---o0o---
Cuốn 15
GIẢI THÍCH:
SẰN-ÐỀ BA-LA-MẬT PHÁP NHẪN
Sao
gọi là pháp nhẫn?
Nhẫn
đối với chúng sanh cung kính cúng dường
và đối với các người
phiền não, dâm dục; ấy gọi là Sanh nhẫn. Nhẫn đối với pháp
cung kính cúng dường
và pháp phiền não, dâm dục; ấy gọi là Pháp nhẫn.
Lại
nữa, Pháp nhẫn là trong không đắm sáu căn, ngoài không thọ sáu
trần. Ðối với hai thứ đó không khởi tâm phân biệt, vì sao?
Vì tướng
trong như
ngoài, tướng
ngoài như
trong, cả hai tướng
đều không thể có được
(bất khả đắc), vì là nhất tướng,
vì là nhân duyên hợp, vì là nó thật không, vì là hết thảy pháp
tướng
thường
thanh tịnh, vì là như
tánh tướng
pháp chơn
tế, vì là bất nhị thập, tuy không hai cũng không một. Quán
các pháp như
vậy, tâm tin chắc không lay chuyển, ấy gọi là nhẫn. Như
trong kinh Tỳ-ma-la-cật nói: ”Bồ-tát Pháp-Trụ nói: Sanh và
diệt là hai, bất sanh bất diệt là nhập pháp môn bất nhị. Cho
đến Văn-thù-thi-lỵ nói: “Không nghe, không thấy, tất cả tâm
duyệt, không thuyết, không nói là nhập pháp môn bất nhị.
Tỳ-ma-la-cật thì im lặng không nói. Các Bồ-tát tán thán:
“Lành thay! Lành thay! Ấy thật là nhập pháp môn bất nhị”.
Lại
nữa, hết thảy pháp có hai: 1- Chúng sanh, 2- Các pháp.
Bồ-tát nhẫn đối với chúng sanh, như
trước
đã nói. Nay nói nhẫn đối với pháp. Pháp có hai là: Tâm pháp
và phi tâm pháp. Trong phi tâm pháp có nội có ngoại. Ngoại
có rét, nóng, gió, mưa
v.v... Nội có đói, khát, già, bệnh, chết, v.v... Các thứ như
vậy gọi là phi tâm pháp. Trong tâm pháp có hai: 1-Sân nhuế,
ưu
sầu, nghi, v.v... 2- Dâm dục, kiêu mạn, v.v... Hai thứ đó gọi
là tâm pháp. Bồ-tát đối với hai pháp đó, an nhẫn không lay
động, ấy gọi là Pháp nhẫn.
Hỏi:
Ðối
với chúng sanh hoặc làm họ sân hận, làm não hại mạng họ thì
mắc tội, nếu thương
xót họ thì
được
phước.
Còn đối với lạnh, nóng, gió, mưa
... không có làm tăng hay tổn gì ai, vì sao mà phải nhẫn?
Ðáp:
Tuy
không tăng hay tổn, song tự mình sanh não loạn
ưu
khổ thì sẽ làm hại Bồ-tát đạo, vì vậy nên phải nhẫn.
Lại
nữa, không phải chỉ sát hại bức não chúng sanh nên mắc tội, mà
vì ác tâm làm nhân duyên nên mắc tội. Vì sao? Vì tuy giết
chúng sanh mà tâm vô ký, là không mắc tội, thường
nghĩ tới chúng sanh, tuy không cho gì mà rất
được
phước.
Lạnh, nóng, gió, mưa...
tuy không làm tăng tổn, nhưng
vì ác ý cho nên mắc tội. Do vậy, nên phải nhẫn.
Lại
nữa, Bồ-tát tự biết do nhân duyên của tội đời trước
nên sanh vào chỗ khổ này. Ấy là do ta làm, ta nên tự chịu.
Suy nghĩ như
vậy, cho nên hay nhẫn.
Lại
nữa, Bồ-tát suy nghĩ: “Quốc độ có hai thứ: Có thứ tịnh, có
thứ không tịnh. Bồ-tát nếu sanh vào trong Quốc độ không tịnh,
chịu cay đắng, đói rét các khổ, thì tự phát lời nguyện thanh
tịnh rằng: “Khi ta thành Phật, trong Quốc độ không có các thứ
khổ ấy...”. Như
vậy, quốc độ đây tuy không tịnh, nhưng
mà có lợi cho ta.
Lại
nữa, Bồ-tát suy nghĩ: “Tám pháp của thế gian, Hiền Thánh còn
không thể tránh
được,
huống gì là ta?” Do vậy, phải nên nhẫn.
Lại
nữa, Bồ-tát suy nghĩ: “Biết thân người
đây không bền, không mạnh, bị già bệnh chết đuổi theo. Tuy
lại còn có thân trời thanh tịnh, không già không bệnh, nhưng
lại đắm mê thú vui cõi trời thì cũng giống như
người
say, không thể tu hành phứơc
đức Thánh đạo, xuất gia lìa dục. Vì vậy nên đối nhân thân này
tự gắng nhẫn nhục tu phứơc,
lợi ích chúng sanh”.
Lại
nữa, Bồ-tát suy nghĩ: “Ta thọ xác thân tứ đại ngũ uẩn này, tất
phải chịu phần thống khổ. Không ai có thọ thân mà không khổ.
Giàu sang, nghèo hèn, xuất gia, tại gia, ngu trí, sáng tối,
không ai khỏi khổ
được,
vì sao? Vì người
giàu sang thường
hay sợ hãi, thủ hộ tài vật; giống như
dê béo, phải sớm đến máy đồ tể; như
Quạ tha miếng thịt, cả bầy Quạ đuổi theo. Người
nghèo hèn thì có cái khổ đói rét; người
xuất gia, đời nay tuy khổ mà đời sau hưởng
phước
đắc đạo. Người
tại gia, đời nay tuy vui, mà đời sau chịu khổ. Người
ngu lúc đầu cầu cái vui đời này, nhưng
khi vô thường
đối mặt đến, sau lại phải chịu khổ. Người
trí lúc đầu suy nghĩ về cái khổ vô thường,
sau lại
được
thọ vui. Như
vậy, người
đã có thọ thân, chẳng ai không khổ”. Cho nên Bồ-tát phải nên
thực hành nhẫn nhục.
Lại
nữa, Bồ-tát suy nghĩ: “Hết thảy thế gian đều khổ, làm sao ta ở
trong đó mà lại cầu vui
được?”
Lại
nữa, Bồ-tát suy nghĩ: “Ta ở trong vô lượng
kiếp, thường
chịu các khổ, mà không có lợi ích gì, chưa
từng vì pháp, ngày nay vì chúng sanh, mà cầu Phật đạo, tuy có
chịu khổ này, song sẽ
được
lợi lớn”. Thế nên đối với các khổ trong, ngoài, đều nên nhẫn
chịu.
Lại
nữa, Bồ-tát đại tâm thề nguyện rằng: “Nếu gặp cái khổ ở Vô
gián địa ngục mà ta còn phải nhẫn, huống chi cái khổ nhỏ mà
không thể nhẫn sao? Nếu khổ nhỏ không nhẫn
được
làm sao nhẫn
được
khổ lớn? Như
vậy nhẫn
được
các pháp bên ngoài, gọi là Pháp nhẫn.
Hỏi:
Làm
sao nhẫn
được
tâm pháp bên trong?
Ðáp:
Bồ-tát
suy nghĩ: “Ta tuy chưa
đắc đạo, các kiết sử chưa
dứt, nếu không nhẫn thì chẳng khác gì phàm phu, chẳng phải là
Bồ-tát”. Lại tự suy nghĩ: “Nếu ta đắc đạo, các kiết sử chưa
dứt hết, thời không còn có pháp chi để nhẫn”.
