KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
- Hán dịch: Căn
cứ bản dịch của Tam Tạng Pháp sư
Đàm Vô Sấm,
Sa môn Tuệ Nghiêm, Tuệ Quán, và Tạ
Linh Vân sửa lại
- Đời Tống
- Việt dịch:
Tuệ Khai cư sĩ -
Phan Rang
Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
---o0o---
Quyển thứ hai
PHẨM
THUẦN ÐÀ
PHẦN II ..
Lúc
bấy giờ, trong hội có vị ưu bà tắc là con người thợ khéo của thành Câu Thi
Na, tên là Thuần Ðà cùng với đồng loại gồm mười lăm người, vì khiến cho
thế gian được quả tốt nên xả uy nghi của thân, đứng dậy, trật áo vai phải,
gối phải quì xuống đất, chắp tay hướng về đức Phật, buồn cảm rơi lệ, đảnh
lễ dưới chân đức Phật mà bạch đức Phật rằng :
- Nguyện xin đức Thế Tôn và Tỳkheo Tăng
thương xót nhận lễ cúng dường sau cùng của chúng con vì độ vô lượng những
chúng sinh. Thưa đức Thế Tôn ! Chúng con từ nay không còn chủ, không người
thân, không ai cứu, không ai hộ, không chỗ về, không nơi đến, bần cùng đói
khát khốn khổ, muốn theo đức Như Lai cầu đồ ăn tương lai, nguyện xin đức
Như Lai thương xót nhận cho chút lễ cúng dường của chúng con rồi nhiên hậu
mới Niết Bàn ! Thưa đức Thế Tôn ! Ví như sát lợi, hoặc Bà la môn, Tỳ xá,
Thủ đà do nghèo cùng nên đến đất nước khác xa xôi, ra sức làm nông mà được
trâu điều phục tốt, ruộng tốt bằng phẳng, không có những cát mặn, cỏ xấu,
hoang hóa, dơ bẩn, chỉ còn mong trời mưa xuống. Nói trâu điều phục là ví
thân miệng tốt. Ruộng tốt bằng phẳng là ví cho trí tuệ. Trừ khử cát mặn,
cỏ xấu, hoang hóa, dơ bẩn là ví cho việc trừ khử phiền não. Bạch Thế Tôn !
Con nay, thân có trâu thuần, ruộng tốt, làm sạch cỏ, trừ mọi dơ bẩn chỉ
còn mong mưa pháp cam lồ của đức Như Lai. Tứ tánh (bốn giai cấp) nghèo tức
là thân con đó. Nghèo là nghèo của báu đối với pháp Vô Thượng, nguyện xin
đức Thế Tôn thương xót đoạn trừ sự bần cùng khốn khổ của chúng con ! Cứu
vớt vô lượng chúng sinh khổ não ! Lễ cúng dường của con tuy nhỏ mọn nhưng
muốn được sung túc đại chúng của đức Như Lai. Con nay không có chủ, không
thân thích, không nơi nương về, nguyện xin ngài rũ lòng xót thương như
thương La Hầu La.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn Nhất Thiết Chủng
Trí Vô Thượng Ðiều Ngự bảo ông Thuần Ðà rằng :
- Hay thay ! Hay thay ! Ta nay vì ông
đoạn trừ bần cùng ! Ðem pháp vũ Vô thượng mưa xuống ruộng thân của ông,
khiến cho sinh ra mầm pháp ! Ông nay đối với ta muốn cầu thọ mạng, sắc
lực, an vui, vô ngại biện tài ! Ta sẽ ban cho ông thọ mạng, sắc lực, an
vui, vô ngại biện tài. Vì sao vậy ? Này Thuần Ðà ! Vì cho ăn có hai quả
báo không sai khác. Những gì là hai ? Một là nhận rồi thì được Vô Thượng
Chánh Ðẳng Chánh Giác. Hai là nhận rồi thì vào Niết Bàn. Ta nay nhận sự
cúng dường sau cùng của ông, khiến cho ông đầy đủ Ðàn Balamật.
