---o0o---
Cuốn 12
Hỏi:
Thế nào là Ðàn
Ba-la-mật được viên mãn?
Ðáp:
Nghĩa
chữ Ðàn như trên đã nói. Ba-la-mật (Tàu dịch là Ðáo bỉ
ngạn - Ðến bờ bên kia). Ấy gọi là vượt qua sông bố thí
được đến bờ kia.
Hỏi:
Thế nào gọi là
không đến bờ kia?
Ðáp:
Ví
như vượt qua sông chư a đến bờ mà trở lui, gọi là không đến bờ
kia. Như khi ngài Xá-lợi-phất, trong sáu mươi kiếp hành đạo
Bồ-tát, muốn vượt qua sông bố thí, bấy giờ có kẻ ăn xin đến
xin con mắt. Xá-lợi-phất nói: "Con mắt không dùng được chi,
xin nó làm gì? Nếu cần thân tôi và tài vật, thời tôi sẽ đem
cho!" Người kia đáp: "Không cần thân ông và tài vật, chỉ
muốn được con mắt thôi. Nếu ông thực hành bố thí, hãy lấy con
mắt cho tôi". Bấy giờ, Xá-lợi-phất móc một con mắt cho, người
ăn xin được mắt, liền ở trước mặt Xá-lợi-phất, ngửi rồi chê
thúi, nhổ nước miếng mà quăng xuống đất; lại lấy chân chà
đạp. Xá-lợi-phất suy nghĩ rằng: "Hạng người tệ như vậy, khó
có thể độ được. Con mắt thật vô dụng, mà cố xin cho được,
được rồi quăng đi, lại lấy chân chà đạp, sao tệ lắm thế. Hạng
người như vậy, không thể độ được; chẳng bằng tự điều phục, sớm
thoát vòng sanh tử". Suy nghĩ thế xong, thối đạo Bồ-tát mà
xoay hướng Tiểu thừa; ấy gọi là không đến bờ kia. Nếu có thể
thẳng tiến không lùi, thành tựu Phật đạo; ấy gọi là đến bờ
kia.
Lại nữa, làm công
việc được thành tựu cũng gọi là đến bờ kia.
Lại nữa, bờ này là
xan tham, bố thí là giữa sông, bờ kia là Phật đạo.
Lại nữa, chấp có
chấp không là bờ này; trí tuệ phá chấp có chấp không là bờ
kia, siêng tu bố thí gọi là giữa sông.
Lại nữa, bố thí có
hai: 1- Ma bố thí, 2- Phật bố thí. Nếu bị giặc kiết sử cướp
đoạt, lo buồn sợ hãi (màbố thí); ấy gọi là Ma bố thí, gọi là ở
bờ này. Nếu có tâm thanh tịnh bố thí, không bị giặc kiết sử,
không sợ hãi, đến được Phật đạo; ấy là Phật bố thí, gọi là đến
bờ kia, ấy là Ba-la-mật. Như Phật nói trong kinh Ðộc xà dụ
rằng: "Có người mắc tội với vua, vua sai giữ một cái hòm có
bốn con rắn độc, vua bảo người tội chăm sóc nuôi nấng. Người
ấy suy nghĩ: "Bốn con rắn ấy khó gần, gần thời bị hại, một
con còn không nuôi được, huống là bốn con?" Liền quăng hòm mà
chạy, vua sai năm người cầm đao rượt theo. Lại gặp một người,
miệng thì nói thuận theo mà trong lòng muốn người kia bị
thương, nên nói với người ấy rằng: "Biết nuôi Rắn đúng cách,
ấy cũng không khó". Nhưng người kia biết rõ, vẫn rong chạy
thục mạng, đến một xóm trống vắng, gặp một người lành, mới nói
rằng: "Xóm này tuy trống vắng, nhưng là chỗ giặc ở, nay ngươi
ở đây chắc chắn bị giặc hại, chớ có ở". Lại chạy nữa, đến một
con sông lớn, bờ bên kia là một nước khác, nước đó an vui,
thản nhiên thanh tịnh, không có hoạn nạn. Bấy giờ, gom các cỏ
cây, buộc lại làm chiếc bè, lấy tay chân bơi tới, hết sức mong
vượt qua, khi đã đến được bờ, an vui không còn hoạn nạn.
Vua là ví cho Ma
vương, cái hòm là thân người, bốn con rắn độc là bốn đại, năm
kẻ giặc cầm đao là năm ấm, một người miệng lành tâm ác là sự
nhiễm trước. Xóm trống vắng là sáu căn, giặc là sáu trần, một
người thương xót nói cho là vị thầy lành, con sông lớn là ái,
chiếc bè là tám Thánh đạo, tay chân siêng bơi qua là tinh
tấn. Bờ này là thế gian, bờ kia là Niết-bàn. Vượt qua là
A-la-hán sạch hết lậu hoặc. Trong pháp của Bồ-tát cũng như
vậy. Nếu bố thí còn có ba thứ chướng ngại là chấp có ta cho,
kia nhận và tài vật bố thí, thì ấy là rơi vào cảnh giới Ma,
chưa lìa khỏi các nạn. Còn như Bồ-tát bố thí, ba thứ đều
thanh tịnh không chướng ngại, thì được chư Phật khen ngợi; ấy
là đến bờ kia. Sáu Ba-la-mật này có thể làm cho người ta qua
khỏi biển lớn phiền não nhiễm trước và xan tham v.v... đến nơi
bờ kia. Thế cho nên gọi là Ba-la-mật.
Hỏi:
A-la-hán,
Bích-chi Phật cũng có thể đến bờ kia; tại sao không gọi là
Ba-la-mật?
Ðáp:
A-la-hán, Bích-chi
Phật qua đến bờ kia, cùng với Phật qua đến bờ kia, danh đồng
mà thật thì khác. A-la-hán, Bích-chi Phật cho sanh tử là bờ
này, Niết-bàn là bờ kia, nên không thể vượt qua đến bờ kia của
bố thí, vì cớ sao? Vì không thể dùng hết thảy vật, hết thảy
thời, hết thảy thứ bố thí. Dầu có thể bố thí cũng không có
tâm lớn, hoặc đem tâm vô ký, tâm hữu lậu thiện; hoặc là tâm vô
lậu bố thí mà không có tâm đại bi, không thể vì hết thảy chúng
sanh mà bố thí. Còn Bồ-tát bố thí thì biết bố thí là bất sanh
bất diệt, vô lậu vô vi, như tướng Niết-bàn, vì hết thảy chúng
sanh mà bố thí, ấy gọi là Ðàn Ba-la-mật.
Lại nữa,
có người nói: "Hết thảy vật, hết thảy vật trong ngoài thân
đều đem bố thí, mà không cầu quả báo. Bố thí như vậy, gọi là
Ðàn Ba-la-mật.
Lại nữa,
không thể cùng tận, nên gọi là Ðàn Ba-la-mật, vì cớ sao? Vì
biết vật bố thí là rốt ráo không, như tướng Niết-bàn. Dùng
tâm ấy mà bố thí cho chúng sanh, thế nên quả báo không thể
cùng tận; gọi là Ðàn Ba-la-mật. Như ngũ thông tiên nhân, đem
bảo vật tốt chứa để trong đá, muốn giữ gìn bảo vật ấy, mài kim
cương mà bôi lên trên, để không bị phá. Bồ-tát bố thí cũng
như vậy. Mài trí tuệ về Niết-bàn thật tứơng mà bôi lên bố
thí, làm cho không thể cùng tận.
Lại nữa,
Bồ-tát vì hết thảy chúng sanh nên bố thí, số chúng sanh không
thể cùng tận nên bố thí cũng không thể cùng tận.
Lại nữa,
Bồ-tát vì Phật pháp mà bố thí. Phật pháp vô lượng vô biên
nên bố thí cũng vô lượng vô biên. Do vậy, A-la-hán và
Bích-chi Phật, tuy đồng đến bờ kia; mà không gọi là Ba-la-mật.
Hỏi:
Thế nào gọi là
đầy đủ viên mãn?
Ðáp:
Như
trước đã nói, Bồ-tát bố thí tất cả vật, trong, ngoài, lớn nhỏ,
nhiều ít, thô tế; ưa đắm, không ưa đắm; dùng không dùng. Ðủ
các thứ như vậy, tất cả có thể xả thí, tâm không lẩn tiếc,
bình đẳng cho tất cả chúng sanh. Không khởi lên quan niệm
người lớn nên cho, người nhỏ không nên cho; người xuất gia nên
cho, người không xuất gia không nên cho. Người nên cho, cầm
thú không nên cho. Ðối với tất cả chúng sanh, tâm bình đẳng
bố thí, bố thí không cầu quả báo, lại rõ thật tướng của bố
thí, ấy gọi là đầy đủ viên mãn.
Cũng không kể
thời, không ngày, không đêm, không đông, không hạ, không tốt,
không xấu, tất cả thời thường bình đẳng bố thí, tâm không lẩn
tiếc, cho đến đầu mắt tủy não, bố thí mà không lẩn, ấy gọi là
đầy đủ viên mãn.
Lại nữa,
có người nói: "Bồ-tát từ khi phát tâm cho đến khi đủ ba mươi
bốn tâm ở tại cội Bồ-đề. Ở vào khoảng trung gian ấy, gọi là
đầy đủ viên mãn.
Lại nữa,
Thất trụ Bồ-tát được trí tuệ về thật tướng hết thảy các pháp,
bấy giờ trang nghiêm Phật độ, giáo hoá chúng sanh, cúng dường
chư Phật, được đại thần thông, có thể phân một thân làm vô số
thân, mỗi mỗi thân đều mưa xuống bảy báu, hoa hương, phan
lọng, hóa làm đèn lớn như núi Tu-di, cúng dường mười phương
chư Phật và Bồ-tát Tăng. Lại dùng diệu âm tán tụng đức của
Phật, lễ bái, cúng dường, cung kính nghinh tiếp.
Lại nữa,
Bồ-tát ấy đối với trong hết thảy mười phương vô lượng cõi ngạ
quỷ, mưa xuống các thứ ẩm thực, y phục, khiến cho đầy đủ.