Lại
nữa, đói khát, lạnh nóng là ma quân bên ngoài; kiết sử, phiền
não là Ma tặc bên trong. Hãy phá hai tên quân đó để thành
Phật đạo. Nếu không như
vậy thời Phật đạo không thành. Như
nói trong khi Phật tu khổ hạnh sáu năm, Ma vương
đến nói” “Quý nhân giòng Sát-lợi, trong ngàn phần sanh của ngươi
chỉ còn có một phần sống! Mau mau đứng dậy trở về trong nước,
bố thí tu phước,
thì có thể
được
cái vui ở cõi người
cõi trời, đời này và đời sau. Ðạo không thể nào đắc, ngươi
chỉ luống công cần khổ. Nếu ngươi
không chịu nghe lời dịu ngọt, cố thủ sự u mê không đứng dậy,
thì ta đem đoàn đại quân đến đánh phá ngươi”.
Bồ-tát nói: Ta nay còn phá cả đội quân sức mạnh bên trong của
ngươi,
huống là đội quân bên ngoài?” Ma nói: “ Những gì là đội
quân bên trong của ta?” Bồ-tát đáp:
“Dục
là quân đầu của ngươi,
Ưu
sầu là quân thứ hai,
Ðói khát là quân thứ ba,
Khát ái là quân thứ tư,
Ngủ nghỉ là quân thứ năm,
Sợ
hãi là quân thứ sáu,
Nghi hối là quân thứ bảy,
Sân nhuế là quân thứ tám,
Lợi dưỡng,
hư
danh chín,
Tự
cao, kiêu mạn mười,
Các tên quân như
vậy,
Chán ghét người
xuất gia,
Ta
dùng sức thiền, trí,
Phá quân ấy của ngươi,
Ðược
thành Phật đạo rồi,
Ðộ
thoát hết mọi người”.
Bồ-tát tuy chư
athể các thứ quân ấy, nhưng
mặc áo giáp nhẫn nhục, cầm gươm
trí tuệ, cầm cái thuẩn thiền định, chặn các mũi tên phiền não,
ấy gọi là nội nhẫn.
Lại
nữa, Bồ-tát nên tu nhẫn đối với các phiền não, không nên dứt
kiết sử, vì sao? Vì nếu dứt kiết sử, thì bị mất mát rất
nhiều, bị rơi
vào con
đường
A-la-hán, không khác gì người
mà các căn bại liệt. Cho nên ngăn đỡ kiết sử mà không dứt.
Do tu nhẫn nhục, không theo kiết sử.
Hỏi:
Làm
sao kiết sử chưa
đứt mà không theo nó
được?
Ðáp:
Nhờ
Chánh tư
duy nên tuy có phiền não mà không theo nó.
Lại
nữa, nhờ tư
duy quán sát tướng
không, vô thường,
nên tuy có năm dục tốt đẹp, mà không sanh các kiết sử; ví như
Quốc vương
có một đại thần, tự che dấu tội, không người
nào biết. Vua bảo: “Ngươi
hãy chọn lấy một con dê béo mà không có mỡ đem lại đây, nếu
không
được
sẽ bắt tội ngươi”.
Vị đại thần có trí, cột một con dê lớn, khéo nuôi bằng cỏ,
lúa, song mỗi ngày cho ba con chó sói đến khủng bố, dê tuy
được
nuôi béo mà không mỡ. Khi dắt đến cho vua, vua sai người
giết, quả là béo mà không mỡ. Vua hỏi: “Làm sao
được
như
vậy?” Ðại thần đáp lại việc trên. Bồ-tát cũng như
vậy, vì do thấy chó sói vô thường,
khổ, không, nên làm cho mỡ các kiết sử phải tiêu, mà thịt các
công đức thì béo.
Lại
nữa, Bồ-tát do vô lượng
phước
báo công đức, nên tâm
được
nhu nhuyến, các kiết sử mỏng, dễ tu nhẫn nhục. Ví như
sư
tử chúa rống ở giữa rừng, có người
trông thấy, cúi đầu cầu xin, thời nó thả cho đi, nhưng
cọp beo là vật nhỏ, thì không thể thả như
vậy, vì sao? Vì sư
tử chúa là loài thú quý, có trí phân biệt , còn cọp beo là
loài trùng hèn, không biết phân biệt. Lại như
quân bại trận, gặp
được
đại tướng
thời sống, gặp phải tiểu binh thời chết.
Lại
nữa, Bồ-tát công đức trí tuệ lực quán sự sân nhuế có các điều
xấu ác, quán sự nhẫn nhục có các thứ công đức, cho nên hay
nhẫn các kiết sử.
Lại
nữa, tâm Bồ-tát có trí lực, hay dứt kiết sử, vì chúng sanh nên
trụ lâu tại thế gian. Biết kiết sử là giặc, cho nên nhẫn mà
không theo. Bồ-tát trói giặc kiết sử ấy lại, không cho phóng
túng, mà lo tu công đức. Ví như
có giặc, vì có nhân duyên nên không giết, chỉ nhốt kỹ một nơi
mà tự tu tập sự nghiệp.
Lại
nữa, Bồ-tát nhờ thật biết tướng
các pháp, nên không cho các kiết sử là xấu, không cho các công
đức là tốt, cho nên đối với kiết sử không sân, đối với công
đức không ái. Do trí lực ấy nên hay tu nhẫn nhục, như
kệ nói:
“Bồ-tát đoạn trừ các bất thiện,
Cho đến vi tế, dứt không còn,
Phước đại công đức
không có lượng,
Sự nghiệp tạo tác đều thành tựu.
Bồ-tát nhờ sức đại trí tuệ,
Nên các kiết sử không não hại.
Cho nên biết được
các pháp tướng.
Sanh tử Niết-bàn một không hai.”
Do
các nhân duyên như
vậy, tuy chưa
đắc đạo, mà có thể nhẫn đối với các pháp phiền não; ấy gọi là
Pháp nhẫn.
Lại
nữa, Bồ-tát đối với hết thảy pháp, biết là một tướng
không hai. Hết thảy pháp đều là pháp có tướng
khả thức, cho nên nói một. Nhãn thức thức sắc cho đến ý thức
thức pháp, ấy là pháp có tướng
khả thức, cho nên nói một.
Lại
nữa, hết thảy pháp có tướng
khả tri, cho nên nói một. Khổ pháp trí, khổ tỷ trí (khổ loại
trí), biết Khổ đế. Tập pháp trí, tập tỷ trí, biết Tập đế.
Diệt pháp trí, diệt tỷ trí, biết Diệt đế. Ðạo pháp trí, đạo
tỷ trí, biết Ðạo đế. Và thế trí thiện cũng biết được
Khổ, Tập, Diệt, Ðạo và hư
không, chẳng phải là trí duyên Diệt đế. Ấy là pháp có tướng
khả tri cho nên nói một.
Lại
nữa, hết thảy pháp có tướng
khả duyên, cho nên nói một. Nhãn thức và pháp tương
ưng
với nhãn thức duyên sắc, nhĩ thức, thiệt thức, thân thức cũng
như
vậy. Ý thức và pháp tương
ưng
với ý thức cũng duyên nhãn, cũng duyên sắc, cũng duyên nhãn
thức, cho đến duyên ý, duyên pháp, duyên ý thức. Hết thảy
pháp có tướng
khả duyên, cho nên nói một.
