Người đã sa vào tăng thượng
mạn là không tự biết được, vì tập quán lâu ngày che
lấp tâm trí, khi nào cũng tự thấy mình hơn cả.
-Tà
mạn: Các hàng ngoại đạo chấp những đạo lý sai quấy
rồi tự phụ những ý kiến lý lẽ ấy, cho rằng hơn cả.
Hoặc chấp tà nhơn, tà quả rồi tự thị nơi tà nhơn tà
quả đó.
-Ti
liệt mạn: Thua người đến một trăm phần mà nói thua ít ít
thôi. Cũng chịu thua, nhưng thua chút chút, hoặc thủ phận mình
thua, nhưng không chịu phục người hơn.
-Ngã
mạn: Tự chấp lấy ngã và ngã sở của mình, khi chấp trước
như thế thì bao giờ cũng thấy cái ngã của mình quí hơn cái
ngã của người khác. Nói ra hay mặc nhiên trong tâm tư vẫn
thấy bản ngã của mình hơn bản ngã của người khác. Dù có
tàn tật, nghèo khó đi nữa cũng vẫn thấy bản ngã của mình
quí hơn. Ngã mạn này là căn bản của chúng sanh. Các
"mạn" kia, hoặc có cái này, hoặc có cái kia, nhưng
ngã mạn thì ai cũng có.
Biết rõ
tánh chất của bảy thứ mạn để chúng ta nghiệm lại tâm lý
của mình và mọi người, tâm trạng ấy mỗi lúc thuộc về
loại mạn nào để cách trừ diệt.
Khi năm
ngàn người tăng thượng mạn bỏ đi ra, đức Phật nói:
"Hàng tăng thượng mạn như vậy lui ra cũng tốt".
Phật nói lui đi cũng tốt, in tuồng như Phật chẳng từ bi gì
hết. Những đệ tử theo Phật nghe pháp xưa nay, giờ đây,
họ bỏ ra đi mà Phật cũng không hề ngăn, cũng không khuyên,
có những người ở đâu đâu mà Phật còn tìm đến để độ,
còn những người ngồi trước mặt mà Ngài lại không độ,
để họ đi ra lại nói: "Đi vậy cũng tốt". Nói có
vẽ phũ phàng hất hủi!
Không, vì
đức Phật biết rằng nếu những người tăng thượng mạn còn
ngồi lại họ sẽ làm mất hạt giống Phật, bởi ngồi nghe
mà sanh tâm phỉ báng, mất lòng tin sẽ bị đọa lạc, thà để
họ lui ra còn hơn. Thứ nữa, nghe với tâm không mong mỏi
lại phỉ báng thì sẽ phiền cho những người chung quanh, gây
cái xấu cho người chung quanh, người chung quanh không được
nghe một cách thuần nhất chân thành, nên Phật bảo lui đi cũng
tốt là vậy.
Kinh văn
: Phật bảo Xá-lợi-phất, diệu pháp như vậy, các đức
Phật Như Lai đúng thời mới nói, như hoa Ưu-đàm-bát đúng
thời mới hiện một lần. Xá-lợi-phất: các ông hãy tin điều
Như Lai nói là không luống dối.
Giải thích:
"Thời nãi thuyết chi" -đúng thời mới nói -diệu pháp
của Phật nói ra phải hợp thời, không phải lúc nào cũng nói
được, ví như hoa Ưu-đàm đúng thời mới nở.
Đoạn
kinh trên đây là đức Phật tán thán diệu pháp.
Từ đây
đến cuối phẩm thường bao gồm sáu ý này trong các đoạn văn:
1. Tán
thán pháp.
2. Đức
Phật thường nhắc đi nhắc lại là lời Phật không hư
vọng.
3. Đức
Phật phương tiện mở tam thừa.
4. Phật
chỉ thị đạo lý nhất thừa chân thật.
5. Vì
gặp đời ngũ trược nên Phật phải phương tiện khai tam
thừa.
6. Phật
phân biệt hạng người đủ sức tin Phật Pháp và hạng không
tin Phật Pháp để khuyến khích người có đủ sức tin cố
gắng tin giáo pháp Phật.
--- o0o ---
Mục
lục Kinh Pháp Hoa | 1 |
2 | 3a |
3b | 4a | 4b
| 4c | 5a
| 5b | 5c
|
6a | 6b | 7a
| 7b | 8a
| 8b | 8c
| 8d |
---o0o---
|
Thư Mục Tác Giả
|