Bấy giờ, ông Thuần Ðà liền bạch đức Phật
rằng :
- Như lời nói của đức Phật, hai quả báo
của sự bố thí không sai khác thì nghĩa này chẳng phải ! Vì sao vậy ? Vì
người thọ thí trước thì phiền não chưa hết, chưa được thành tựu Nhất thiết
chủng trí, cũng chưa có thể khiến cho chúng sinh đầy đủ Ðàn Balamật. Người
thọ thí sau phiền não đã hết, đã được thành tựu Nhất thiết chủng trí, có
thể khiến chúng sinh đều được đầy đủ Ðàn Balamật. Người thọ thí trước,
cũng là chúng sinh, người thọ thí sau là trời trong trời. Người thọ thí
trước là thân tạp thực, là thân phiền não, là thân hậu biên, là thân vô
thường. Người thọ thí sau là thân không phiền não, là thân Kim cương, pháp
thân thường thân, thân vô biên. Tại sao nói quả báo của hai cách bố thí
này là bình đẳng không sai khác ? Người thọ thí trước chưa có thể đầy đủ
Ðàn Balamật...cho đến Bát nhã Balamật, chỉ được nhục nhãn chưa được Phật
nhãn... cho đến tuệ nhãn. Người thọ thí sau đã được đầy đủ Ðàn
Balamật.v.v.. cho đến Bát nhã Balamật, đầy đủ Phật nhãn... cho đến tuệ
nhãn. Vậy thì sao mà gọi là quả báo hai sự bố thí bình đẳng không sai
biệt. Thưa đức Thế Tôn ! Người thọ thí trước, thọ rồi ăn vào bụng, tiêu
hóa thì được thọ mạng, được sắc, được lực, được yên, được vô ngại biện.
Người thọ thí sau chẳng ăn, chẳng tiêu, không có kết quả năm việc thì sao
gọi là quả báo hai sự bố thí bình đẳng, không sai khác ?
Ðức Phật dạy rằng :
- Này thiện nam tử ! Như Lai đã ở vô
lượng vô biên atăngkỳ kiếp, không có thân hữu thực, thân phiền não, mà là
thân không hậu biên (bờ sau), thân thường còn, thân pháp, thân kim cương.
Này thiện nam tử ! Người chưa thấy Phật tính thì gọi là thân phiền não,
thân tạp thực, là thân hậu biên. Bồ tát bấy giờ thọ ẩm thực rồi vào Kim
cương tam muội, đồ ăn này tiêu rồi liền thấy Phật tính, được Vô Thượng
Chánh Ðẳng Chánh Giác. Vậy nên ta nói rằng, quả báo của hai sự bố thí bình
đẳng, không sai biệt. Bồ tát bấy giờ phá hoại bốn ma, nay vào Niết Bàn
cũng phá bốn ma. Vậy nên ta nói rằng, quả báo của hai sự bố thí bình đẳng,
không sai biệt. Bồ tát bấy giờ tuy chẳng rộng nói mười hai bộ Kinh, nhưng
đã thông đạt trước, nay vào Niết Bàn vì chúng sinh phân biệt diễn nói rộng
rãi. Vậy nên ta nói rằng, quả báo hai sự bố thí bình đẳng không sai biệt.
Này thiện nam tử ! Thân của Như Lai đã ở vô lượng atăngkỳ kiếp chẳng thọ
ẩm thực, vì các Thanh văn nên ta nói rằng, trước thọ sự hiến dâng sữa mè
của hai cô gái chăn trâu Nan Ðà và Nan Ðà Ba La nhiên hậu mới được Vô
Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Nhưng thật sự ta chẳng ăn. Ta nay khắp vì
tạo tác cho chúng đại hội nên thọ sự dâng hiến sau cùng của ông, thật sự
cũng chẳng ăn.
Lúc bấy giờ, đại chúng nghe đức Phật Thế
Tôn khắp vì đại hội, thương xót nhận lễ cúng dường tối hậu của ông Thuần
Ðà thì vui mừng, nhảy nhót, đồng thanh khen rằng :
- Hay thay ! Hay thay ! Hy hữu thay ! Này
ông Thuần Ðà ! Ông nay đứng tên chẳng là rỗng xưng ! Nói Thuần Ðà là tên
Giải diệu nghĩa. Ông nay đã kiến lập đại nghĩa như thế. Vậy nên y thật
theo nghĩa mà lập danh nên gọi là Thuần Ðà. Ông nay, ở đời hiện tại được
danh lợi lớn, đức nguyện đủ đầy. Rất lạ ! Này Thuần Ðà ! Ông sinh tại
trong loài người lại được cái lợi vô thượng khó được ! Hay thay ! Này
Thuần Ðà ! Như hoa Ưu đàm hiếm có ở thế gian, đức Phật ra đời cũng lại rất
khó. Gặp Phật sinh ra, tin nghe pháp lại càng khó. Phật sắp Niết Bàn mà
cúng dường tối hậu, có thể bày biện việc này lại khó đến thế ! Nam mô
Thuần Ðà ! Nam mô Thuần Ðà ! Ông nay đã đủ Ðàn Balamật giống như trăng
thu đêm ngày mười lăm tràn đầy thanh tịnh, không có những mây che, tất cả
chúng sinh không ai chẳng chiêm ngưỡng ! Ông cũng như vậy ! Mà vì sự chiêm
ngưỡng của chúng tôi, đức Phật đã thọ lễ cúng dường tối hậu của ông khiến
cho ông đầy đủ Ðàn Balamật. Nam mô Thuần Ðà ! Vậy nên nói ông như vầng
trăng tròn đầy, tất cả chúng sinh không ai chẳng chiêm ngưỡng. Nam mô
Thuần Ðà ! Tuy ông thọ thân người nhưng tâm như tâm Phật. Này ông Thuần Ðà
! Ông nay chính là con của Phật chân thật như ngài La Hầu La ngang bằng
không có khác.