Lại
nữa, hết thảy pháp đều là một, một lại có một gọi là hai, ba
lần gọi là ba. Như
vậy cho đến ngàn, vạn cũng đều là một mà giả gọi là ngàn, vạn.
Lại
nữa, hết thảy pháp có tướng,
cho nên nói một. Do một tướng
gọi là một. Hết thảy vật gọi là pháp. Hết thảy vật gọi là
pháp, tướng
của pháp gọi là một. Do vô lượng
nhất môn như
vậy, nên phá tướng
khác, không đắm tướng
một, ấy gọi là pháp nhẫn.
Lại
nữa, Bồ-tát quán hết thảy pháp là hai. Thế nào là hai? Hai
là tướng
trong và tướng
ngoài. Vì có tướng
trong ngoài, nên tướng
trong chẳng phải ngoài, tướng
ngoài chẳng phải trong.
Lại
nữa, hết thảy pháp hữu tướng,
vô tướng
cho nên là hai. Không, bất không; thường,
phi thường;
ngã, phi ngã; sắc, phi sắc; thấy được,
không thấy được;
có đối ngại, không đối ngại; hữu lậu, vô lậu; hữu vi, vô vi;
tâm pháp, phi tâm pháp; tâm số pháp, phi tâm số pháp; pháp tương
ưng
với tâm, pháp không tương
ưng
với tâm. Do vô lượng
nhị môn như
vậy, nên phá tướng
một, không đắm tướng
hai; ấy gọi là Pháp nhẫn.
Lại
nữa, Bồ-tát quán hết thảy pháp là ba. Thượng,
trung, hạ; thiện, bất thiện, vô ký; có, không, chẳng phải có
chẳng phải không; kiến đế đoạn, tư
duy đoạn, không đoạn; học, vô học, phi học phi vô học; quả
báo, có quả báo, chẳng phải quả báo chẳng phải có quả báo. Do
vô lượng
tam môn như
vậy, nên phá tướng
một, không đắm tuớng khác; ấy gọi là Pháp nhẫn.
Lại
nữa, Bồ-tát tuy chưa
được
vô lậu đạo, kiết sử chưa
dứt, mà có thể tin Thánh pháp vô lậu, và ba pháp ấn: Một là
pháp ấn: hết thảy pháp hữu vi sanh đều vô thường.
Hai là pháp ấn: hết thảy pháp vô ngã. Ba là pháp ấn: Niết-bàn
chơn
thật. Bậc Hiền Thánh đắc đạo, tự được
tự biết. Bồ-tát tuy chưa
đắc đạo, mà có thể tin và thọ; ấy gọi là Pháp nhẫn.
Lại
nữa, đối với mười
bốn pháp nạn vấn không đáp. Có thường
hay không thường,
v.v... quán sát không ngăn ngại, không mất trung đạo, hay nhẫn
được
pháp ấy; gọi là Pháp nhẫn. Như
có một Tỳ-kheo đối với mười
bốn pháp nạn vấn ấy, tư
duy quán sát, không thể thông đạt được
nên tâm không nhẫn được,
mới ôm y bát đi đến chỗ Phật, bạch Phật rằng: “Phật có thể
giải mười
bốn nạn vấn này cho con, khiến cho con được
hiểu rõ, thì con sẽ làm đệ tử, nếu không thể hiểu rõ, thì con
sẽ đi tìm đạo khác”. Phật dạy: ”Người
ngu! Ông có từng
ước
hẹn với Ta, nếu Ta đáp mười
bốn nạn vấn thì ông làm đệ tử Ta chăng?” Tỳ-kheo nói: “Bạch
Thế Tôn, không!” Phật nói: ”Ông là người
ngu, sao nay lại nói nếu không đáp cho con, con sẽ không làm
đệ tử? Ta vì người
già, bệnh, chết mà thuyết pháp tế độ cho họ. Mười
bốn nạn vấn ấy là pháp đấu tranh, không ích chi đến Chánh
pháp, chỉ là hý luận, hỏi để làm chi? Nếu đáp cho ông, tâm
ông không rõ, đến chết vẫn không hiểu, vẫn không thoát được
sanh, già, bệnh, chết. Ví như
có người,
thân bị tên độc, bà con mời thầy thuốc để rút mũi tên, người
ấy bèn nói: “Chưa
được
rút mũi tên, trước
tiên phải nói cho tôi biết họ, tên, thân lý, cha mẹ, tuổi tác
người
bắn; tôi lại muốn biết mũi tên xuất từ núi nào, cây gì, lông
gì, bịt nhọn mũi tên là người
nào, làm bằng sắt gì, lại muốn biết chiếc cung làm bằng cây ở
núi nào, sừng con chi, rồi lại muốn biết cây thuốc sanh ở chỗ
nào, tên chủng loại gì? Những việc như
vậy tôi cần biết rõ tất cả, sau tôi mới cho người
rút mũi tên và xức thuốc”. Phật hỏi Tỳ-kheo: “Người
kia có thể cho biết hết mọi việc ấy, sau mới cho rút mũi tên
ư?”
Tỳ-kheo thưa:
“Không thể biết được.
Nếu chờ cho biết hết, thời đã chết mất rồi!” Phật nói: ”Ông
cũng như
vậy, bị mũi tên tà kiến, bôi thứ thuốc độc ái, đã thấm vào tâm
ông, trước
vì mũi tên ấy nên làm đệ tử Ta, nhưng
nay lại không muốn nhổ mũi tên, chỉ muốn tìm biết hết thế gian
là thường
hay vô thường,
hữu biên hay vô biên v.v... tìm biết chưa
được
thì đã mất tuệ mạng, chết như
súc sanh, tự rơi
vào tối tăm!” Tỳ-kheo hổ thẹn, biết sâu lời Phật, liền
chứng được
đạo quả A-la-hán.
Lại
nữa, Bồ-tát muốn làm người
Nhất thiết trí, nên suy tìm hết thảy pháp, biết thật tướng
của nó, đối trong mười
bốn nạn vấn không trệ, không ngại, biết nó là bệnh nặng của
tâm, nên thoát ra được,
nhẫn được;
ấy gọi là Pháp nhẫn.
Lại
nữa, Phật pháp thậm thâm, thanh tịnh vi diệu, diễn bày vô lượng
các thứ pháp môn, mà có thể nhất tâm tín thọ, không nghi,
không hối; ấy gọi là Pháp nhẫn. Như
Phật đã dạy: “Các pháp tuy không, cũng không đoạn, cũng không
diệt. Các pháp nhân duyên tương
tục sanh cũng chẳng phải thường.
Các pháp tuy vô ngã, mà cũng không mất tội phước.
Chỉ trong khoảnh khắc một niệm của tâm mà các pháp, các căn,
các tuệ nơi
thân chuyển diệt không ngừng, chẳng kịp đến niệm sau, cứ đổi
mới sanh diệt, cũng không mất nghiệp nhân duyên của vô lượng
đời. Tuy trong năm uẩn, mười
tám giới, mười
hai nhập đều không, vô ngã, mà chúng sanh vẫn luân chuyển
trong năm đường
chịu sanh tử. Ðối với các pháp thậm thâm vi diệu như
vậy, tuy chưa
đắc Phật đạo, mà có thể tin thọ, không nghi, không hối; ấy là
Pháp nhẫn.
Lại
nữa,
A-la-hán, Bích-chi Phật vì sợ sanh
tử xấu ác mà cầu vào Niết-bàn, còn Bồ-tát tuy chưa
được
thành Phật, mà muốn cầu Nhất thiết trí, và thương
xót chúng sanh muốn phân biệt rõ ràng thật tướng
các pháp. Nhẫn được
việc này, gọi là Pháp nhẫn.