Ðược đầy đủ rồi, đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Lại
đi đến trong đường súc sanh, khiến nó tự cải thiện, không còn
có ý hại nhau, trừ sự sợ hãi, theo chỗ nó cần thiết, đều làm
cho đầy đủ. Ðược đầy đủ rồi, đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng
Bồ-đề. Ðối với trong địa ngục vô lượng khổ, có thể làm cho
lửa địa ngục tiêu diệt, nước sôi hóa lạnh, tội dứt, tâm lành,
trừ hết đói khát. Ðược sanh vào cõi trời cõi người, nhờ nhân
duyên ấy, đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Nếu là người ở
mười phương, ai nghèo cùng thì cấp cho tài vật, ai giàu sang
thì cho hương vị lạ, màu sắc lạ, làm cho hoan hỷ. Nhờ nhân
duyên ấy, đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Nếu đến trong cõi
trời Dục giới, thì khuyên họ trừ bỏ dục lạc cõi trời, thí cho
pháp lạc diệu bảo, khiến được hoan hỷ. Nhờ nhân duyên ấy, đều
phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Nếu đi đến trong
cõi trời Sắc, thì trừ sự vui đắm của họ, lấy thiền pháp của
Bồ-tát làm cho vui thích. Nhờ nhân duyên ấy, đều phát tâm Vô
thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Như vậy cho đến
Thập trú Bồ-đề, ấy gọi là Ðàn Ba-la-mật đầy đủ viên mãn.
Lại nữa,
Bồ-tát có hai loại thân: Một là kết nghiệp sanh thân, hai là
pháp thân. Với hai loại thân ấy, Ðàn Ba-la-mật được viên mãn;
, ấy gọi là đầy đủ Ðàn Ba-la-mật.
Hỏi:
Sao gọi là kết
nghiệp sanh thân Ðàn Ba-la-mật viên mãn?
Ðáp:
Khi
chưa được pháp thân, kiết sử chưa hết, có thể lấy hết thảy bảo
vật, đầu, mắt, tủy, não, quốc thành, vợ con, tài vật, trong
ngoài đã có được, đều đem bố thí, tâm không động chuyển. Như
Thái tử Tu-đề-lê-noa (Sudana - Tàu dịch là Thiện Thí, Hảo Ái),
đem hai đứa con bố thí cho người
Bà-la-môn, tiếp lại
bố thí vợ, mà tâm không lay chuyển.
Lại như vua Tát-bà-đạt (Tàu
dịch làNhất-thiết-thí) bị nước địch tiêu diệt, trốn thân chốn
rừng sâu. Thấy có người Bà-la-môn
từ xa đi đến, muốn theo mình để xin, tự cho là mình bị quốc
phá gia vong, một thân trốn tránh, nhưng thương kia tân khổ,
phải từ xa đi đến mà không xin được gì, mới nói với
Bà-la-môn rằng: "Tôi là vua Tát-bà-đạt, vua mới đang mộ người
tìm tôi bắt rất gắt". Liền tự trói thân thí cho người
Bà-la-môn mang đến vua mới, để nhận được tài vật lớn.
Cũng như Nguyệt Quang Thái tử
(Candra-prabha) ra ngoài đi dạo, một người hủi trông thấy đến
đón xe thưa rằng: "Thân tôi trọng bệnh, tân khổ áo não, Thái
tử dạo chơi, vui riêng một mình chăng? Ðại từ thương tưởng,
xin cứu chữa cho?" Thái tử nghe nói, đem hỏi các thầy thuốc.
Thầy thuốc nói: "Phải cần đến huyết và tủy của người nào từ
khi sanh đến trưởng thành mà không có sân giận, dùng bôi và
uống, như vậy có thể lành". Thái tử nghĩ rằng: "Dẫu có người
ấy, cũng tham sanh tiếc sống, làm sao được ư? Trừ thân ta ra
không chỗ nào tìm được". Liền gọi kẻ Chiên-đà-la bảo trừ thân
thịt, chẻ xương lấy tủy đem bôi cho người bệnh, còn huyết thì
lấy cho uống.
Như vậy đủ các thứ bố thí thân,
vợ con mà không lẩn tiếc, như vứt bỏ cỏ cây. Quán sát vật bố
thí biết từ nhân duyên mà có, suy tìm sự thật của nó, hoàn
toàn vô sở đắc, hết thảy thanh tịnh như tướng Niết-bàn, ấy là
từ nơi thân do kiết nghiệp sanh, thực hành
Ðàn Ba-la-mật viên mãn.
Thế nào là pháp thân Bồ-tát thực
hành Ðàn Ba-la-mật viên mãn? Nhục
thân cuối cùng của Bồ-tát chứng được
Vô sanh Pháp nhẫn, xả nhục thân
được ở pháp thân, ở trong sáu đạo
mười phương biến thân ứng theo sự thích hợp để hóa độ chúng
sanh, thí cấp cho hết thảy trân bảo, y phục, ẩm thực. Lại đem
đầu mắt, tủy não, quốc độ, vợ con, những vật trong ngoài có
được đều đem bố thí. Ví như Thích-ca Văn Phật, từng làm voi
trắng sáu ngà, kẻ thợ săn rình cơ hội, lấy tên bắn, cả bầy voi
xông đến muốn đạp nát kẻ thợ săn, voi trắng lấy thân cản lại,
ủng hộ người kia, thương nó như thương con, và khuyến dụ bầy
voi, từ từ hỏi người thợ săn rằng: "Cớ gì bắn tôi?" Thợ săn
đáp: "Ta cần ngà của ngươi". Tức thời voi dụi sáu ngà vào
trong lỗ đá, máu thịt tuôn ra, dùng vòi quấn ngà đưa cho thợ
săn. Tuy rằng thân voi, mà dụng tâm như vậy nên biết voi ấy
không phải chịu quả báo súc sanh. Trong pháp A-la-hán, hoàn
toàn không có tâm đó. Nên biết đó là pháp thân Bồ-tát.
Có khi người
Diêm-phù-đề không biết lễ kính bậc
kỳ túc có đức, lấy lời lẽ giáo hoá, mà chưa thể độ họ được.
Khi ấy Bồ-tát tự biến thân mình làm chim
Ca-lăng-tần-già. Chim ấy có hai bạn thân, một là voi lớn, hai
là khỉ, cùng ở chung dưới cây Tất-bát-la. Tự hỏi nhau rằng:
"Chúng ta không biết ai đáng là lớn?" Voi nói: "Tôi xưa thấy
cây này ở dưới bụng ta mà nay lớn như vậy. Lấy đó để suy, tôi
đáng là lớn". Khỉ nói: "Tôi từng ngồi xổm trên đất, đưa tay
kéo đọt cây. Lấy đó để suy, tôi đáng là lớn". Chim nói:
"Tôi ở trong rừng Tất-bát-la, ăn trái cây này, hạt theo phân
đi ra mọc lên cây này. Lấy đó để suy, tôi đáng là người lớn
hơn cả". Voi lại nói rằng: "Theo lễ nên cúng dường tiên sanh
là bậc kỳ túc". Tức thì voi đưa lưng cõng khỉ, còn chim thì
đậu trên khỉ, mà đi dạo khắp. Các loài cầm thú hỏi: "Cớ sao
như thế?" Ðáp: "Ðể cung kính cúng dường bậc lão trưởng".
Các cầm thú chịu cảm hóa, đều thực hành lễ kínnh, không xâm
hại ruộng dân, không giết hại sinh mạng loài vật, mọi người
nghi ngờ lấy làm lạ nói: "Tất cả cầm thú không còn làm hại
nhau".
Người thợ săn vào
rừng, thấy voi cõng khỉ,
khỉ đội chim, đi kính lễ và cảm hóa loài vật, loài vật đều
biết tu thiện, liền truyền rao đến cho người trong nước biết
ai nấy đều mừng nói: "Thời sắp thái bình, chim thú mà nhân
từ!"
Người cũng phải bắt chước, đều
đi lễ kính. Từ xưa đến nay, đức hóa ấy lưu truyền muôn đời.
Nên biết, ấy là pháp thân Bồ-tát.
Lại nữa, pháp thân Bồ-tát, trong
khoảng nhất thời, hoá làm vô ương vô số thân, cúng dường mười
phương chư Phật. Một lúc có thể hóa ra vô lượng tài vật, cấp
đủ cho chúng sanh, có thể tùy theo hết thảy âm thanh bậc
thượng, bậc trung, bậc hạ, trong khoảng nhất thời khắp vì
thuyết pháp, cho đến khi ở tại cội Bồ-đề. Các thứ như vậy
v.v... gọi là pháp thân Bồ-tát, thực hành
Ðàn Ba-la-mật viên mãn.
Lại nữa, bố thí có ba thứ: Một
là vật thí, hai là cúng dường cung kính thí, ba là Pháp thí.
Thế nào là vật thí? Trân bảo, y
phục, ẩm thực, đầu, mắt, tủy, não, tất cả vật nội ngoại có
được như vậy, đều đem bố thí; ấy gọi là vật thí.
Cung kính thí là tín tâm thanh
tịnh, cung kính lễ bái, tiễn đón rước đưa, tán thán đi nhiễu
quanh cúng dường. Các thứ như vậy v.v... gọi là cung kính
thí.
Pháp thí là, vì đạo đức, nói
năng luận nghị, tụng đọc thuyết giảng, hỏi đáp để trừ nghi,
trao truyền ngũ giới cho người. Các thứ như vậy v.v... vì
Phật đạo nên bố thí; gọi là Pháp thí. Ba thứ bố thí
ấy viên mãn, gọi là Ðàn Ba-la-mật viên mãn.
Lại nữa, do nhân duyên ba sự
phát sanh bố thí: Một là tín tâm thanh tịnh, hai là tài vật,
ba là phước điền. Tâm có ba: Hoặc thương xót, hoặc cung
kính, hoặc cả thương xót và cung kính. Bố thí cho người nghèo
cùng hạ tiện và các súc sanh; ấy là thương xót mà bố thí. Bố
thí cho Phật và các pháp thân Bồ-tát; ấy là cung kính bố thí.
Bố thí cho người già, bệnh, nghèo thiếu, A-la-hán,
Bích-chi Phật; ấy là vừa
cung kính vừa thương xót bố thí. Vật thí thanh tịnh là vật
chẳng phải do trộm cướp mà có, đúng thời mà thí, không cầu
danh dự, không cầu lợi dưỡng; hoặc là do tâm mà được phước đức
lớn, hoặc là do phước điền mà được công đức lớn; hoặc là do
vật tốt mà được công đức lớn.
Thứ nhất là do tâm, như bốn đẳng
tâm (từ, bi, hỷ, xả), Niệm Phật tam muội, đem thân thí cho
Cọp; như vậy là do tâm mà được công đức lớn. Do phước điền có
hai thứ: Một là lân mẫn phước điền; hai là cung kính phước
điền. Lân mẫn phước điền là hay sanh tâm lân mẫn; cung kính
phước điền là hay sanh tâm cung kính. Như vua A-dục (tàu dịch
là Vô Ưu) lấy đất dâng cho Phật.