Lúc bấy giờ, đại chúng liền nói kệ rằng :
Ông tuy sinh nhân đạo Ðã vượt Ðệ
Lục Thiền
Chúng ta, tất cả chúng Nay cúi đầu
mời ông.
Trong người, bậc Tối Thắng Nay sẽ vào
Niết Bàn
Ông nên thương đại chúng Xin mau
thỉnh Thế Tôn
Ở lâu ở cõi thế
Lợi ích chúng không lường.
Diễn nói việc khen trí Pháp cam
lộ không trên.
Nếu ông chẳng thỉnh Phật Mạng chúng
ta chẳng toàn
Vậy nên ông ứng kiến Cúi thỉnh
đức Thế Tôn.
Lúc bấy giờ, ông Thuần Ðà vui mừng hớn
hở, giống như có người cha mẹ chết, làm lễ tang thì bỗng nhiên sống trở
lại, ông Thuần Ðà vui mừng cũng lại như vậy. Ông lại đứng dậy lễ đức Phật
mà nói kệ rằng :
Sướng thay ! Lợi mình được ! Tốt lành
được nhân thân
Tiêu trừ tham, sân nhuế...
Lìa mãi ác ba đường !
Sướng thay ! Lợi mình được ! Gặp được
nhóm báu vàng
Gặp gỡ đấng Ðiều Ngự
Chẳng sợ đọa súc sinh !
Phật như hoa Ưu Ðàm
Gặp gỡ sanh tin khó
Gặp rồi gieo thiện căn
Mãi diệt khổ ngã quỉ
Cũng lại hay tổn thương
A tu la chủng loại.
Hạt cải ném mũi kim
Phật ra đời khó vậy !
Con đã đầy đủ Ðàn (Balamật) Ðộ người
trời sanh tử
Phật chẳng nhiễm thế gian Như hoa
sen ở nước
Giỏi đoạn giống đỉnh nước (?) Qua khỏi
dòng tử sinh
Sinh đời, làm người khó Gặp đời
Phật khó hơn,
Giống như trong biển cả Rùa mù gặp
ván lỗ.
Con nay dâng bữa ăn Nguyện được Vô
thượng báo
Tất cả kết não phiền Triệt phá
không kiên cố.
Ở chỗ này, nay con Chẳng cầu thân
nhân thiên
Giả sử được thân đó Niềm vui lòng
chẳng cam.
Như Lai thọ con cúng Vui mừng
không có lường
Như hoa Y Lan đó Phát ra hương
Chiên đàn
Thân con như Y Lan Như Lai thọ con
cúng
Như tỏa hương Chiên đàn Vậy nên
con hoan hỷ.
Con được báo hiện tiền Chỗ thượng diệu
tối thắng.
Phạm, Thích và chư Thiên... Ðều đến
cúng dường con
Tất cả những thế gian Ðều sinh đại
khổ não.
Do biết Phật Thế Tôn Nay muốn vào
Tịch diệt(Niết bàn)
Lớn tiếng xướng lên rằng: Thế gian
không Ðiều Ngự
Chẳng nên bỏ chúng sinh Nên xem
như con một.
Như Lai ở trong Tăng Diễn nói
pháp Vô thượng
Như Tu Di bảo sơn Ở yên với
biển cả.
Trí Phật hay đoạn tan Chúng con
vô minh ám
Giống như trong hư không Mây khởi
được mát mẻ
Như Lai giỏi trừ khử Tất cả những
não phiền
Giống như mặt trời mọc Trừ mây,
sáng khắp cùng.