Hỏi:
Làm
sao quán được
thật tướng
các pháp?
Ðáp:
Quán
các pháp không có tỳ vết, lỗ hổng, không thể phá, không thể
hoại, ấy là thật tướng.
Hỏi:
Tất
cả lời nói, đều có thể đáp, có thể phá, có thể hoại; tại sao
lại nói không thể phá hoại, ấy là thật tướng?
Ðáp:
Vì
các pháp không thể phá, nên trong Phật pháp tất cả đường
ngôn ngữ đều vượt
qua, chỗ tâm đi qua đều dứt bặt, thường
bất sanh bất diệt, như
tướng
Niết-bàn, vì sao? Vì nếu các pháp tướng
là thật có, thời lúc sau chẳng nên không có, nếu các pháp trước
có mà nay không, tức là đoạn diệt.
Lại
nữa, các pháp chẳng phải là thường,
vì sao? Vì nếu thường
tức không có tội, không có phước,
không có sát thương,
cũng không có thí cho mạng sống, cũng không có lợi ích tu
hành, cũng không triền phược,
không giải thoát, thế gian là Niết-bàn. Do nhân duyên như
vậy, các pháp chẳng phải thường.
Nếu các pháp là vô thường
thời là đoạn diệt, cũng không có tội, không có phước,
cũng không thêm bớt, các nghiệp nhân duyên quả báo đều mất.
Do nhân duyên như
vậy, các pháp chẳng phải vô thường.
Hỏi:
Ông
nói trong Phật pháp thường
cũng chẳng thật, vô thường
cũng chẳng thật, sự ấy không đúng, vì sao? Vì trong Phật pháp
thường
cũng thật, vô thường
cũng thật. Thường
là thường
duyên diệt đế, phi thường
thường
duyên diệt đế, chẳng thường
thường
duyên diệt đế, hư
không, không sanh, không trụ, không diệt, ấy là tướng
thường.
Tướng
vô thường
là, năm uẩn sanh, trụ, diệt là tướng
vô thường,
vì sao ông nói thường
và vô thường
đều chẳng thật?
Ðáp:
Thánh
nhân có hai lối nói: 1- Nói phương
tiện. 2- Nói thẳng. Nói phương
tiện là vì người,
vì nhân duyên. Vì người
là vì chúng sanh mà nói là thường,
là vô thường,
như
trong đoạn “Ðối trị Tất Ðàn” đã nói: “Nếu nói vô thường
là vì muốn cứu chúng sanh khỏi đắm say trong cái vui ba cõi.
Phật suy nghĩ nên lấy pháp gì để khiến chúng sanh được
xa lìa dục, cho nên mới nói các pháp là vô thường”,
như
kệ nói:
“Nếu quán pháp vô sanh,
Ðối pháp sanh được lìa,
Nếu quán pháp vô vi,
Ðối hữu vi được lìa.”
Thế
nào là sanh? Sanh là nhân duyên hòa hợp, vô thường,
không tự tại, thuộc nhân duyên, có tướng
già, bệnh, chết, tướng
hư
dối, tướng
phá hoại; ấy gọi là sanh. Sanh là pháp hữu vi. Như
trong Ðối trị Tất Ðàn nói: “Thường
và vô thường
đều chẳng phải là tướng
thật, vì cả hai đều sai lầm”. Nếu nói các pháp chẳng phải hữu
thường,
chẳng phải vô thường,
ấy là lối lý luận ngu si, vì cớ sao? Vì nếu chẳng phải có
thời phá không, nếu chẳng phải không thời phá có, nếu phá cả
hai sự ấy, thì còn có pháp gì nữa để nói?
Hỏi:
Trong Phật pháp thường
nói không tướng,
chẳng có chẳng không. Không để trừ có, không không để ngăn
không, ấy là chẳng có, chẳng không; sao lại cho là lý luận ngu
si?
Ðáp:
Thật
tướng
chẳng phải có, chẳng phải không, theo trong Phật pháp nói là
không lãnh thọ, không chấp trước.
Còn chẳng phải có, chẳng phải không của ông nói là có lãnh
thọ, có chấp trước,
nên cho là lý luận ngu si. Nếu nói: “Chẳng phải có, chẳng
phải không” thế là có thể nói, có thể phá, là chỗ tâm sanh
khởi, là chỗ đấu tránh. Phật pháp thời không như
vậy. Tuy theo nhân duyên mà nói: “chẳng phải có, chẳng phải
không “ Nhưng
không sanh tâm chấp trước,
không sanh tâm chấp trước
nên không thể hoại, không thể phá. Các pháp hoặc hữu biên,
hoặc vô biên, hoặc vừa hữu biên vừa vô biên, hoặc chẳng phải
hữu biên vô biên, hoặc còn có đi sau khi chết, hoặc không còn
có đi sau khi chết, hoặc vừa có đi vừa không đi sau khi chết,
hoặc chẳng phải có đi chẳng phải không đi sau khi chết, thân
xác là phần hồn, hoặc thân xác khác phần hồn khác, cũng như
vậy, đều chẳng thật. Quán các pháp theo như
trong sáu mươi
hai kiến chấp cũng đều chẳng thật, khước
trừ hết thảy những điều như
vậy, tin Phật pháp là tướng
thanh tịnh bất hoại, tâm không hối hận, không lay chuyển; ấy
gọi là Pháp nhẫn.
Lại
nữa, hữu vô nhị biên, quán các pháp khi sanh, khi trụ, thời là
tướng
hữu kiến. Quán các pháp khi già, khi hoại thời là tướng
vô kiến. Chúng sanh trong ba cõi phần nhiều đắm trước
vào hai kiến đó. Cả hai thứ pháp ấy hư
dối không thật. Hữu tướng
thời chẳng phải vô, vì sao? Vì nay không trước
có là rơi
vào đoạn diệt, nếu đoạn diệt thời là không đúng.
Lại
nữa, hết
thảy các pháp, do danh tự hoà hợp, nên mới gọi đó là có. Do
vậy, pháp do danh tự hoà hợp sanh là pháp chẳng thể có được
(bất khả đắc).
Hỏi:
Pháp
do danh tự
hoà hợp sanh, tuy chẳng thể có được,
song vẫn có danh tự hoà hợp?
Ðáp:
Nếu
không có pháp, thì
danh tự hoà hợp vì
cái gì? Thế ấy là không danh tự.
Lại
nữa, nếu các
pháp thật có, thời không phải cần do tâm thức biết nên mới có,
thế thời chẳng phải có. Như
tướng
cứng của đất, do thân căn, thân thức biết nên mới có. Nếu
không có thân căn, thân thức biết thời không có tướng
cứng.
Hỏi:
Thân
căn, thân thức, hoặc biết, hoặc không biết, thì đất vẫn thường
là tướng
cứng?
Ðáp:
Ðó
là do trước
đã tự biết có tướng
ấy, hoặc do người
khác nói mà biết là có
tướng
cứng. Nếu trước
không tự biết, không nghe người
nói, thời không có
tướng
cứng.
Lại
nữa, đất thường
là tướng
cứng, thời không nên bỏ tướng
đó, như
sữa đặc, sáp ong, nhựa cây, gặp khí nóng tan ra thời bỏ tướng
cứng mà trở thành tướng
ướt;
vàng, bạc, đồng, v.v... sắt cũng như
vậy. Như
nước
là tướng
lỏng
ướt
gặp khí lạnh thời chuyển thành tướng
đặc cứng. Như
vậy, các thứ đều là xả bỏ tướng.