Lại nữa, về vật thí, như một
người nữ, bị rượu say ngập tâm, đem chuỗi Anh lạc bảy báu bố
thí tháp Phật Ca-diếp, nhờ phước đức ấy được sanh lên cõi trời
Ba-mươi-ba. Các thứ như vậy, gọi là vật thí.
Hỏi:
Ðàn gọi là xả bỏ
tài vật; sao lại nói đầy đủ không pháp gì xả bỏ?
Ðáp:
Ðàn
có hai, là xuất thế gian và không xuất thế gian. Nay nói về
xuất thế gian. Ðàn là vô thượng, vô tướng nên không có xả
bỏ. Thế nên nói đầy đủ không pháp gì xả bỏ.
Lại nữa,
tài vật là không thể có được, nên gọi là không có gì xả bỏ.
Vật ấy ở vị lai, quá khứ đều không có; còn trong hiện tại thì
phân biệt không có pháp gì nhất định. Do đó nên nói không có
pháp gì xả bỏ.
Lại nữa,
hành giả khi xả bỏ tài vật mà có tâm nghĩ rằng việc bố thí này
đem lại công đức lớn, nên ỷ thị mà sanh tâm kiêu mạn ái kiết
v.v... Do vậy nên nói là không có gì xả bỏ. Vì không có gì xả
bỏ nên không kiêu mạn. Không kiêu mạn nên ái kiết không sanh.
Lại nữa,
người thí có hai hạng là người thế gian và người xuất thế
gian. Người thế gian có thể xả tài mà không xả thí, còn người
xuất thế gian có thể xả tài, có thể xả thí, vì cớ sao? Vì tài
vật và tâm bố thí đều không thể có được. Do vậy nên nói đầy
đủ không có gì xả bỏ.
Lại nữa,
trong Ðàn Ba-la-mật, nói tài vật, người thí và người nhận, ba
việc ấy đều không thể có được.
Hỏi:
Ba việc hòa hợp,
nên gọi là Ðàn. Nay nói cả ba việc không thể có được thì làm
sao gọi là Ðàn Ba-la-mật đầy đủ viên mãn? Nay chính có đủ tài
vật, người thí và người nhận, sao nói là ba việc không thể có
được? Như tấm lụa được bố thí là thật có, vì sao? Vì đã có
tên lụa thời có pháp lụa, nếu không có pháp lụa thì cũng không
có tên lụa, nhưng đã có tên lụa tất phải có lụa thật?
Lại nữa,
lụa có dài có ngắn, thô, tế, trắng, đen, vàng, đỏ, có nhân; có
duyên; có làm ra; có phá đi; có quả báo; tùy pháp mà sanh
tâm. Mười thước là dài, năm thước là ngắn. Sợi to là thô,
sợi nhỏ là tế; tùy theo nhuộm mà có màu, có sợi là nhân, đồ
dệt là duyên; nhân ấy duyên ấy hợp lại là tấm lụa. Người tạo
thành là làm, người hoại bỏ là phá. Nó ngăn được lạnh nóng,
che thân thể; ấy là quả báo. Người có được rất mừng, bị mất
đi rất buồn. Dùng nó bố thí, thì được phước và giúp đạo. Nếu
kẻ nào ăn trộm hoặc cướp lấy, thì bị giết giữa đô thị, chết
vào địa ngục. Các thứ nhân duyên như vậy, nên biết có lụa,
gọi là pháp lụa. Tại sao nói vật bố thí là không thể có được?
Ðáp:
Ông
nói vì có tên gọi cho nên có, việc ấy không đúng, vì sao mà
biết? Tên gọi có hai, có cái thật và cái không thật. Có tên
mà không thật, như có một loại cỏ tên Thù-lợi (Tàu dịch là
giặc). Cỏ Thù-lợi chẳng ăn trộm, chẳng ăn cướp. Thật chẳng
phải là giặc mà gọi là giặc. Lại như sừng Thỏ, lông Rùa, cũng
chỉ có tên mà không có thật. Lụa tuy không như sừng Thỏ lông
Rùa, hoàn toàn không có, nhưng do nhân duyên hội hợp cho nên
có, nhân duyên tan rã cho nên không, như đám rừng, như toán
quân, các thứ ấy đều là có mà không thật. Vì như người tuy có
tên gọi là người mà không thể tìm ra pháp người. Luạ tuy có
tên gọi cũng không thể tìm ra lụa thật. Lụa là nhân duyên có
thể sanh ra tâm niệm nơi người, được nó thì mừng, mất nó thì
buồn, ấy là nhân duyên của tâm niệm.
Tâm sanh do hai
nhân duyên: Có khi từ thật mà sanh, có khi từ không thật mà
sanh. Như cảnh thấy trong mộng, như trăng trong nước, như ban
đêm thấy cây rung cho là người. Như vậy là từ trong không
thật mà khiến cho tâm sanh. Nhân duyên ấy bất định, không thể
nói vì có tâm sanh cho nên có thật vậy. Nếu do tâm sanh nên
có, lại không thể tìm cái thật có, như mắt thấy trăng trong
nước, tâm sanh ra bảo đó là trăng, nếu từ tâm mà có trăng ấy,
thời không còn là trăng thật.
Lại nữa,
ba thứ có: 1- Tương đãi có, 2- Giả danh có, 3- Pháp có.
Tương đãi là đối
đãi, như dài ngắn, kia đây v.v... Thật ra không có dài ngắn,
cũng không có kia đây, do đối đãi nhau mà có tên gọi. Dài
nhân ngắn mà có, ngắn cũng do dài mà có. Kia cũng nhân đây,
đây cũng nhân kia. Nếu đứng phiá đông của một vật, thì cho nó
là phía Tây; ở phía Tây thời cho nó là phía Ðông. Một vật
chưa hề đổi khác mà có Ðông Tây khác nhau. Ðây tức là có danh
mà không có thật. Như vậy v.v... gọi là tương đãi cớ; trong
đó không có thật pháp, không như sắc, thanh, hương, vị, xúc
v.v...
Giả danh có là,
như sữa chua có sắc, hương, vị, xúc; bốn sự nhân duyên hợp lại
nên giả danh là sữa chua. Tuy có, không đồng với pháp nhân
duyên có. Tuy không, cũng không như sừng Thỏ, lông Rùa không,
chỉ do nhân duyên hợp lại nên gọi giả danh là sữa chua. Lụa
cũng như vậy.
Lại nữa,
do có cực vi sắc, hương, vị, xúc nên có phần tử lông; do phần
tử lông nên có lông; do có lông nên có lông nhỏ; do có lông
nhỏ nên có sợi; do có sợi nên có lụa; do có lụa nên có áo.
Nếu không có nhân duyên của cực vi sắc, hương, vị, xúc thì
cũng không có phần tử lông; không có phần tử lông thì cũng
không có lông; không có lông thì cũng không có lông nhỏ; không
có lông nhỏ thì cũng không có sợi; không có sợi thì cũng không
có lụa; không có lụa thì cũng không có áo.
Hỏi:
Cũng không hẳn
mọi vật đều do nhân duyên hòa hợp nên có, như mảy bụi quá nhỏ
nên không chia chẻ được, không chia chẻ nên không hòa hợp.
Lụa thô nên có thể phá, còn mảy bụi không chia chẻ được thì
làm sao có thể phá?
Ðáp:
Quá
nhỏ cũng không có thật, chỉ gượng mà gọi, vì cớ sao? Thô và
tế đối đãi nhau, nhân thô nên có tế; tế ấy lại còn phải có tế
nữa...
Lại nữa,
nếu cực vi sắc, thời có mười phần theo mười phương hướng. Nếu
có mười phần theo mười phương hướng, thời không gọi là cực vi;
nếu không có mười phần theo mười phương hướng thời không gọi
là sắc.
Lại nữa,
nếu có cực vi thời phải chiếm một vị trí giới hạn giữa hư
không, nếu có giới hạn thời không gọi là cực vi.
Lại nữa,
nếu có cực vi, trong ấy có thành phần sắc, hương, vị, xúc.
Có thành phần sắc, hương, vị, xúc; ấy thời không gọi là cực
vi. Lấy đó suy tìm, vi trần là không thể có được. Như trong
kinh nói: "Sắc hoặc thô, hoặc tế, hoặc trong hoặc ngoài,
chung lại quán sát đều là vô thường vô ngã. Không nói có vi
trần, ấy là quán không theo cách chia chẻ phá hoại.
Lại có cách quán
không, là quán lụa tùy theo tâm. Như người tọa thiền, quán
lụa hoặc làm thành đất, hoặc thành nước, hoặc thành lửa, hoặc
thành gió, hoặc xanh, hoặcvàng, hoặc trắng, hoặc đỏ, hoặc hoàn
toàn không, như quán mười thiết nhập. Như khi Phật ở núi
Kỳ-xà-quật, cùng với chúng Tỳ-kheo Tăng, đi vào thành
Vương-xá. Giữa đường trông thấy một gốc cây lớn, Phật trải
tọa cụ trên gốc cây mà ngồi, bảo các Tỳ-kheo: Nếu Tỳ-kheo
nhập thiền, tâm được tự tại, thì có thể khiến gốc cây lớn
thành đất.
Liền thành đất
thật, vì cớ sao? Vì trong cây ấy có phần tử đất.
Lại nữa, như một
sắc đẹp, người dâm dục lấy đó cho là sạch đẹp, tâm sanh nhiễm
đắm. Người tu phép Quán bất tịnh thấy toàn là xấu xa trần
trụi, không một chút sạch. Người vợ cùng hàng trông thấy thì
ghen giận thêm dữ, mắt không muốn nhìn, cho là nhơ nhớp.
Người dâm dục xem cho là vui, người ghen ghét xem cho là khổ,
người tu tịnh hạnh xem thì đắc đạo, còn người không can dự,
thấy mà không chuyên chú, như thấy đất thấy cây. Nếu sắc đẹp
ấy thực sạch thì cả bốn hạng người xem đều phải thấy sạch; nếu
nó thật không sạch thì cả bốn hạng người xem đều phải thấy là
không sạch. Do vậy nên biết, đẹp xấu tại tâm, còn bên ngoài
không nhất định. Quán không cũng vậy.
Lại nữa, chính
trong lụa ấy có mười tám tướng không, quán xem đó bèn không,
"không" cho nên không thể có được. Do các thứ nhân duyên như
vậy nên tài vật là không, quyết định không thể có được.