Hôm nay những sinh chúng Luyến mộ
thêm bi thương
Ðều bị trôi dạt ở Trong nước khổ
tử sinh.
Do vậy nên đức Phật Cho họ dài
niềm tin
Vì đoạn khổ sinh tử Ở lâu với
thế gian !
Ðức Phật bảo ông Thuần Ðà rằng :
- Ðúng vậy ! Ðúng vậy ! Ðúng như lời nói
của ông ! Phật ra đời khó như hoa Ưu đàm. Gặp được Phật mà sinh lòng tin
cũng lại rất khó. Phật sắp Niết Bàn dâng bữa ăn sau cùng để có thể đầy đủ
Ðàn Balamật lại rất khó bội phần. Này Thuần Ðà ! Ông nay chớ sầu khổ quá !
Ông nên phải hoan hỷ, tự mừng rỡ may mắn sâu sắc là được gặp Như Lai cúng
dường lần sau cùng, thành tựu đầy đủ Ðàn Balamật ! Ông chẳng nên thỉnh
Phật ở lâu với đời ! Ông nay phải quan sát cảnh giới của chư Phật đều là
vô thường, tánh tướng các hạnh cũng lại như vậy.
Ðức Phật liền vì ông Thuần Ðà mà nói kệ
rằng :
Tất cả các thế gian Ø Sinh
thì đều về tử
Thọ mạng tuy không lường Tất yếu có
chung tận.
Thịnh ắt có suy vong Hội họp có ly
biệt
Tuổi trẻ chẳng lâu dừng Thịnh sắc
bệnh lấn lướt
Mạng bị thần chết nuốt Không có
pháp thường còn.
Các vua được tự tại Thế lực thật vô
song
Tất cả đều dời diệt Thọ mạng cũng
như trên
Bánh xe khổ không bến Lưu chuyển
không nghỉ ngưng
Ba cõi đều vô thường Các hữu chẳng
phải lạc (vui)
Tánh tướng hữu các đường Tất cả đều không
rỗng
Pháp lưu chuyển hoại tan Thường có
những ưu hoạn.
Các lỗi ác kinh hoàng (khủng bố) Già
bệnh chết suy não
Là những cái không biên Dễ hoại, oán
lấn lướt
Bị phiền não buộc ràng Như tằm ở
trong kén
Sao có người tuệ thông Mà phải ưa chỗ
đó ?
Thân này khổ đã gom Tất cả đều bất
tịnh.
Ung nhọt và buộc ràng... Căn bản
không nghĩa lợi
Trên đến thân chư thiên Ðều cũng lại
như vậy.
Các dục đều vô thường Nên ta chẳng tham
trước
Khéo nghĩ lìa dục xong Mà chứng
pháp chân thật.
Ðoạn các “hữu” rốt cùng Hôm nay sẽ
Niết Bàn !
Ta qua bờ hữu đó Ra khỏi tất
cả khổ
Vậy nên hôm nay đây Chỉ thọ vui
thượng diệu !
Lúc bấy giờ, ông Thuần Ðà bạch đức Phật
rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Ðúng vậy ! Ðúng vậy
! Quả thật như lời dạy của đức Thánh ! Nay với sở hữu trí tuệ nhỏ nhoi cạn
cợt của con giống như con muỗi con ve thì làm sao có thể nghĩ bàn về ý
nghĩa thâm áo Niết Bàn của đức Như Lai ? Thưa đức Thế Tôn ! Con nay đã
cùng với các đại long tượng Bồ tát Mahatát đoạn hết những kết lậu như ngài
Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử.v.v... Thưa đức Thế Tôn ! Ví như đứa trẻ thơ
mới được xuất gia, tuy chưa đủ giới mà liền rơi vào tăng số, con cũng như
vậy. Do sức thần thông của Phật, Bồ tát nên con được ở vào số đại Bồ tát
như vậy. Vậy nên con nay muốn cho đức Như Lai trụ ở đời lâu dài, chẳng vào
Niết Bàn. Ví như người đói nhất định không có gì khác để nhổ ra, nguyện
xin đức Thế Tôn cũng lại như vậy, thường trụ ở đời, chẳng vào Niết Bàn !