Lại
nữa, các luận nghị sư
có thể khiến có thành không, khiến không thành có. Các bậc
Hiền Thánh, người
tọa thiền, có thể khiến đất thành nước,
nước
thành đất. Như
vậy, các pháp đều có thể chuyển đổi; như
nói trong mười
pháp nhất thiết nhập hoặc gọi mười
biến xứ.
Lại
nữa, hữu kiến (chấp có) ấy phát sanh vì có tham dục, sân nhuế,
ngu si, kiết phược,
đấu tránh cho nên chỗ nào sanh tham dục, sân nhuế v.v... ấy là
không phải Phật pháp, vì sao? Vì tướng
của Phật pháp là lành, là trong sạch. Do thế nên chẳng phải
thật.
Lại
nữa, hết
thảy pháp có hai thứ: Sắc pháp và
vô sắc pháp. Sắc pháp thời phân tích cho đến cực vi, tan mất
không còn gì, như
đã nói trong chương
Ðàn Ba-la-mật đoạn phá bác về bố thí. Vô sắc pháp thì ngũ
thức không biết được,
khi ý thức sanh, trụ, diệt, quán sát biết tâm có phần đoạn, có
phần đoạn nên vô thường,
vô thường
nên không, không nên chẳng phải có, trong khoảng gảy móng tay
có đến sáu mươi
thì (niệm, thời gian rất ngắn) trong mỗi thì, tâm có sanh
diệt, do tương
tục sanh, nên biết ấy là tâm tham, ấy là tâm sân, ấy là tâm
si, ấy là tâm tín, ấy là tâm thanh tịnh, trí tuệ, thiền định.
Hành giả quán tâm sanh rồi diệt như
dòng nước,
như
ngọn đèn; ấy là cửa ngõ đi vào không trí, vì sao? Vì nếu tâm
một thời sanh, còn trong các thời khác diệt, thì tâm ấy nên là
thường,
vì sao? Vì trong thời gian tâm sanh rất ngắn ấy không có
diệt. Nếu trong một thời ấy đã không có diệt, thời phải nên
trước
sau đều không diệt.
Lại
nữa, Phật nói pháp hữu vi đều có ba tướng,
nếu trong thời gian rất ngắn, chỉ sanh mà không diệt, thì đó
không phải là pháp hữu vi. Nếu trong thời gian rất ngắn tâm
có sanh, trụ, diệt, thời vì sao chỉ trước
sanh mà sau diệt, chứ không trước
diệt mà sau sanh?
Lại
nữa, nếu trước
có tâm, sau có sanh thời tâm không cần đợi sanh, vì sao? Vì
trước
đã có tâm vậy. Nếu trước
đã có sanh, thời sanh không còn sanh làm gì nữa. Lại sanh và
diệt tánh trái nhau, khi sanh thời không thể có diệt, khi diệt
thời không thể có sanh. Do lẽ đó, nhất thời cũng không thể có
được.
Thế tức là vô sanh, nếu vô sanh thời vô trụ, vô diệt; nếu
không sanh, trụ, diệt thời không tâm số pháp; không tâm số
pháp, thời không có các tâm bất tương
ưng
hành, sắc pháp, vô sắc pháp đã không thời vô vi pháp cũng
không, vì cớ sao? Vì nhân hữu vi nên có vô vi, nếu không có
hữu vi thời không có vô vi.
Lại
nữa, thấy pháp có tạo tác là vô thường,
nên biết pháp không tạo tác là thường.
Nếu như
vậy, nay thấy pháp tạo tác phải là có pháp, thì pháp không tạo
tác phải là không pháp. Vì thế nên pháp “Thường”
là không thể có được
(bất khả đắc).
Lại
nữa, ngoại đạo và đệ tử Phật, nói pháp “Thường”
có chỗ đồng nhau, có chỗ khác nhau. Chỗ đồng là như
nói hư
không, Niết-bàn; chỗ khác là ngoại đạo nói có ngã, thời, phương,
vi trần, minh sơ.
Có đệ tử Phật nói, chẳng phải thường
xuyên diệt đế. Lại nói pháp nhân duyên là thường;
pháp do nhân duyên sanh là vô thường.
Trong Ðại thừa nói pháp thường
như
nói pháp tánh, như
như,
chơn
tế; như
vậy gọi là pháp thường.
Còn như
hư
không, Niết-bàn thì như
trong chương
Tán thán Bồ-tát trước
kia đã nói. Thần, thời, phương,
vi trần, cũng như
trước
đã nói. Do vậy không nên nói các pháp là có.
Nếu
các pháp không, có hai thứ: 1- Thường
không. 2- Ðoạn diệt nên không, hoặc trước
có nay không, hoặc nay có sau không, ấy là đoạn diệt. Nếu vậy
thời không có nhân duyên, không nhân duyên thì trong một vật
xuất sanh hết thảy vật, mà cũng có thể trong một vật không
xuất sanh gì hết. Ðời sau cũng như
vậy. Nếu dứt mất nhân duyên tội phước
thời không thể có sự giàu nghèo, sang hèn khác nhau và bị đọa
vào trong ác đạo, súc sanh.
Nếu
nói thường
không, thời không có Khổ, Tập, Diệt, Ðạo. Nếu không có Tứ đế,
thời không có Pháp bảo, thời không có Tám đạo quả Hiền Thánh.
Nếu không Pháp bảo, Tăng bảo, thời không có Phật bảo. Nếu như
vậy thời phá hoại Tam Bảo. Lại nữa, nếu hết thảy pháp thật
không, thời không có tội phước,
không có cha mẹ, cũng không có lễ nghĩa phép tắc thế gian,
cũng không có thiện ác. Vậy thời thiện ác đồng môn, thị phi
nhất quán, hết thảy mọi vật đều không, như
thấy trong mộng. Nếu nói thật không, thì có lỗi như
vậy, lời nói ấy ai mà tin được!
Nếu
cho rằng vì điên đảo nên thấy có, vậy sao đang khi thấy một người
lại không thấy thành hai, ba, là vì nó thật không mà điên đảo
thấy.
Nếu
không rơi
vào hai kiến có, không ấy, thời biết được
trung đạo thật tướng.
Làm sao biết thật?
Ðúng
như
điều được
biết, được
nói của hằng hà sa chư
Phật Bồ-tát quá khứ; điều được
biết, được
nói của hằng hà sa chư
Phật Bồ-tát vị lai; điều được
biết, được
nói của hằng hà sa chư
Phật Bồ-tát hiện tại, mà sanh lòng tin lớn lao không nghi
không hối, có sức tin lớn lao nên hay trì hay thọ; ấy gọi là
Pháp nhẫn.
Lại
nữa, do sức thiền định nên tâm nhu nhuyến, thanh tịnh, và khi
nghe đến thật tướng
các pháp, tâm liền càng ứng hợp, tin chặt vào sâu, không nghi
không hối. Vì cớ sao? Nghi và hối là pháp hệ thuộc Dục giới,
vì nó thô ác nên không dính vào trong tâm nhu nhuyến; ấy gọi
là Pháp nhẫn.
Lại
nữa, do trí tuệ lực nên khi quán
hết thảy các pháp
mà không có một pháp khả đắc. Nhẫn
được,
thọ được
pháp ấy là không nghi, không hối; ấy gọi là Pháp nhẫn.
Lại
nữa, Bồ-tát suy nghĩ rằng: “Hàng phàm phu vì cái độc vô minh
nên đối hết
thảy các pháp chuyển thành tướng
khác, phi thường
tưởng
thành thường,
khổ tưởng
thành vui, vô ngã tưởng
thành có ngã; không mà cho là có
thật, phi hữu là hữu, hữu là phi hữu”. Như
vậy trong chủng chủng pháp chuyển thành ra tướng
khác. Ðược
trí tuệ Thánh hiền phá cái độc vô minh, biết rõ thật tướng
các pháp, được
có trí tuệ biết vô thường,
khổ, không, vô ngã, vứt bỏ không chấp trước.