Thế nào là người
bố thí không thể có được? Như lụa do nhân duyên hòa hợp nên
có, cứ từng phần suy xét, lụa không thể có được. Người bố thí
cũng như vậy. Bốn đại bao quanh trống không; gọi là thân. Ở
thân ấy có thức động tác các việc đi, lại, ngồi, dậy, giả danh
là người. Từng phần suy tìm tướng người cũng không thể có
được.
Lại nữa, trong tất
cả năm ấm, mười tám giới, mười hai nhập tìm tướng ta không thể
có được. Vì ta không thể có được nên người bố thí cũng không
thể có được, vì sao? Ta có các thứ tên chữ như người, trời,
trai, gái, người thí, người nhận, người thọ khổ, người thọ
vui, súc sanh v.v... đều chỉ có tên gọi, mà thật pháp thì
không thể có được.
Hỏi:
Nếu người thí là
không thể có được, thế tại sao có Bồ-tát thực hành Ba-la-mật?
Ðáp:
Do
nhân duyên hòa hợp nên có danh tự như nhà, như xe, mà thật
pháp là không thể có được.
Hỏi:
Vì sao "ngã" là
không thể có được?
Ðáp:
Như
trong chương "Như vậy tôi nghe một thời" đã nói nay lại nói
thêm. Phật nói sáu thức: Nhãn thức và pháp tương ứng với
nhãn thức, cùng duyên sắc, mà chẳng duyên các tên gọi như nhà,
thành quách. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân thức, cũng như vậy. Ý thức
và pháp tương ứng với ý thức, biết mắt, biết sắc, biết nhãn
thức cho đến biết ý, biết pháp, biết ý thức. Các pháp của
thức ấy duyên đều là không, vô ngã vì nó sanh diệt và không tự
tại. Trong pháp vô vi cũng không chấp ngã, vì không thọ khổ
lạc. Trong đây nếu gượng nói có ngã pháp thời phải nên có
thức thứ bảy biết ngã, nhưng nay không như vậy, do đó nên biết
vô ngã.
Hỏi:
Vì sao nói vô
ngã? Tất cả mọi người đều chính tự trong thân mình mà sanh
chấp ngã, chứ không ở trong thân khác mà sanh chấp ngã. Lại
nữa, nếu bên trong vô ngã, còn thức biết sắc cứ niệm niệm sanh
diệt, thời làm sao phân biệt biết ấy là sắc xanh, đỏ, vàng,
trắng? Lại nữa, nếu vô ngã mà thức của người trong hiện tại,
thì lại sanh diệt mới mãi; khi thân mạng chấm dứt nó cũng hết
luôn, thế thời các việc làm tội phước, ai đem theo, ai lãnh
thọ? Ai thọ khổ vui? Ai được giải thoát? Do các thứ nhân
duyên như vậy, nên biết có ngã?
Ðáp:
Các
việc này đều có nạn vấn! Nếu ở nơi thân khác mà sanh chấp
ngã, thời lại sẽ nói vì sao không chính tự thân mình mà sanh
chấp ngã?
Lại nữa, do năm
uẩn làm nhân duyên mà sanh ra cho nên không, vô ngã. Từ vô
minh làm nhân duyên sanh hai mươi thân kiến. Thân kiến ấy từ
nơi năm uẩn tương tục sanh. Vì từ năm uẩn tương tục sanh, nên
liền chấp năm uẩn ấy làm ngã chứ không chấp ở thân người khác,
vì tập quen vậy.
Lại nữa,
nếu có thần ngã (linh hồn) thời có thể có cái ngã kia, nhưng
thần ngã của ông có hay không chưa rõ, mà hỏi đến cái ngã kia,
thì cũng giống như người hỏi sừng thỏ, mà đáp nó tựa như sừng
ngựa. Sừng ngựa nếu thật có, thời có thể đem nó làm chứng cho
sừng thỏ, nhưng sừng ngựa còn chưa rõ có hay không có mà muốn
đem nó làm chứng cho sừng thỏ sao được?
Lại nữa,
tự thân mình mà sanh chấp ngã, nên tự cho là có thần ngã.
Nhưng các ông nói thần ngã là biến khắp, vậy cũng nên chấp
thân người khác làm ngã. Do vậy không nên nói: "Chỉ tự nơi
thân mình sanh chấp ngã, nơi thân khác thì không sanh, nên
biết có thần ngã".
Lại nữa,
có người ở nơi trong vật khác sanh tâm chấp ngã, như người
ngoại đạo tọa thiền, khi dùng đất mà tu phép quán thiết nhập,
thì thấy đất là ngã, ngã là đất. Quán nước, lửa, gió, không
cũng như vậy. Ðó là vì điên đảo, nên ở thân khác cũng chấp
ngã.
Lại nữa,
có khi ở thân khác mà sanh chấp ngã. Như có một ngươì lãnh sứ
mệnh đi xa, một mình vào ngủ trong ngôi nhà trống, nửa đêm
thấy một con quỷ mang xác một người chết đến quăng trước mặt.
Lại có một con quỷ khác rượt đến, giận mắng con quỷ trước
rằng: "Người chết này là vật của ta, sao mày mang đến?" Quỷ
trước cãi lại: "Vật của ta, ta tự mang đến". Hai con quỷ,
mỗi con cầm một cánh tay dành giật. Con quỷ trước nói:
"Trong nhà này có người, có thể hỏi xem?". Quỷ sau liền hỏi:
"Xác người chết này ai mang đến?" Người kia suy nghĩ: "Hai
con quỷ này sức mạnh, nếu đáp thật cũng phải chết, nếu đáp dối
cũng phải chết. Cả hai cách đều không khỏi chết, sao ta lại
nói dối?" Liền đáp: "Quỷ trước mang đến". Con quỷ sau liền
nổi giận, cầm cánh tay người kia bứt ra quăng xuống đất. Con
quỷ trước liền lấy một cánh tay người chết chắp thế vào liền
dính. Như vậy, hai tay, hai chân, đầu, sườn, thân thể đều
thay đổi. Khi ấy hai con quỷ chung nhau ăn thân người bị thay
đổi, xong chùi miệng bỏ đi. Người kia suy nghĩ: "Thân do cha
mẹ sanh của ta, tận mắt thấy hai con quỷ đã ăn hết, thân này
của ta hiện nay đều là thịt của người chết kia. Vậy ta chắc
chắn có thân ư, hay là không có thân ư? Nếu cho là có, thì
toàn là thân của người khác; nếu bảo là không, thì hiện nay ta
có thân". Suy nghĩ như vậy, tâm rất mê muội, giống như người
cuồng, sáng sớm phăng đường mà đi, đến một quốc độ thấy có
chúng Tăng tại nơi tháp Phật, không hỏi chuyện gì khác, chỉ
hỏi thân mình là có hay không? Các Tỳ-kheo hỏi lại: "Ông
làngười nào?" Ðáp: "Tôi cũng không tự biết là người hay
không phải là người". Liền kể rõ lại việc trên cho chúng Tăng
nghe. Các Tỳ-kheo nói: "Người này tự biết vô ngã, dễ có thể
đắc độ". Bèn nói với người kia rằng: "Thân người từ xưa đến
nay, thường tự vô ngã, chứ không phải vừa mới ngày nay. Chỉ
do bốn đại hòa hợp nên chấp cho là ngã thân, như thân củ của
ông là ngã thân, cùng với nay không khác."
Các Tỳ-kheo độ cho
tu đạo, dứt hết các phiền não, liền chứng được A-la-hán. Ấy
là khi chấp thân người khác làm ngã, chứ không thể nói do có
kia có đây nên bảo là có thần ngã.
Lại nữa,
thật tánh của thần ngã ấy quyết chắc là không thể có được.
Hoặc nó có tướng thường, tướng phi thường, tướng tự tại, tướng
chẳng tự tại, tướng làm, tướng chẳng làm, tướng sắc, tướng
chẳng sắc; các tướng như vậy đều không thể có được. Nếu có
tướng thời có pháp, không tướng thời không pháp. Nay thần ngã
là không tướng , thời biết là không có thần ngã. Nếu thần ngã
là thường thời không nên có tội sát, vì cớ sao? Thân có thể
sát vì chẳng phải thường; còn thần ngã không thể sát, vì là
thường.
Hỏi:
Thần ngã tuy
thường cho nên không thể sát, nhưng sát thân thời mắc tội sát?
Ðáp:
Nếu
sát thân người mắc tội sát, nhưng trong Luật tạng nói: "Tự
sát thân không mắc tội sát". Tội hay phước là do làm não hại
hay làm lợi ích người khác mà có, chẳng phải do tự cúng dường
thân hay tự sát thân mà có tội phước. Do vậy nên trong Luật
tạng nói: "Tự sát thân không có tội sát, mà chỉ có cái lỗi là
ngu si, tham nhục, sân nhuế".
Nếu thần ngã là
thường, thời không nên có chết, không nên có sanh, vì cớ sao?
Vì trong giáo pháp của các ông, thần ngã là thường, biến khắp
cả trong năm đường, làm sao có chết sanh? Chết là mất chỗ
này, sanh ra ở chỗ kia. Do vậy không được nói "thần ngã là
thường". Nếu thần ngã là thường, thời cũng không nên có thọ
khổ thọ vui, vì cớ sao? Vì khổ đến thời buồn, lạc đến thời
mừng. Nếu bị lo buồn vui mừng làm biến đổi, thời chẳng phải
thường. Nếu thần ngã thường thời lẽ đánh như hư không, mưa
không thể làm ướt, nắng không thể làm khô; cũng không có đời
này, đời sau, chẳng nên có việc đời sau sanh, đời này chết.
Nếu thần ngã thường, thời thường có ngã kiến, không thể chứng
được Niết-bàn. Nếu thần ngã thường thời không sanh không
diệt, không thể có quên có mất. Vì không có thần ngã, mà thức
là vô thường, nên có quên có mất. Thế cho nên biết thần ngã
chẳng phải thường. Do các thứ nhân duyên như vậy, nên biết
thần ngã chẳng phải có tướng thường.
Nếu thần ngã có
tướng vô thường, thì cũng không tội, không phước. Nếu thân vô
thường, thần ngã cũng vô thường, hai sự đều diệt mất, thời rơi
vào chấp đoạn. Rơi vào chấp đoạn, thời không có cái gì đi đến
đời sau để thọ tội phước. Nếu đoạn diệt, thời chứng đắc
Niết-bàn không cần phải đoạn kiết sử, cũng không cần nhân
duyên tội phước của đời sau. Do các thứ nhân duyên như vậy,
nên biết thần ngã chẳng phải có vô thường.