Lúc bấy giờ, ngài Văn Thù Sư Lợi Pháp
Vương Tử bảo ông Thuần Ðà rằng :
- Này ông Thuần Ðà ! Ông nay chẳng nên
nói ra lời như vậy, muốn cho đức Như Lai thường trụ ở đời, chẳng vào Niết
Bàn như người đói kia không có gì khác để nhổ ra. Ông nay phải quan sát
tánh tướng của các hạnh. Như vậy là quán hạnh cụ không tam muội. Muốn cầu
chánh pháp thì ông phải học như vậy.
Ông Thuần Ðà hỏi rằng :
- Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi ! Luận về Như
Lai thì trên trời, trong loài người ngài là bậc tối tôn, tối thắng. Như
vậy thì đâu là hành động của Như Lai vậy ? Nếu là hành động thì là pháp
sinh diệt, ví như bọt nước chóng khởi, chóng diệt, qua lại lưu chuyển
giống như bánh xe. Tất cả các hành động cũng lại như vậy. Tôi nghe chư
thiên thọ mạng rất dài thì sao đức Thế Tôn là đấng Thiên Trung Thiên (ông
trời của trời) mà thọ mạng mau quá, chẳng đầy trăm năm ? Ví như thế lực
của vị chúa tụ lạc được tự tại. Do lực tự tại ông ấy có thể áp chế người
khác. Người này hết phước, về sau nghèo hèn bị sự khinh miệt của mọi
người, bị người khác sách nhiễu, sai khiến. Sở dĩ vì sao ? Vì mất thế lực.
Ðức Thế Tôn cũng vậy, đồng với các hành. Nếu người đồng các hành thì chẳng
được xưng là đấng Thiên Trung Thiên. Vì sao vậy ? Vì các hạnh tức là pháp
sinh tử. Vậy nên, thưa ngài Văn Thù Sư Lợi ! Ngài chớ quan sát đức Như Lai
đồng với các hành.
Lại nữa, thưa ngài Văn Thù ! Ngài vì biết
mà nói hay chẳng biết mà nói rằng, đức Như Lai đồng với các hành. Giả sử
đức Như Lai đồng các hành thì chẳng được nói rằng, ở trong ba cõi, đức Như
Lai là đấng Pháp Vương Tự Tại Thiên Trung Thiên. Ví như vua loài người có
vị đại lực sĩ, sức ông ấy đương đầu được một ngàn người, lại không có ai
có thể hàng phục nên xưng lực sĩ này là một người đương cự được ngàn
người. Như vậy lực sĩ được sự ái niệm của vua, được vua ban tước lộc,
phong thưởng tự nhiên. Cho dù đã được xưng là người đương đầu được ngàn
người thì sức người này chưa chắc địch được ngàn người mà họ chỉ dùng đủ
thứ khả năng về kỹ nghệ để có thể thắng được ngàn người nên xưng là đương
cự ngàn người. Ðức Như Lai cũng vậy, ngài hàng phục ma phiền não, ma ấm,
ma trời, ma chết... Vậy nên đức Như Lai gọi là bậc tôn quí của ba cõi. Như
vị lực sĩ kia, một người đương cự ngàn người. Do nhân duyên này, hoặc
thành tựu đầy đủ thứ vô lượng công đức chân thật nên xưng là Như Lai Ứng
Cúng Chánh Biến Tri... Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi ! Hôm nay ngài chẳng nên
nhớ tưởng phân biệt pháp của đức Như Lai đồng với các hành. Ví như ông
trưởng giả giàu to sinh con trai. Thầy tướng chiếm quẻ đứa con có tướng
đoản thọ (vắn số). Cha mẹ nghe rồi biết đứa con ấy chẳng gánh vác được sự
kế tục nối dõi gia đình nên lại chẳng ái trọng mà xem như cỏ rác. Phàm là
người đoản thọ thì chẳng được sự kính niệm của Samôn, Bàlamôn, trai gái,
lớn nhỏ.v.v... Giả sử nếu đức Như Lai đồng với các hành thì cũng lại chẳng
được sự kính phụng của tất cả thế gian người, trời, chúng sinh. Ðức Như
Lai đã nói, chẳng biến, chẳng khác, pháp chân thật, cũng không người thọ.
Vậy nên, thưa ngài Văn Thù ! Ngài chẳng nên nói rằng, đức Như Lai đồng với
tất cả các hành.