Nhẫn được
pháp ấy gọi là Pháp nhẫn.
Lại
nữa, quán
hết thảy các pháp từ trước
đến nay thường
không, đời nay cũng không, tin được,
thọ được
Pháp ấy gọi là Pháp nhẫn.
Hỏi:
Nếu
quán hết
thảy các pháp từ trước
đến nay thường
không, đời nay cũng không, thế là ác tà kiến, sao lại nói là
Pháp nhẫn?
Ðáp:
Nếu
quán các pháp rốt ráo không, tâm thủ trước
không ấy, thời đó là ác tà kiến. Nếu quán không mà không thủ
trước,
không sanh tà kiến, thời đó là Pháp nhẫn, như
kệ nói:
“Các pháp tánh thường không,
Tâm chẳng thủ trước không.
Nhẫn được pháp như vậy,
Là sơ tướng Phật đạo”.
Như
vậy các cửa nhập vào trí huệ, quán thật tướng
các pháp, tâm không thối chuyển, không hối hận, không tùy theo
các giác quán, cũng không lo buồn, được
tự lợi lợi tha; ấy gọi là Pháp nhẫn.
Pháp
nhẫn ấy có ba thứ hành tướng
thanh tịnh là: Không thấy pháp nhẫn nhục, Không thấy thân
mình, không thấy người
nhục mạ; không hý luận các pháp, khi ấy gọi là pháp nhẫn thanh
tịnh. Vì lẽ đó, nói Bồ-tát khi trụ trong Bát-nhã Ba-la-mật,
có thể được
nhẫn nhục Ba-la-mật, vì không lay động, không thối chuyển.
Sao
gọi là không lay động, không thối chuyển? Nghĩa là không sanh
sân giận, không xuất lời ác, thân không gây ác, tâm không nghi
hoặc. Bồ-tát biết thật tướng
Bát-nhãBa-la-mật, không xuất lời ác, thân không gây ác, tâm
không nghi hoặc. Nếu người
đến mắng, hoặc làm đau đớn, giết hại, hết thảy đều nhẫn. Do
vậy, nên nói tâm trụ trong Bát-nhãBa-la-mật, thời có thể đầy
đủ nhẫn nhục Ba-la-mật.
CHƯƠNG
25
KINH: Thân tâm tinh tấn không giải đãi, nên có thể đầy đủ
Tỳ-lê-gia (tinh tấn) Ba-la-mật.
LUẬN:
Hỏi:
Tinh
tấn là gốc hết thảy các thiện pháp, đáng phải ở đầu hết, nay
cớ sao nó lại ở vào hàng thứ tư?
Ðáp:
Bố
thí, trì giới, nhẫn nhục ở thế gian thường
có; như
cái đạo nghĩa giữa khách và chủ theo lẽ phải cung cấp cho
nhau, đến như
súc sanh cũng biết cách bố thí đó. Hoặc có người
vì lý do này, lý do khác, cho nên bố thí; hoặc vì đời này,
hoặc vì đời sau, hoặc vì đạo cho nên bố thí mà không cần tinh
tấn. Còn như
trì giới là vì thấy người
làm ác, bị phép vua trị tội nên sợ hãi mà không dám làm quấy.
Hoặc sẵn có tánh thiện, nên không làm điều ác. Hoặc có người
nghe nói đời này làm ác, đời sau chịu tội mà sợ hãi, cho nên
trì giới. Hoặc có người
nghe nói, do trì giới mà xa lìa
được
cảnh khổ, sanh, già, bệnh, chết, nên trong tâm sanh, miệng
nói: “Ta từ ngày nay không còn sát sanh”. Như
vậy, đó là giới, đâu cần có tinh tấn Ba-la-mật mới làm
được
ư?
Như
trong phép nhẫn nhục, hoặc bị mắng, bị đánh, bị giết mà hoặc
vì sợ nên không đáp trả, hoặc vì sức kém, vì sợ tội lỗi, hoặc
vì tu theo pháp thiện nhân, hoặc vì cầu đạo cho nên giữ yên
lặng không đáp trả, đều là không cần phải có tinh tấn
Ba-la-mật mới nhẫn
được.
Nay
muốn
được
biết thật tướng
các pháp, phải thực hành Bát-nhã Ba-la-mật và nên tu hành
thiền định. Thiền định là cánh cửa trí tuệ chơn
thật, trong ấy phải siêng tu tinh tấn, nhất tâm hành thiền.
Lại
nữa, bố thí, trì giới, nhẫn nhục là phước
đức lớn,
được
an ổn khoái lạc, có danh dự tốt, muốn gì
được
nấy. Ðã biết
được
mùi vị của phước
lợi ấy, nay muốn tinh tấn để tiếp tục có
được
thiền định, trí tuệ thắng diệu, thời ví như
đào giếng, đã thấy bùn
ướt,
càng thêm tinh tấn, hy vọng chắc chắn có nước,
lại cũng như
dùi lửa, đã thấy
được
khói, gắng sức gấp bội, chắc chắn thấy
được
lửa.
Muốn
thành Phật đạo, phàm có hai môn: 1- Phước
đức, 2- Trí tuệ. Tu hành bố thí, trì giới, nhẫn nhục, là môn
phước
đức. Ðại Bát-nhã Ba-la-mật biết thật tướng
hết thảy các
pháp là môn trí tuệ. Bồ-tát nhập vào phước
đức môn thì trừ hết thảy tội, sở nguyện đều thỏa mãn. Nếu
không
được thỏa
mãn, là vì tội cấu ngăn che. Bồ-tát nhập vào trí tuệ môn thời
không chán ngán sanh tử, không
ưa vui
Niết-bàn, vì hai việc là một. Nay muốn xuất sanh Ðại
Bát-nhã Ba-la-mật thì phải nhân nơi
thiền định môn, và muốn có thiền định môn cần phải nhờ đến sức
đại tinh tấn, vì cớ sao? Vì ở Dục giới loạn tâm, không thể
thấy
được
thật tướng
của các pháp; ví như
đèn ở giữa gió, ánh sáng không thể chiếu rõ vật, nhưng
đèn ở trong nhà kín, ánh sáng chắc chắn chiếu rõ
được.
Thiền
định, trí tuệ ấy, không thể lấy phước
đức mà cầu
được,
cũng không phải quán chiếu sơ
sài mà
được,
mà phải thậm thâm tinh cần gấp rút bám chặt không giải đãi,
mới thành tựu
được.
Như
Phật từng nói dù cho huyết, thịt, mỡ, tủy kiệt hết, chỉ còn
lại da, xương,
gân cũng không bỏ tinh tấn, thời như
vậy mới
được
được
thiền định, trí tuệ. Ðược
hai việc này thời mọi việc đều thành. Do vậy nên tinh tấn
đứng vào thứ tư,
làm căn bản cho thiền định, trí tuệ chơn
thật. Trong ba thứ đầu tuy đều có tinh tấn, nhưng
vì ít cho nên không nói.
Hỏi:
Có
người
nói: “Chỉ thực hành bố thí, trì giới, nhẫn nhục là
được
đại phước
đức, khi
được
đại phước
đức thời sở nguyện đều thành tựu, thiền định, trí tuệ tự nhiên
đến, vậy cần gì phải có tinh tấn Ba-la-mật?