Nếu thần ngã có
tướng tự tại, tướng tự làm, thời phải tùy theo muốn gì được
nấy, nhưng nay điều ước muốn lại không được, điều không ước
muốn lại được. Nếu thần ngã tự tại, cũng không nên có sự làm
ác hành, phải đọa vào trong ác đạo súc sanh.
Lại nữa, hết thảy
chúng sanh đều không ưa khổ. Ai đang ưa vui mà lại bị khổ?
Do vậy nên biết thần ngã không tự tại, không tự làm. Lại như
người vì sợ tội mà tự gắng làm lành. Nếu tự tại thì vì sao
còn sợ tội mà gắng tu phước? Lại các chúng sanh không được
như ý, thường bị phiền não ái phược lôi kéo. Do các thứ nhân
duyên như vậy, nên biết thần ngã không tự tại, không tự làm.
Nếu thần ngã không tự tại, không tự làm, thế là không có tướng
thần ngã. Cái ngã các ông nói đó, chính là thức, chứ không
phải gì khác.
Lại nữa, nếu thần
ngã không làm, tại sao khi Diêm vương hỏi người tội: "Ai
khiến ngươi làm tội ấy?" Tội nhân đáp: "Ðó là ngã tự làm".
Do vậy nên biết chẳng phải không tự làm. Nếu nói thần ngã có
sắc tướng, việc ấy không đúng, vì sao? Vì hết thảy sắc đều vô
thường.
Hỏi:
Tại sao người ta
nói sắc là ngã tướng?
Ðáp:
Có
người nói "Thần ngã ở trong tâm, nhỏ như hạt cải, thanh tịnh
nên gọi là thân tịnh sắc".
Lại
có người nói nó như hạt lúa, có người nói nó như hạt đậu, có
người nói nửa tấc, có người nói một tấc. Lúc mới thọ thân, nó
thọ trước hết, giống như hình tượng xương có trước hết, đến
khi thành thân, thì như hình tượng đã được trang nghiêm.
Có người nói thần
ngã lớn nhỏ tùy theo thân người, khi chết nó đi ra trước.
Những việc như vậy, đều không đúng, vì cớ sao? Vì hết thảy
đều do bốn đại tạo nên, là nhân duyên sanh nên vô thường; thần
ngã cũng vô thường. Nếu vô thường thì như trên đã nói.
Hỏi:
Thân có hai thứ:
Thân thô và thân tế. Thân thô là vô thường, còn thân tế là
thần ngã, đời đời thường đi vào trong năm đường?
Ðáp:
Thân
vi tế ấy là không thể có được. Nếu có thân vi tế, thời phải
có nơi chỗ có thể biết được; như từ mỗi chỗ trong năm tạng
(tâm , can, tỳ, phế, thận) bốn chi thể để tìm đều không thể
thấy được.
Hỏi:
Tế thân ấy rất vi
tế. Khi mới chết nó đã đi; khi còn sống thì tìm không thể có
được, thời ông làm sao mà có thể thấy? Lại thân vi tế ấy,
chẳng phải năm thức có thể thấy, có thể biết, chỉ có bậc Thánh
nhân có thần thông, mới có thể thấy được?
Ðáp:
Nếu
như vậy, cùng với "không vật" chẳng khác nhau. Như khi người
chết, bỏ thân sanh ấm, vào trong thân trung ấm, bấy giờ, thân
của đời này diệt, mà thọ thân trung ấm. Nó không có trước
sau, khi vừa diệt liền sanh; giống như cái ấn bằng sáp ấn
xuống bùn, trong khi bùn nhận được ấm, cái ấn tức thời hoại
mất. Bên thành và bên hoại cùng một lúc, không có trước sau.
Ngay khi ấy thọ thân trung ấm trung hữu, xã thân trung ấm
trung hữu này, thọ thân sanh ấm sanh hữu. Ông nói thân vi tế,
chính là thân trung ấm này. Thân trung ấm không ra không
vào, giống như ngọn đèn cháy đỏ, sanh và diệt tiếp nối, chẳng
thường chẳng đoạn. Phật dạy: "Hết thảy sắc uẩn hoặc quá khứ,
vị lai, hiện tại, hoặc trong hoặc ngoài, hoặc thô hoặc tế,
thảy đều vô thường". Thần ngã với sắc vi tế của ông cũng
phải vô thường đoạn diệt. Do các nhân duyên như vậy, nên
biết thần ngã chẳng phải sắc tướng.
Thần ngã chẳng
phải không sắc tướng. Không sắc là bốn uẩn (thọ, tưởng, hành,
thức) và pháp vô vi. Bốn uẩn vì là vô thường, vì là không tự
tại, vì thuộc nhân duyên, nân chẳng phải là thần ngã. Trong
ba pháp vô vi, thì không chấp có thần ngã được, vì không thọ
nhận gì. Do các nhân duyên như vậy, nên biết thần ngã chẳng
phải sắc tướng.
Như vậy giữa trời
đất, hoặc trong hoặc ngoài, ba đời mười phương tìm thần ngã
không thể có được. Chỉ có mười hai nhập hòa hợp sanh ra sáu
thức, ba việc hòa hợp gọi là xúc. Từ xúc sanh ra các tâm số
pháp thọ, tưởng, tư v.v... Trong pháp ấy do sức vô minh nên có
thân kiến sanh; có thân kiến sanh nên cho là có thần ngã.
Thân kiến ấy, khi thấy được Khổ đế, phát sanh khổ pháp trí và
khổ tỷ trí (bốn loại trí) thì dứt. Khi thân kiến dứt thời
không còn thấy có thần ngã. Trước đây các ông nói: Nếu bên
trong không có thần ngã, còn thức biết sắc thì cứ niệm niệm
sanh diệt, làm sao mà phân biệt biết sắc xanh, vàng, đỏ,
trắng?" Theo các ông, nếu có thần ngã, cũng không thể một
mình biết được sắc, mà phải nương nhãn thức mới có thể biết
được. Nếu như vậy, thì thần ngã thành vô dụng. Nhãn thức
biết sắc, sắc sanh diệt. Do tương tợ sanh, tương tợ diệt, vậy
sau trong tâm có pháp sanh ra, gọi là niệm. Tướng của niệm ấy
thuộc pháp hữu vi, tuy diệt về quá khứ mà có thể biết. Như
trí tuệ lực của Thánh nhân, có thể biết việc đời vị lai. Niệm
niệm cũng như vậy, có thể biết pháp quá khứ. Nếu nhãn thức
trước diệt, sanh nhãn thức sau, nhãn thức sau càng có sức lanh
lợi. Sắc tuy tạm có chẳng đứng yên song do niệm lực lanh lợi
nên có thể biết. Do sự ấy, tuy niệm niệm sanh diệt vô thường,
mà có thể phân biệt biết sắc.
Lại nữa, ông nói
thức của người trong hiện tại cứ sanh diệt mới mãi, một khi
thân mạng chấm dứt, nó cũng hết luôn. Như vậy các hạnh nghiệp
tội phước, ai đem theo, ai lãnh thọ? Ai chịu khổ vui? Ai
được giải thoát? Nay sẽ đáp cho các ông: Nay các ông chưa
được đạo chân thật, bị các phiền não che tâm, tạo nghiệp làm
nhân duyên cho thân tái sanh, khi chết năm uẩn tuần tự tương
tục sanh ra, giống như một ngọn đèn lại đốt một ngọn đèn. Lại
như hạt lúa sanh ra do có ba nhân duyên là đất, nước và hạt
giống. Thân đời sau sanh ra cũng như vậy, có thân, có nghiệp
hữu lậu và có kiết sử. Có ba nghiệp ấy nên thân sau sanh ra,
trong đó thân và nghiệp là nhân duyên không thể dứt, không thể
phá; chỉ các kiết sử là có thể dứt. Khi kiết sử dứt, tuy còn
có thân dư tàn, vẫn có thể được giải thoát. Như có hạt lúa,
có đất mà không có nước, nên không sanh được. Như vậy tuy có
thân, có nghiệp mà không có nước ái kiết thấm nhuần thời không
sanh được. Ấy gọi là tuy không có thần ngã, cũng gọi là được
giải thoát. Do vô minh nên bị trói; do trí tuệ nên đuợc mở,
thời thần ngã vô dụng.
Lại nữa, do danh
và sắc hòa hợp, giả danh là người, người ấy bị các kiết sử
trói buộc. Ðược móng tay trí tuệ vô lậu mở các kiết sử ấy,
bấy giờ gọi là người được giải thoát. Cột dây, mở dây; dây
tức là cột, cột không là một pháp riêng khác. Trong thế gian
nói cột dây mở dây. Danh và sắc cũng vậy. Danh và sắc hai
pháp hòa hợp, giả danh là người. Kiết sử ấy cùng với danh sắc
không riêng khác, chỉ có gọi là danh sắc cột, danh sắc mở.
Thọ tội thọ phước cũng là như vậy. Tuy không có một pháp gọi
là người thật, chỉ có danh sắc thọ quả tội phước mà được gọi
là người. Giống như xe chở đồ vật, cứ mỗi mỗi suy tìm. Rốt
ráo không có xe thật, nhưng do chở đồ vật nên gọi là xe.
Người thọ tội phước cũng là như vậy. Do danh sắc thọ tội
phước, mà nhận được cái tên là người thọ. Thọ khổ vui cũng
như vậy. Do các nhân duyên như vậy, thần ngã là không thể có
được. Thần ngã chính là người bố thí người thọ nhận. Cũng
như vậy. Các ông cho thần ngã là người, do vậy nên người thí
là không thể có được. Do các nhân duyên như vậy, nên nói là
tài vật, người thí, người thọ đều là không thể có được.
Hỏi:
Nếu các đức Phật
đối với các pháp nói là không bị phá, không bị diệt, không bị
sanh, không bị làm; cớ sao ở đây nói ba việc tài vật, người
thí và người thọ, phá hoại chia chẻ thì không thể có được?
Ðáp:
Như
người phàm tục thấy có người thí, thấy có người thọ, thấy có
tài vật; đó là cái thấy hư vọng điên đảo, được sanh vào thế
gian thọ vui, khi hết phước phải xoay trở lại. Cho nên Phật
muốn hàng Bồ-tát thực hành thật đạo, được thật quả báo, tức là
Phật đạo. Phật vì phá cái thấy hư vọng nên nói ba việc không
thể có được, mà kỳ thật không có gì phá, vì cớ sao? Vì các
pháp từ xưa đến nay, rốt ráo là không. Do vô lượng nhân duyên
như vậy, mà không thể có được, nên gọi là Ðàn Ba-la-mật đầy đủ
viên mãn.