Ðáp:
Phật
đạo sâu xa khó
được,
tuy có sức bố thí, trì giới, nhẫn nhục, song cần phải có tinh
tấn mới
được
thiền định sâu xa, trí tuệ chân thật và vô lượng
Phật pháp. Nếu không thực hành tinh tấn thời không sanh
thiền định, khi thiền định không sanh thời cõi Phạm-thiên-vương
cũng không thể sanh đến
được
huống gì muốn cầu
được
Phật đạo
ư?”
Lại
nữa, có người
như
Dân Ðại cư
sĩ v.v... muốn
được
vô lượng
phước
báu, thời đều
được
như
ý. Như
vua Ðảnh Sanh làm vua cả bốn châu thiên hạ, trời mưa
xuống bảy báu và các vật cần dùng, lại còn
được
trời Ðế-thích chia chỗ cho ngồi. Tuy có phước
aáy nhưng
không thể đắc đạo. Như
Tỳ-kheo La-tần-châu tuy chứng
được
đạo quả A-la-hán, nhưng
khi đi khất thực đến bảy ngày mà không có
được
vật gì, đành phải mang bình bát không trở về, sau dùng lửa
thiền định tự thiêu thân mà vào Niết-bàn. Do đó, nên biết
chẳng phải chỉ có sức phước
đức mà đắc đạo
được.
Muốn thành Phật đạo, cần phải đại tinh tấn.
Hỏi:
Bồ-tát xem tinh tấn có lợi ích gì mà siêng tu, không giải
đãi?
Ðáp:
Hết
thảy đạo đức lợi ích đời này đời sau đều do
tinh tấn mà có
được.
Lại
nữa, nếu người
muốn tự độ thân, còn phải cần kíp tinh tấn, huống chi Bồ-tát
thệ nguyện muốn độ tất cả chúng sanh. Như
trong bài kệ tán thán tinh tấn nói:
“Người mà không tiếc thân,
Tâm trí tuệ quyết định,
Tinh tấn đúng như pháp.
Việc mong cầu không khó.
Như nông phu siêng làm,
Thu hoạch chắc đầy đủ,
Cũng như đi đường xa,
Siêng đi chắc mau đến.
Nếu được sanh cõi Trời,
Và được vui Niết-bàn,
Lý do được như vậy,
Ðều do sức tinh tấn..
Chẳng trời, chẳng vô nhân,
Tự làm nên tự được,
Ðâu phải người trí tuệ,
Mà không tự gắng sức?
Lửa ba cõi cháy bùng,
Ví như ngọn lửa lớn.
Người có trí quyết đoán,
Mới được thoát ra khỏi!
Do vậy nên Phật bảo
A-nan! Phải tinh tấn!
Như vậy không giải đãi,
Ði thẳng đến Phâït đạo.
Mạnh mẽ mà siêng làm.
Ðào đất thông được suối,
Tinh tấn cũng như vậy,
Không gì không cầu được.
Như hành được đạo pháp,
Tinh tấn không giải đãi,
Chắc được vô lượng quả,
Báo ấy trọn không mất”.
Lại
nữa, pháp tinh tấn là căn bản của mọi điều thiện, có thể xuất
sanh hết thảy các thiện đạo, cho đến
được
Vô thượng
Chánh đẳng Bồ-đề, huống gì là lợi nhỏ! Tất cả đều từ tinh
tấn, không phóng dật mà phát sanh.
Lại
nữa, tinh tấn có thể làm phát động phước
đức đời trước,
như
mưa
thấm hạt giống, làm cho mọc mầm, đây cũng như
vậy. Tuy có phước
đức nhân duyên đời trước,
nếu không có tinh tấn thời không phát sanh
được,
cho nên đến cái lợi đời này còn không có
được,
huống chi
được
Phật đạo?
Lại
nữa, các đại Bồ-tát cứu vớt chúng sanh, phải chịu đủ thứ khổ,
cho đến khổ trong địa ngục A-tỳ, tâm cũng không giải đãi; ấy
là tinh tấn.
Lại
nữa, hết thảy mọi sự, nếu không tinh tấn thời không thành
được.
Ví như
thuốc xổ, lấy vị bả đậu làm chủ, nếu bỏ bả đậu thời không đủ
để xổ. Như
vậy Bốn niệm xứ (ý chỉ), Bốn thần túc, Năm căn, Năm lực, Bảy
giác chi, Tám chánh đạo, chắc chắn phải cần có tinh tấn; nếu
không có tinh tấn thời mọi việc không thành. Như
giới chỉ có trong Tám chánh đạo, các chỗ khác không có; tín
chỉ chỉ có trong Năm căn, Năm lực, các chỗ khác không có; còn
tinh tấn thời không chỗ nào không có. Tinh tấn tuy có khắp
trong các pháp mà vẫn riêng tự có mặt sai khác; ví như
vô minh sử tuy có khắp trong hết thảy các kiết sử, mà vẫn
riêng có bất cọng vô minh.
Hỏi:
Bồ-tát muốn
được
hết thảy Phật pháp, muốn độ
hết thảy chúng
sanh, muốn diệt hết thảy phiền não, đều
được như
ý; sao còn phải tăng thêm tinh tấn
mới có thể
được
thành Phật; như
đốm lửa nhỏ không thể đốt rừng lớn, phải có thế lửa tăng thêm
mới có thể đốt tất cả?
Ðáp:
Bồ-tát
từ khi sơ
phát tâm, thệ nguyện sẽ độ
hết thảy chúng
sanh, làm cho họ
được hoan
lạc, thường
vì hết thảy, không tự tiếc thân,
nếu tiếc thân thì không thể thành tựu các thieän pháp. Do vậy
phải tăng thêm tinh tấn.
Lại
nữa, Bồ-tát dùng đủ lý do qưở
trách tâm giải đãi, khiến mê say tinh tấn. Ðám mây đen giải
đãi che lấp ánh sáng trí tuệ, nuốt mất các công đức, tăng trưởng
điều bất thiện. Người
giải đãi lúc đầu tuy
được
vui nhỏ mà về sau thời bị khổ lớn. Ví như
đồ ăn có độc, lúc đầu tuy thơm
ngon, mà lâu thời chết người.
Tâm giải đãi đốt cháy các công đức, ví như
lửa lớn đốt cháy hết rừng cây hoang dã. Người
giải đãi bị mất hết các công đức; ví như
bị giặc cướp,
không còn lại chút gì, như
kệ nói:
“Ðáng được mà chẳng được,
Ðã được rồi lại mất,
Ðã tự khinh thân mình,
Mọi người cũng không kính.
Thường ở chỗ rất tối,
Không có các uy đức.
Pháp trí tuệ tôn quý,
Việc ấy mất vĩnh viễn.
Nghe các pháp diệu đạo,
Không thể giúp ích thân,
Các tội lỗi như thế,
Ðều do tâm giải đãi,
Tuy nghe pháp tăng ích,
Chẳng thể được tới trên,
Các tội lỗi như thế,
Ðều do tâm giải đãi,
Sanh nghiệp không tu lý,
Không được vào đạo pháp,
Các tội lỗi như thế,
Ðều do tâm giải đãi.
Bậc thượng trí bỏ xa,
Trung nhân thường lại gần,
Hạ ngu vì đó chìm,
Như heo ưa ở chuồng,
Nếu làm người ở đời,
Ba việc đều phế mất,
Dục lạc và tài vật,
Phước đức cũng mất luôn.
Nếu làm người xuất gia,
Thời không được hai việc,
Sanh Thiên và Niết-bàn,
Danh dự mất cả hai.
Những phế mất như vậy
Muốn biết lý do nó,
Trong hết thảy các giặc,
Không qua giặc giải đãi.