Lại nữa,
nếu Bồ-tát thực hành Ðàn Ba-la-mật, mà có thể sanh sáu
Ba-la-mật. Khi ấy gọi là Ðàn Ba-la-mật đầy đủ viên mãn.
- Thế nào là bố
thí sanh Ðàn Ba-la-mật?
Ðàn có bậc thượng, bậc trung, bậc hạ. Từ bậc hạ sanh bậc
trung, từ bậc trung sanh bậc thượng. Nếu dùng thức uống ăn
thô xấâu đem tâm nhu nhuyến mà bố thí ấy gọi là bậc hạ. Tập
quen bố thí dần dần tăng lên có thể đem y phục bảo vật mà bố
thí, ấy là từ bậc hạ sinh bậc trung. Tâm bố thí càng tăng,
không thương tiếc gì, có thể đem đầu, huyết thịt, quốc thành,
tài vật, vợ con mà bố thí hết; ấy là từ bậc trung sanh bậc
thượng. Như đức Phật Thích-ca Mâu-ni khi mới phát tâm, làm
đại Quốc vương, tên là Quang Minh, tìm cầu Phật đạo, ít nhiều
bố thí luân chuyển đời sau thọ thân làm người thợ gốm, dùng đồ
tắm rửa và nước đường phèn bố thí cho đức Phật Thích-ca Mâu-ni
khác và Tỳ-kheo Tăng. Kiếp sau đó chuyển thân làm người con
gái của đại trưởng giả, đem đèn cúng dường đức Phật
Kiều-trần-nhã. Các thứ như vậy, gọi là Bồ-tát bố thí bậc hạ.
Như tiền thân
đức Phật Thích-ca Mâu-ni thân làm con ông trưởng giả, đem
y bố thí cho Phật Ðại-âm-thanh. Sau lại chuyển thân làm vị
đại quốc vương, đem lọng bảy báu dúng dường Phật Sư-tử. Sau
lại thọ thân làm vị đại trưởng giả, cúng dường cho Phật Diệu
Nhân phòng xá thượng hảo và hoa đẹp bảy báu. Các thứ như vậy,
gọi là Bồ-tát bố thí bậc trung.
Như tiền thân
đức Phật Thích-ca Mâu-ni làm tiên nhân, thấy đức Phật
Kiều-trần-nhã đoan chánh thù diệu, bèn từ trên núi cao tự gieo
mình xuống trước Phật, thân kia vẫn an ổn, đứng ở một bên
Phật. Lại như Bồ-tát Chúng-sanh hỷ-kiến, lấy thân làm đèn
cúng dường đức Phật Nhật-nguyệt-quang-đức. Các thứ như vậy
không tiếc thân mạng, cúng dường chư Phật, đó là Bồ-tát bố
thí bậc thượng. Ấy gọi đó là Bồ-tát ba hạng bố thí.
Nếu có người bắt
đầu phát Phật tâm, bố thí cho chúng sanh cũng như vậy. Trước
tiên dùng thức uống ăn bố thí, tâm bố thí tăng dần, có thể đem
thân thịt bố thí. Trước đem các thứ nước ngon bố thí, sau tâm
bố thí tăng dần, có thể đem thân huyết để cho. Trước đem giấy
mực, kinh sách bố thí, và đem y phục, ẩm thực, ngoạ cụ, y dược
bốn thứ cúng dường để cúng dường pháp sư, sau chứng được pháp
thân lại vì vô lượng chúng sanh thuyết đủ các pháp, để làm
pháp thí. Các thứ như vậy, từ trong Ðàn Ba-la-mật phát sanh
Ðàn Ba-la-mật.
- Thế nào là
Bồ-tát bố thí sanh Thi-la Ba-la-mật?
Bồ-tát suy nghĩ: "Chúng sanh không biết bố thí, đời sau chịu
nghèo cùng; vì nghèo cùng mà sanh trộm cắp; vì trộm cắp mà gây
giết hại. Vì nghèo cùng nên không đầy đủ sắc đẹp; vì sắc
không đầy đủ mà hành tà dâm. Lại vì nghèo cùng mà bị làm
người hạ tiện; hạ tiện sợ hãi mà sanh nói dối. Do nhân duyên
nghèo cùng như vậy, làm mười điều bất thiện đạo; nếu tu hành
bố thí, sanh ra có tài của; có tài của nên không làm điều phi
pháp, vì cớ sao? Vì ngũ dục đầy đủ, không thiếu thốn chi.
Như Ðề-bà-đạt kiếp trước từng làm một con rắn, ở chung với
một con ếch, một con rùa trong một cái ao; kết làm bạn thân,
sau đó nước ao khô hết, đói khổ cùng khốn, không tố cáo đâu
được. Rắn khiến Rùa kêu ếch đến, ếch nói kệ bảo lại Rùa rằng:
"Nếu gặp nghèo
cùng mất bản tâm,
Không vì nghĩa cũ,
trước vì ăn,
Anh đem lời tôi
nói lại rắn,
Ếch không bao giờ
đến bên rắn".
Nếu tu bố thí, đời
sau có phước, không bị thiếu thốn, thời có thể trì giới, không
làm các điều ác. Ấy là bố thí phát sanh Giới Ba-la-mật.
Lại nữa, khi bố
thí, có thể làm cho các kiết sử phá giới bị mỏng, tăng thêm
tâm trì giới, được kiên cố. Ấy là bố thí làm nhân duyên tăng
ích cho giới.
Lại nữa, Bồ-tát bố
thí, thường sanh tâm từ bi đối với người lãnh thọ, không đắm
tài vật; vật của mình còn không tiếc, huống gì cướp trộm? Ðã
từ bi với người thọ lãnh, thì đâu còn có ý giết hại? Hay ngăn
sự phá giới như vậy; ấy là bố thí sanh giới. Nếu năng bố thí
để phá cái tâm xan tham, vậy sau trì giới, nhẫn nhục v.v... để
được thực hành. Như Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, vào kiếp rất xa
trong quá khứ, từng làm Tỳ-kheo, đi vào thành khất thực, được
"hoàn hoan hỷ" đủ trăm vị đầy bình bát. Trong thành có một em
bé đi theo xin, không cho liền, đợi đến trước bức tranh Phật
cầm hai hoàn hoan hỷ lên mà giao ước với nó rằng: "Nếu em ăn
một hoàn còn một hoàn bố thí cho chúng Tăng, thì ta sẽ cho!".
Nó liền chấp nhận, đem một hoàn hoan hỷ bố thí chúng Tăng, vậy
sau xin thọ giới với Văn-thù-sư-lợi, phát nguyện làm Phật. Bố
thí như vậy, có thể làm cho thọ giới phát tâm làm Phật, ấy là
sanh Giới Ba-la-mật.
Lại nữa, quả báo
bố thí được bốn sự cúng dường, gặp quốc độ tốt, thầy hay,
không bị thiếu thốn, cho nên có thể trì giới. Lại, quả báo bố
thí làm cho tâm kia điều nhu, do tâm điều nhu nên phát sanh sự
trì giới; do phát sanh sự trì giới, nên từ pháp bất thiện mà
có thể tự điều phục tâm. Do các nhân duyên bố thí như vậy, từ
bố thí phát sanh giới Ba-la-mật.
- Thế nào là bố
thí làm phát sanh Nhẫn nhục Ba-la-mật?
Khi Bồ-tát bố thí, gặp người thọ lãnh ngỗ nghịch mắng nhiếc;
hoặc đòi xin cho nhiều; hoặc đòi xin không phải lúc; hoặc
không đáng đòi xin mà cứ đòi xin. Khi ấy Bồ-tát tự suy nghĩ
rằng: "Ta nay bố thí để cầu Phật đạo, cũng không bảo có ai
khiến tabố thí, chính ta tự làm, tại sao ta sân?" Suy nghĩ
như vậy, để thực hành Nhẫn nhục, ấy là bố thí làm phát sanh
Nhẫn nhục Ba-la-mật.
Lai nữa, khi
Bồ-tát bố thí, gặp người thọ lãnh oán giận bức não, bèn tự suy
nghĩ rằng: "Nay ta bố thí, tài vật trong ngoài, khó bỏ mà có
thể bỏ; huống gì đối với âm thanh trống rỗng mà không thể nhẫn
được sao? Nếu ta không nhẫn, thì những vật bố thí trở thành
bất tịnh. Ví như Voi trắng vào ao tắm rửa, ra khỏi ao lại lấy
đất bôi vào mình. Bố thí mà không nhẫn nhục cũng nhu vậy.
Suy nghĩ như vậy, mà thực hành nhẫn nhục". Do các nhân duyên
của bố thí như vậy, nên phát sanh Nhẫn nhục Ba-la-mật.
- Thế nào là bố
thí làm phát sanh Tinh tấn Ba-la-mật?
Khi Bồ-tát bố thí, thường thực hành Tinh tấn, vì cớ sao? Khi
Bồ-tát mới phát tâm, công đức chưa lớn. Bấy giờ muốn thực
hành hai sự bố thí, để làm mãn nguyện của hết thảy chúng
sanh. Nhưng vì tài vật không đủ, phải siêng năng tìm tài và
pháp để cung cấp cho đầy đủ. Như tiền thân của đức Phật
Thích-ca Mâu-ni, làm vị đại y vương, chữa hết thảy bệnh, không
cầu danh lợi, mà chỉ vì thương xót chúng sanh. Song người
bệnh quá nhiều, sức không cứu khắp, lo nghĩ đến hết thảy,
nhưng không làm theo được tâm nguyện, áo não mà chết, liền
sanh lên cõi trời Ðao-lợi, tự suy nghĩ rằng: "Nay ta sanh cõi
Trời, chỉ ăn phước báo, không có ích lâu dài", liền tự tìm
phương tiện chấm dứt thân mạng, bỏ đời sống cõi Trời, hạ sanh
làm Thái tử Rồng ở trong cung Long vương Ta-già-đà. Thân hình
to lớn, cha mẹ quý yêu. Lại muốn lấy cái chết, đi đến vua
chim Kim-sí, chim liền bắt Rồng Thái tử đem lên cây Xa-ma-lỵ
mà nuốt. Cha mẹ kêu la khóc lóc áo não. Rồng con sau khi đã
chết, lại sanh làm Thái tử của vị đại Quốc vương trong cõi
Diêm-phù-đề, tên là Năng thí. Khi sanh ra đã nói được, hỏi
các người hai bên: "Nay trong nước này có những vật gì đều
đem hết lại đây để bố thí". Mọi người sợ hãi, đều bỏ chạy
cả. Mẹ thái tử thuơng xót, một mình tự giữ con. Thái tử nói
với mẹ: "Con không phải quỷ La-sát, sao mọi người chạy hết?