Vì có các tội ấy,
Không nên nuôi tâm nhác,
Hai Tỳ-kheo Mã, Tĩnh,
Giải đãi sa ác đạo,
Tuy thấy Phật nghe Pháp,
Cũng chẳng thoát khỏi được”.
Quán
các tội lỗi của giải đãi như
vậy, mà tinh tấn
được
tăng trưởng.
Lại nữa,
quán sát sự lợi ích của tinh tấn, thời biết cái lợi của đời
này đời sau, Phật đạo hay Niết-bàn mà có
được,
là đều do tinh tấn.
Lại
nữa, Bồ-tát biết
hết thảy các pháp
đều là không, không có gì, nhưng
không chứng Niết-bàn, chỉ vì thương
xót chúng sanh, chứa nhóm các điều thiện, ấy là sức
tinh tấn Ba-la-mật.
Lại
nữa, Bồ-tát chỉ là một người
đơn
độc không có bằng hữu, chỉ do sức phước
đức tinh tấn mà phá
được
Ma quân và giặc kiết sử,
được
thành Phật đạo. Ðã
được
Phật đạo, đối với
hết thảy các pháp
thấy rõ là nhất tướng
vô tướng,
nó thật đều là không, song Bồ-tát
vì chúng sanh mà thuyết các danh tự về các pháp, dùng các phương
tiện khéo léo độ thoát chúng sanh khỏi khổ sanh, già, bệnh,
chết. Khi sắp diệt độ đem pháp thân (giáo pháp) trao cho
Bồ-tát Di-lặc, Ðại Ca-Diếp, A-nan v.v... vậy sau vào Kim-cang
tam-muội, tự làm nát thân cốt ra như
hạt cải để độ chúng sanh mà không rời bỏ sức tinh tấn.
Lại
nữa, như
A-nan vì các Tỳ-kheo nói về Bảy giác ý, cho đến tinh tấn giác
ý, Phật hỏi
A-nan: “Thầy nói tinh tấn giác ý
ư?”
A-nan thưa:
“Con nói tinh tấn giác ý”. Như
vậy ba lần hỏi ba lần đáp, Phật liền từ chỗ ngồi đứng dậy bảo
A-nan: “Thầy
ưa
thích tu hành tinh tấn thì không việc gì không
được,
được
đến Phật đạo, trọn đời không hư
dối”.
Do
các nhân duyên như
vậy, quán xét sự lợi ích của tinh tấn mà
được
tăng trưởng
lợi ích. Và sự tinh tấn như
vậy, có khi Phật nói là dục, có khi nói là tinh tấn, có khi
nói là không phóng dật. Ví như
người
muốn đi xa, khi bắt đầu muốn đi, thế gọi là dục; cất bước
không ngừng, thế gọi là tinh tấn; tự khuyến khích cố gắng,
không để cho việc làm ngăn trở; thế gọi là không phóng dật.
Do vậy biết dục sanh ra tinh tấn, tinh tấn sanh ra không phóng
dật, không phóng dật nên có thể sanh ra các pháp, cho đến khi
chứng thành Phật đạo.
Lại
nữa, Bồ-tát nếu muốn thoát khỏi sanh, già, bệnh chết, muốn độ
thoát chúng sanh, thì thường
phải tinh tấn, nhất tâm không phóng dật, cũng như
người
bưng
bát dầu đầy đi vào giữa đại chúng, nhờ hiện tiền nhất tâm
không phóng dật, nên
được
sanh lợi lớn. Lại như
tầng gác nghiêng,
đường
hiểm, dây treo, ven núi rủ xuống, tại các chỗ hiểm ác đó, nhờ
nhất tâm không phóng dật, nên thân
được
an ổn, đời này
được
sanh lợi lớn. Cầu đạo mà tinh tấn cũng như
vậy, nếu nhất tâm không phóng dật, thì sở nguyện đều
được
thành tựu.
Lại
nữa, ví như
dòng nước
có thể làm vỡ đá lớn, tâm không phóng dật cũng như
vậy, chuyên tu khéo léo, thường
hành không bỏ, thời có thể phá các núi kiết sử phiền não.
Lại
nữa, Bồ-tát có ba thứ suy nghĩ: Nếu ta không làm thời không
được
quả báo; nếu ta không tự làm thời không từ người
khác
đưa
đến; nếu ta làm thì cuối cùng không mất. Suy nghĩ như
vậy rồi, nên quyết tâm tinh tấn vì Phật đạo mà chuyên tu, chứ
không phóng dật. Như
một tiểu Tỳ-kheo tu hạnh A-lan-nhã, một mình ở trong rừng tọa
Thiền mà sanh giải đãi, trong rừng có vị thần vốn là đệ tử
Phật nhập vào trong xương
của một tử thi, nói bài kệ:
“Tiểu Tỳ-kheo trong rừng,
Vì sao sanh giải đãi,
Ngày đến nếu không sợ,
Ðêm lại đến như vầy”.
Tỳ-kheo ấy sợ hãi ngồi dậy, trong tâm tự suy nghĩ , để đến nửa
đêm lại ngủ, vị thần ấy lại đến hiện ra mười
đầu, trong miệng tuôn lửa, răng vút như
kiếm, mắt đỏ như
lửa, ngoái lại nói và đi theo nắm vị Tỳ-kheo giải đãi ấy,
nói: “Ở chỗ này không nên giải đãi, sao lại làm vậy?”
Bấy
giờ vị Tỳ-kheo quá sợ, liền khởi tâm suy nghĩ đến việc đó, rồi
chuyên tâm niệm pháp, chứng
được
đạo quả A-la-hán. Ấy gọi sức tự cường
tinh tấn, không phóng dật, có thể
được
đạo quả.
Lại nữa,
sự tinh tấn ấy không tự tiếc thân mà tiếc quả báo. Trong bốn
oai nghi của thân là ngồi, nằm, đi, ở, thường
siêng tinh tấn, thà tự mất thân không bỏ đạo nghiệp. Ví như
bị lửa cháy, không dùng bình nước
để cứu, cốt làm sao để dập tắt lửa, chứ không tiếc cái bình.
Như
vị thầy Tiên nhân dạy đệ tử bài kệ rằng:
“Tâm quyết định vui vẻ,
Như được quả báo lớn,
Như khi được toại nguyện,
Mới biết tối diệu này”.
Do
các nhân duyên như
vậy, quán xét cái lợi của tinh tấn mà có thể làm cho sự tinh
tấn tăng thêm.
Lại
nữa, Bồ-tát tu các khổ hạnh, nếu có người
đến xin đầu, mắt, tủy, não, thời có thể cho hết, rồi tự nghĩ:
“Ta có sức nhẫn nhục, tinh tấn, trí huệ, phương
tiện, thế nhưng
khi chịu sự cắt đầu mắt ấy mà vẫn còn thấy đau đớn, huống gì
chúng sanh ngu si, lẫn thẫn trong ba
đường
ác. Ta nên vì các chúng sanh ấy, siêng tu tinh tấn để sớm
thành Phật đạo, cứu vớt chúng sanh.
(Hết
cuốn 15 theo bản Hán)
--o0o --
Mục Lục
Tập 01
Cuốn 1
| 2
| 3
| 4
| 5
| 6
| 7
| 8
| 9
| 10
11
| 12
| 13
| 14
| 15
| 16
| 17
| 18
| 19
| 20
--o0o --
Mục Lục Tổng Quát Luận Đại Trí Độ
Tập 01
|
Tập 02
|
Tập 03
|
Tập 04
|
Tập 05
--o0o --
Cập nhật: 01-07-2003