Kiếp trước con thường ưa bố thí, con là Ðàn-việt của mọi
người". Mẹ Thái tử nghe lời nói ấy, đem nói lại với mọi
người, mọi người liền trở lại.
Bà mẹ khéo nuôi
nấng Thái tử, đến khi khôn lớn, tự mình có được gì Thái tử đều
đem bố thí hết. Ðến chỗ vua cha, xin vật để bố thí, vua cha
chia phần cho lại đem thí hết. Thấy người cõi Diêm-phù-đề
nghèo cùng tân khổ, suy nghĩ muốn cấp thí mà tài vật không đủ,
bèn tự than khóc, hỏi người hai bên rằng: "Làm cách nào để
khiến cho hết thảy đầy đủ tài vật?" Các người lão trả lời
rằng: "Chúng tôi từng nghe nói có ngọc Như ý, nếu được ngọc
ấy thời có thể tùy tâm cầu gì được nấy". Bồ-tát nghe lời ấy
xong, thưa với cha mẹ xin đi vào biển cả tìm ngọc báu Như ý
trên đầu Long vương. Cha mẹ trả lời: "Ta chỉ có một mình
con, nếu vào biển cả, tai nạn khó tránh. Một mai mất con,
chúng ta sống làm gì, không cần đi! Trong kho của ta hiện còn
nhiều vật, sẽ cấp cho con". Thái tử nói: "Vật trong kho có
hạn, mà tâm con vô hạn. Con muốn đem của cho đủ hết thảy,
không còn ai thiếu thốn. Xin chấp nhận cho con được toại
nguyện, làm cho người cõi Diêm-phù-đề, hết thảy sung túc".
Cha mẹ biết chí lớn của con, không dám cầm ngăn, bèn để cho
đi.
Khi ấy năm trăm
khách buôn, vì cho Thái tử là bậc đại nhân phước dức, đều
thích đi theo, biết ngày khởi hành của Thái tử, tập họp tại
cửa biển. Bồ-tát trước nghe nói trên đầu Long vương
Ta-già-đàcó ngọc báu Như ý, hỏi mọi người rằng: "Ai biết thủy
đạo dẫn đến cung của Rồng kia?" Có một người mù tên là Ðà-xá,
từng có bảy phen đi vào biển cả, biết rõ hải đạo. Bồ-tát liền
bảo cùng đi. Người ấy trả lời: "Tuổi tôi đã già, hai mắt
không sáng, tuy từng vào biển nhiều lần, song nay không thể đi
được". Bồ-tát hỏi: "Ta nay đi đây, không vì thân mình mà
khắp vì hết thảy tìm ngọc Như ý, để cung cấp đủ cho chúng
sanh, để cho thân không còn thiếu thốn. Kế đó đem đạo pháp
nhân duyên mà giáo hóa họ. Ông là người trí, từ chối sao được
ư? Nguyện ta được thành tựu, há chẳng phải nhờ sức ông sao!"
Ðà-xá nghe lời Thái tử ước hẹn, vui vẻ đồng tình, nói với
Bồ-tát rằng: "Nay tôi đi với ông vào biển cả, chắc thân tôi
không toàn, ông hãy đặt thi hài của tôi trên bãi cát vàng
trong biển cả".
Việc đi ra tập họp
xong, bức sợi dây thứ bảy, thuyền đi như bay, đến các bãi
báu. Các khách buôn dành lấy bảy báu, ai nấy đã đủ, hỏi
Bồ-tát rằng: "Vì sao không lấy?" Bồ-tát trả lời: "Thứ tôi
cần là ngọc báu Như ý, còn đây là vật có ngày hết, tôi không
cần. Các người hãy nên biết đủ, biết độ lượng, đừng để thuyền
nặng, không tự thoát khỏi được". Các khách buôn thưa với với
Bồ-tát rằng: "Ðại đức! Chú nguyện cho chúng tôi để được an
ổn". Rồi cáo từ chia tay. Ðà-xá khi ấy nói với Bồ-tát rằng:
"Giữ lại chiếc thuyền nhỏ theo đường riêng mà đi. Ðợi gió bảy
ngày, nương gió theo bờ biển phía nam, đến một chỗ hiểm, sẽ có
ven núi chót vót, nhánh cây rừng táo đều phủ trên nước, gió
lớn thổi thuyền, thuyền sẽ lật ấp. Ông hãy ngước lên vin cành
cây táo, có thể tự cứu được; còn tôi không có mắt, sẽ chết nơi
đây. Qua khỏi bờ hiểm này, sẽ có bãi cát vàng, có thể đem xác
tôi đặt trong cát ấy; cát vàng thanh tịnh, ấy là ý nguyện của
tôi".
Thái tử liền như
lời nói ấy, gió đến mà đi. Khi đã đến bờ chót vót, đúng như
lời Ðà-xá nói, Bồ-tát ngước lên vin cành táo, tự được thoát
khỏi. Ðặt thây Ðà-xá, quàng yên nơi đất vàng, rồi đi một
mình. Ðúng như lời chỉ bày của Ðà-xá trước đó, nổi trong nước
sâu bảy ngày; giữa nước ngang họng đi bảy ngày; giữa nước
ngang lưng đi bảy ngày; giữa nước ngang đầu gối đi bảy ngày ;
sát giữa bùn đi bảy ngày. Thấy hoa sen đẹp, xinh tươi mềm
dịu, Bồ-tát tự suy nghĩ: "Hoa này mềm bở, ta hãy nhập Hư
không tam muội, tự làm nhẹ mình", đi trên Hoa sen bảy ngày.
Thấy các con Rắn độc, lại suy nghĩ: "Loại trùng ngậm độc rất
đáng sợ". Bồ-tát liền nhập Từ tâm tam muội, đi trên đầu Rắn
độc bảy ngày. Rắn độc ngẩng đầu lên để Bồ-tát đạp lên trên mà
đi qua. Qua khỏi nạn này, thấy có thành báu bảy lớp, có bảy
lớp hào; trong hào đầy cả Rắn độc; có hai con Rồng lớn giữ
cửa. Rồng thấy Bồ-tát hình dung đoan chánh, tướng hảo uy
nghi, vượt khỏi các nạn được đến nơi đây; suy nghĩ rằng: "Ðây
không phải là người phàm phu, chắc là bậc Bồ-tát công đức
lớn!", liền cho phép bước tới đi thẳng vào cung.
Gặp khi vợ chồng
Long vương vừa mới chôn con, còn đang khóc lóc. Thấy Bồ-tát
đến, vợ chồng Long vương có thần thông, biết đó là con, hai vú
sữa chảy ra, bảo ngồi xuống mà hỏi rằng: "Con là con ta, bỏ
ta mà qua đời, nay sanh ở chỗ nào?". Bồ-tát cũng tự biết kiếp
trước, biết đây là cha mẹ, mà trả lời mẹ rằng: "Con sanh trên
cõi Diêm-phù-đề, làm thái tử của đại Quốc vương, thương xót
người nghèo cùng, đói rét cực khổ, không được tự tại, cho nên
đi đến đây, muốn xin ngọc Như ý". Long mẫu nói: "Trên đầu
cha con, có ngọc báu đó, để trang sức đầu, khó có thể cho con
được. Chắc sẽ đưa con vào kho báu, tùy ý con muốn, ắt muốn
cho con. Con hãy trả lời rằng: Các thứ tạp bảo kia, con
không cần, con chỉ muốn được ngọc báu trên đầu phụ vương. Nếu
được thương xót, xin lấy cho con. Như thế có thể được".
Bồ-tát liền đến
gặp Long phụ, Long vương rất vừa mừng, vừa thương, vui vẻ vô
hạn. Thương nghĩ đứa con, từ xa vượt gian nan mới đi đến được
đây, liền đưa tay chỉ các châu bảo tốt: "Tùy ý cho con, cần
thì lấy". Bồ-tát nói: "Con từ xa đến, nguyẹân gặp phụ vương,
cầu xin ngọc báu Như ý trên đầu. Nếu được thương xót, hãy lấy
cho con; nếu không được cho, con không cần vật khác!" Long
vương trả lời rằng: "Ta chỉ có một viên ngọc, thường trang
sức trên đầu, người cõi Diêm-phù-đề bạc phước hạ tiện, không
đáng thấy". Bồ-tát nói: "Con vì ngọc đó, xa vượt gian nan,
liều chết đến đây, chính vì người cõi Diêm-phù-đề bạc phước hạ
tiện, để xin ngọc báu Như ý cứu vớt sự mong cầu của họ; vậy
sau lấy nhân duyên Phật đạo mà giáo hóa họ". Long vương cho
ngọc và dặn dò rằng: "Nay ta lấy ngọc này cho con, khi con
qua đời, hãy đem trả lại cho ta". Bồ-tát thưa: "Kính vâng
như lời Phụ vương nói".
Bồ-tát được ngọc.
Bay lên hư không, trong khoảnh khắc co duỗi cánh tay, đã đến
Diêm-phù-đề. Vua cha vua mẹ cõi người thấy con yên lành trở
về, vui mừng nhảy nhót, ôm mà hỏi rằng:" Con được vật gì?".
Bồ-tát thưa: "Ðược ngọc báu Như ý". Lại hỏi: "Nay ở đâu
rồi". Ðáp: "Ở trong chéo áo này". Cha mẹ nói: "Sao, nó lớn
nhỏ?" Thưa: "Cốt ở thần đức của nó, không cốt lớn. Thưa cha
mẹ, hãy sắc cho trong ngoài thành, quét dọn đốt hương, tro
lụa, phan, lọng, trì trai thọ giới, sáng sớm ngày mai, dựng
cây dài làm nêu, lấy ngọc đặt lên trên". Bồ-tát, khi ấy lập
thệ nguyện rằng: "Nếu tôi sẽ thành Phật đạo, độ thoát hết
thảy thì ngọc sẽ theo như ý nguyện của tôi, xuất sanh hết thảy
bảo vật, tùy ai cần gì thì được đầy đủ". Bấy giờ, mây im trải
khắp, mưa các vật báu; y phục ẩm thực, ngọa cụ thuốc thang,
đầy đủ các điều cần thiết cho mọi người; cho đến khi mạng
chung, thường như vậy không dứt. Như vậy gọi là Bồ-tát bố
thí phát sanh Tinh tấn Ba-la-mật.
- Thế nào Bồ-tát
bố thí phát sanh Thiền Ba-la-mật?
Khi Bồ-tát bố thí thì trừ được xan tham. Trừ xan tham rồi,
nhân việc bố thí này mà thực hành nhất tâm, trừ dần năm triền
cái. Trừ được năm triền cái; ấy gọi là thiền.
Lại nữa, tâm nương theo bố thí mà nhập vào Sơ thiền, cho đến
Diệt-tận-định thiền. Thế nào là nương? Nếu khi bố thí cho
người hành thiền, tâm tự nghĩ rằng: "Ta vì người này hành
thiền định nên tịnh tâm cúng dường; ta nay vì sao tự bỏ tu
thiền? Liền tự kiềm chế tâm, tư duy hành thiền. Nếu bố thí
cho người nghèo, suy nghĩ đời trước người này làm các điều bất
thiện, không cầu nhất tâm, không tu phước nghiệp, nên đời nay
nghèo cùng, do đó tự cố gắng tu thiện, nhất tâm để vào thiền
định. Như truyện nói: "Chuyển luân Thánh vương Hỷ kiến, có
tám vạn bốn ngàn tiểu vương đến chầu, đều đem bảy báu, vật quý
đến hiến. Vua nói: "Tôi không cần, các ngươi mỗi người tự
nên tu phước". Các vua nói: "Ðại vương tuy không cần lấy,
chúng tôi cũng không nên tự đem dùng". Liền chung nhau tìm
thợ, lập điện bảy báu, làm ao tắm bảy báu. Ở trong đại điện
tạo tám vạn bốn ngàn lầu bảy báu, trong lầu đều có giường nằm
bảy báu, gối bọc tạp sắc, đặt ở hai đầu giường, treo lụa phan
lọng, xông hương bôi đất. Mọi việc đầy đủ, bạch đại vương
rằng: "Xin đại vương thọ nhận pháp điện, cây báu, ao báu"
Vua im lặng thọ nhận, mà tự nghĩ rằng: "Ta nay không cần
trước tiên ở điện mới, để tự vui chơi, nên cầu thiện nhân, các
Sa-môn, Bà-la-môn, trước tiên vào để cúng dường, vậy sau ta sẽ
ở". Liền nhóm các thiện nhân, trước tiên vào bảo điện, cúng
dường đầy đủ các thứ vi diệu. Khi mọi người ra rồi, vua mới
vào bảo điện, lên lầu vàng, ngồi giường vàng, nghĩ tới việc
bố thí, trừ năm triền cái, nhiếp sáu căn, trừ sáu trần, thọ hỷ
lạc vào Sơ thiền. Tiếp lên lầu bạc, ngồi giường vàng, vào
Nhị thiền. Tiếp lên lầu Tỳ-lưu-ly, ngồi giường pha lê, vào
Tam thiền. Tiếp lên lầu pha lê, ngồi giường Tỳ-lưu-ly, vào Tứ
thiền. Ngồi một mình tư duy, suốt trong ba tháng.
Ngọc nữ, bảo hậu,
với tám vạn bốn ngàn thị nữ đông đủ, đều lấy ngọc trắng danh
bảo xâu làm chuỗi đeo thân, đến thưa với vua: "Từ lâu trái bỏ
hầu hạ, nay chúng tôi dám đến thăm hỏi". Vua bảo: "Các em
gái, các em mỗi người hãy đoan chánh tâm, nên làm người tri
thức của tôi, chớ làm kẻ oán của tôi". Ngọc nữ, bảo hậu, đều
rơi lệ nói: "Ðại vương! Sao gọi chúng tôi là em gái? Chắc
ngài có lòng khác, xin cho nghe ý ấy? Tại sao sắc bảo "Hãy
làm người tri thức, chớ làm kẻ oán của tôi?" Vua bảo rằng:
"Các vị nếu lấy tôi làm nhân duyên ở đời, chung hành dục sự
cho là vui sướng, thì đó là kẻ oán cuả tôi. Nếu giác ngộ được
lẽ vô thường, biết thân như huyễn, lo tu phước hành thiện, dứt
bỏ dục tình, thì đó là người tri thức của tôi". Các ngọc nữ
thưa: "Kính vâng lời như vua sắc". Nói lời ấy xong, liền bảo
nhau trở về.
Các ngọc nữ đi ra
rồi, vua lên lầu vàng, ngồi giường bạc, thực hành Từ tam
muội. Lên lầu bạc, ngồi giường vàng, thực hành Bi tam muội.
Lên lầu Tỳ-lưu-ly, ngồi giường pha lê, thực hành Hỷ tam muội.
Lên lầu báu pha lê, ngồi giường Tỳ-lưu-ly, thực hành Xả tam
muội, ấy là Bồ-tát bố thí phát sanh Thiền Ba-la-mật.
- Thế nào là
Bồ-tát bố thí phát sanh Bát-nhã Ba-la-mật? Khi Bồ-tát bố
thí, biết rõ sự bố thí này chắc chắn có quả báo không chút
nghi hoặc, phá được tà kiến vô minh, ấy là bố thí phát sanh
Bát-nhã.
Lại nữa, khi
Bồ-tát bố thí, có thể phân biệt biết: "Người không trì giới,
hoặc hay đánh đập tra khảo, giam trói trái phép; nhưng nếu
được tài vật mà biết làm bố thí, thì sẽ sanh ra trong loài
voi, ngựa, trâu. Tuy chịu thân hình súc sanh, chở nặng, bị
roi đánh, cùm xiềng, kéo xe, cỡi, nhưng thường được ở nhà tốt,
ăn ngon, được người quí trọng, được người cung cấp.
Lại biết người ác,
ôm lòng sân hận nhiều, tâm quanh co không ngay thẳng, mà biết
làm bố thí, sẽ đọa trong loài Rồng, được cung điện bảy báu, ăn
ngon, sắc đẹp.
Lại biết người
nhiều kiêu mạn bố thí với sân tâm, sẽ đọa trong loài chim
Kim-sí. Thường được tự tại; có ngọc báu Như ý để làm chuỗi
Anh lạc; mọi sự cần dùng đều được tự do, không có điều gì
không như ý; biến hóa vạn đoan; không việc gì không làm,
Lại biết người tể
quan, uổn lạm của nhân dân, không thuận theo pháp trị mà chiếm
lấy tài vật để dùng bố thí, sẽ đọa trong loài quỷ thần, làm
quỷ Cưu-bàn-trà biến hóa đủ cách, tự vui với Năm trần.
Lại biết người
nhiều sân giận, tàn nhẫn, ngang trái, yêu thích rượu thịt, mà
biết bố thí, sẽ đọa trong loài Dạ-xoa đi trên đất, thường được
các thứ hoan lạc, âm nhạc, ăn uống.
Lại biết có người
cang cường, ngang bướng, hùng hổ, mà biết bố thí, sẽ đọa trong
loài Dạ-xoa đi giữa hư không, có sức mạnh, đi đến nơi như gió.
Lại biết có người
tâm hay tật đố, ưa đấu tranh, song biết đem phòng xá, đồ nằm,
y phục, ăn uống tốt bố thí, cho nên sanh trong loài Dạ-xoa có
cung quán bay đi; có các vật thuận tiện làm vui thân.
Các thứ như vậy,
khi bố thí có thể phân biêït biết, ấy là Bồ-tát bố thí phát
sanh Bát-nhã.
Lại nữa, bố thí ăn
uống thì được quả báo có sức mạnh, sống lâu, an lạc, đồ ăn
ngon. Nếu bố thí y phục, khi sanh ra biết tàm quý, có oai đức
đoan chánh, thân tâm an lạc. Nếu bố thí phòng nhà, thời tự
nhiên có được các thứ cung quán bảy báu, tự vui thú năm dục.
Nếu bố thí giường, ao, suối nước, các thứ nước ngon, khi sanh
ra không bị đói khát, có đầy đủ năm dục lạc. Nếu bố thí cầu
đò và giày dép, khi sanh ra có đủ các thứ xe ngựa. Nếu bố thí
vưòn rừng, thời được hào qúy, tôn trọng, làm chỗ nương dựa cho
hết thảy, thọ thân đoan chánh, tâm vui không lo buồn. Những
hạng người như vậy, do nhân duyên bố thí mà được.
Nếu người bố thí,
tu hành phước đức, mà không ưa tác nghiệp sanh hoạt theo hữu
vi, thời sanh được chỗ Tứ-thiên-vương. Nếu người bố thí, còn
thêm cúng dường cha mẹ và chú bác anh chị, không sân không
hận, không ưa tranh cãi, thời sanh được vào cõi trời Ðao-lợi,
Diệm-ma, Ðâu-suất,
Hóa-tự-tại, Tha-hóa-tự-tại. Các
thứ phân biệt về bố thí như vậy; ấy là Bồ-tát bố thí phát sanh
Bát-nhã.
Nếu người bố thí,
mà tâm không nhiễm đắm, nhàm chán thế gian, cầu vui Niết-bàn;
ấy là A-la-hán, Bích-chi Phật bố thí.
Nếu người bố thí
mà vì Phật đạo, vì chúng sanh; ấy là Bồ-tát bố thí. Như vậy
trong các thứ bố thí đều phân biệt biết; ấy là Bồ-tát bố thí
phát sanh Bát-nhã Ba-la-mật.
Lại nữa, khi
Bồ-tát bố thí, tư duy thật tướng của ba sự (người thí, người
nhận, tài vật) như trên đã nói. Biết được như thế là Bồ-tát
bố thí phát sanh Bát-nhã Ba-la-mật.
Lại nữa, nhân
duyên của hết thảy trí tuệ và công đức đều do bố thí. Như
ngàn Phật khi mới phát tâm, là đem các thứ tài vật bố thí cho
chư Phật, hoặc lấy hương hoa, hoặc lấy y phục, hoặc lấy cành
dương bố thí để mà phát tâm. Các thứ bố thí như vậy, ấy
làBồ-tát bố thí phát sanh Bát-nhã Ba-la-mật.
(Hết cuốn 12 theo
bản Hán)
--o0o --
Mục Lục
Tập 01
Cuốn 1
| 2
| 3
| 4
| 5
| 6
| 7
| 8
| 9
| 10
11
| 12
| 13
| 14
| 15
| 16
| 17
| 18
| 19
| 20
--o0o --
Mục Lục Tổng Quát Luận Đại Trí Độ
Tập 01
|
Tập 02
|
Tập 03
|
Tập 04
|
Tập 05
--o0o --
Cập nhật: 01-07-2003