Lại nữa, thưa ngài Văn Thù ! Ví như người
con gái nghèo không có nhà ở, không người cứu hộ, lại thêm sự bức bách của
bệnh khổ, đói khát. Người này du hành xin, dừng ở nhà trọ, sinh nhờ một
đứa con trai, bị chủ nhà trọ này xua đuổi đi. Người ấy bế đứa trẻ này muốn
đến đất nước khác, nhưng ở giữa đường gặp phải mưa to gió dữ, lạnh khổ đều
đến, bị nhiều muỗi, mòng, ong độc, trùng độc bâu cắn. Qua sông Hằng người
con gái ấy ẳm con mà lội. Nước sông chảy nhanh mà người ấy chẳng buông
con. Ðến đây thì mẹ con liền đều chung chết chìm. Như vậy nhờ công đức từ
niệm, người con gái sau khi mạng chung, sinh lên cõi trời Phạm. Thưa ngài
Văn Thù Sư Lợi ! Nếu có thiện nam tử muốn hộ chánh pháp thì chớ nói Như
Lai đồng với các hạnh hay chẳng đồng với các hạnh mà chỉ phải tự trách
rằng, ta nay ngu si chưa có tuệ nhãn, chánh pháp của đức Như Lai chẳng thể
nghĩ bàn. Vậy nên chẳng nên tuyên nói đức Như Lai nhất định là hữu vi hay
nhất định là vô vi. Nếu người chánh kiến thì nên nói Như Lai nhất định là
vô vi. Vì sao vậy ? Vì có thể vì chúng sinh sinh ra thiện pháp, sinh ra
thương xót như người con gái nghèo kia ở tại sông Hằng vì nghĩ yêu con mà
bỏ thân mạng. Thưa thiện nam tử ! Bồ tát hộ pháp cũng nên như vậy, thà bỏ
thân mạng chứ chẳng nói đức Như Lai đồng với hữu vi mà phải nói rằng, đức
Như Lai đồng với vô vi. Do nói đức Như Lai đồng với vô vi nên được Vô
Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, như người con gái nghèo kia được sinh lên
cõi trời Phạm. Vì sao vậy ? Vì hộ pháp vậy. Sao gọi là hộ pháp ? Nghĩa là
nói rằng, đức Như Lai đồng với vô vi. Thưa thiện nam tử ! Người như vậy
tuy chẳng cầu giải thoát mà giải thoát tự đến, như người con gái nghèo kia
chẳng cầu Phạm thiên mà Phạm thiên tự ứng. Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi ! Như
người đi xa, giữa đường quá mệt mỏi, ở nhờ nhà người khác, đang nằm ngủ
trong nhà thì nhà ấy bỗng nhiên cháy lớn chợt khởi lên. Người ấy tức thời
thức dậy liền tự suy nghĩ : “Ta đến hôm nay nhất định chết chẳng nghi ngờ
gì !” Còn đủ xấu hổ nên người ấy lấy áo buộc thân mình, liền mạng chung
sinh lên cõi trời Ðao Lợi. Từ đó về sau người ấy tám mươi lần trở lại làm
vua trời Ðại Phạm, trọn trăm ngàn đời sinh ở trong loài người làm vua
Chuyển Luân. Người đó chẳng còn sinh vào ba đường ác, đắp đổi thường sinh
vào nơi yên vui. Do duyên này nên thưa ngài Văn Thù Sư Lợi ! Nếu thiện nam
tử có tàm quí thì chẳng nên xem đức Phật đồng với các hạnh ! Thưa ngài Văn
Thù Sư Lợi ! Ngoại đạo tà kiến có thể nói đức Như Lai đồng với hữu vi.
Nhưng Tỳkheo giữ giới thì chẳng nên ở chỗ đức Như Lai sinh tư tưởng hữu vi
như vậy. Nếu nói rằng, đức Như Lai là hữu vi thì tức là nói dối và phải
biết rằng, người này chết phải vào địa ngục như người tự ở nơi nhà cửa của
mình. Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi ! Ðức Như Lai chân thật là pháp vô vi !
Chẳng nên lại nói là hữu vi vậy. Ngài từ hôm nay, ở trong sinh tử, nên bỏ
vô tri mà cầu nơi chánh trí ! Phải biết đức Như Lai tức là vô vi. Nếu
người có thể quan sát đức Như Lai như vậy thì sẽ ba mươi hai tướng đầy đủ,
mau chóng thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác !
Lúc bấy giờ, ngài Văn Thù Sư Lợi Pháp
Vương Tử khen ông Thuần Ðà rằng :
- Hay thay ! Hay thay ! Này thiện nam tử
! Hôm nay ông đã tạo tác nhân duyên trường thọ, có thể biết đức Như Lai là
pháp thường trụ, pháp chẳng biến dị, pháp vô vi ! Hôm nay ông như vậy là
khéo che tướng hữu vi của đức Như Lai như người bị lửa vì xấu hổ nên dùng
áo buộc thân. Do thiện tâm đó nên sinh lên trời Ðao Lợi, lại được làm Phạm
Vương, Chuyển Luân Thánh Vương, chẳng đến đường ác, thường thọ yên vui.
Ông cũng như vậy, khéo che tướng hữu vi của đức Như Lai nên ở đời vị lai
nhất định sẽ được ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp, đầy đủ mười tám pháp
bất cộng, thọ mạng không lường, chẳng ở tại sinh tử, thường thọ yên vui,
chẳng bao lâu được thành Ứng Cúng Chánh Biến Tri. Này ông Thuần Ðà ! Ðức
Như Lai tiếp theo sau, sẽ tự nói rộng rãi ! Tôi cùng với ông đều cũng phải
che hữu vi của đức Như Lai. Hữu vi, vô vi vã đặt chung đó, ông có thể tùy
lúc mau chóng dâng thí cơm ăn ! Thí như vậy là tối thắng trong các thí !
Nếu Tỳkheo, Tỳkheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di đi xa mệt mỏi cực nhọc thì
những vật cần dùng nên phải thanh tịnh tùy lúc mà cấp cho họ. Bố thí nhanh
chóng như vậy tức là đầy đủ chủng tử căn bản của Ðàn Balamật. Này ông
Thuần Ðà ! Nếu ông có lễ dâng thí tối hậu cho đức Phật và Tăng, hoặc nhiều
hay ít, hoặc đủ hay chẳng đủ thì nên mau chóng kịp thời ! Ðức Như Lai
chính lúc bấy giờ sẽ vào Niết Bàn !
Ông Thuần Ðà đáp rằng :
- Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi ! Sao hôm nay
ngài tham vì bữa ăn này mà nói nhiều, ít đủ cùng chẳng đủ, lệnh cho tôi
kịp thời thí ? Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi ! Ðức Như Lai ngày xưa, khổ hạnh
sáu năm còn tự cố sức ứng phó huống gì là khoản giây lát ngày hôm nay vậy
? Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi ! Ngài hôm nay thật cho là đức Như Lai Chánh
Giác thọ bữa ăn ấy sao ? Nhưng tôi thì nhất định biết là thân của đức Như
Lai tức là pháp thân, chẳng phải là thân ăn !
Lúc bấy giờ, đức Phật bảo ngài Văn Thù Sư
Lợi rằng :
- Ðúng vậy ! Ðúng vậy ! Ðúng như lời nói
của ông Thuần Ðà ! Hay thay! Này Thuần Ðà ! Ông đã thành tựu đại trí vi
diệu, khéo vào kinh điển Ðại Thừa thậm thâm !
Ngài Văn Thù Sư Lợi nói với ông Thuần Ðà
rằng :
- Ông cho là Như Lai chính là vô vi thì
thân đức Như Lai tức là trường thọ. Nếu tác khởi sự hiểu biết này thì đức
Phật được vui lòng ưng ý sao ?
Ông Thuần Ðà đáp rằng :
- Ðức Như Lai chẳng phải riêng vui lòng
ưng ý đối với tôi mà cũng lại vui lòng ưng ý đối với tất cả chúng sinh.
Ngài Văn Thù Sư Lợi nói rằng :
- Ðức Như Lai đối với ông và cả với
tôi... tất cả chúng sinh đều vui lòng ưng ý hết à ?
Ông Thuần Ðà đáp rằng :
- Ngài chẳng nên nói rằng, đức Như Lai
vui lòng ưng ý ! Bàn về việc vui lòng ưng ý thì chính là đão tưởng. Nếu có
đão tưởng thì chính là sinh tử. Có sinh tử tức là pháp hữu vi ! Vậy nên,
thưa ngài Văn Thù ! Ngài chớ cho là Như Lai chính là hữu vi vậy. Nếu nói
rằng, đức Như Lai là hữu vi thì tôi cùng ngài đều hành điên đảo. Thưa ngài
Văn Thù Sư Lợi ! Ðức Như Lai không có tư tưởng ái niệm ! Bàn về ái niệm
thì như con trâu sữa kia ái niệm con của nó nên tuy đói khát đi tìm nước,
cỏ hoặc đủ hay chẳng đủ, bỗng nhiên quay trở về. Các đức Phật Thế Tôn
không có ý niệm này mà bình đẳng xem tất cả như ông La Hầu La. Ý niệm như
vậy thì tức là cảnh giới trí tuệ của chư Phật. Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi !
Ví như vị quốc vương điều xe ngự bốn ngựa mà muốn dong ruổi xe lừa khiến
cho kịp bằng xe ấy thì không có chỗ này. Tôi cùng ngài cũng lại như vậy,
muốn tận tường sự thâm áo vi mật của đức Như Lai thì cũng không có chỗ
này. Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi ! Như con chim cánh vàng bay lên hư không
cao vô lượng do tuần nhìn xuống biển cả thấy hết các loài thủy tánh như
cá, ba ba, con giải, rùa biển, rồng biển... và thấy bóng của mình như đối
với gương sáng thấy các sắc tượng. Kẻ phàm phu ít trí chẳng thể trù lượng
sự thấy như vậy. Tôi cùng ngài cũng lại như vậy, chẳng thể trù lượng (trù
tính đo lường) trí tuệ của đức Như Lai.
Ngài Văn Thù Sư Lợi nói với ông Thuần Ðà
rằng :
- Ðúng vậy ! Ðúng vậy ! Ðúng như lời nói
của ông ! Ta đối với việc này chẳng phải là chẳng thông đạt mà tôi muốn
trực tiếp thử thách những việc Bồ tát của ông !
Lúc bấy giờ, từ diện môn của đức Thế Tôn
phát ra đủ thứ ánh sáng. Ánh sáng ấy soi sáng thân ngài Văn Thù. Ngài Văn
Thù Sư Lợi gặp ánh sáng ấy rồi thì liền biết việc này mà bảo ông Thuần Ðà
rằng :
- Ðức Như Lai hôm nay hiện tướng điềm đó
thì chẳng bao lâu nhất định sẽ vào Niết Bàn. Ông trước đã thiết bày lễ
cúng dường tối hậu nên tức thời dâng hiến đức Phật và đại chúng. Này ông
Thuần Ðà ! Ông phải biết rằng, đức Như Lai phóng ra đủ thứ ánh sáng đó
chẳng phải không có nhân duyên.
Ông Thuần Ðà nghe rồi, buồn tê tái lặng
lẽ. Ðức Phật bảo :
- Này Thuần Ðà ! Việc phụng thí Phật và
đại chúng của ông, nay chính là lúc đó ! Như Lai chính lúc ấy sẽ vào Niết
Bàn.
Nói lần thứ hai, lần thứ ba cũng lại như
vậy. Bấy giờ, ông Thuần Ðà nghe lời đức Phật rồi, cất tiếng gào khóc bi
thương, nghẹn ngào mà nói rằng :
- Khổ thay ! Khổ thay ! Thế gian trống
rỗng !
Lại bạch với đại chúng rằng :
- Chúng con hôm nay, tất cả sẽ cùng gieo
năm vóc xuống đất, đồng thanh khuyên đức Phật chớ vào Niết Bàn !
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo ông
Thuần Ðà :
- Ông chớ gào khóc lớn, tự làm loạn tâm
mình ! Ông phải xem thân này giống như cây chuối, như bọt nước nóng lúc
sôi, huyễn hóa như thành của Càn thát bà, như đồ đất thô, như ánh chớp,
cũng như vẽ xuống nước, như người tù sắp chết, như quả chín, như thịt bị
chia cắt ra, như chỉ dọc máy dệt hết, như thớt trên, thớt dưới của cối
giã... Ông phải quan sát các hạnh giống như đồ ăn tạp độc, pháp hữu vi
nhiều những lỗi lầm hoạn nạn !
Ðến đây, ông Thuần Ðà lại bạch đức Phật
rằng :
- Ðức Như Lai chẳng muốn ở lâu với đời
thì con phải làm sao mà chẳng kêu khóc rằng: Khổ thay ! Khổ thay ! Thế
gian trống rỗng ! Nguyện xin đức Thế Tôn thương xót chúng con và các chúng
sinh mà ở lâu với đời ! Chớ vào Niết Bàn !
Ðức Phật bảo ông Thuần Ðà :
- Ông nay chẳng nên phát ra lời nói,
thương xót con nên ở lâu với đời như vậy, ta vì thương xót ông và tất cả
nên ngày hôm nay muốn vào Niết Bàn. Vì sao vậy ? Vì các Phật pháp vậy !
Hữu vi pháp cũng vậy ! Vậy nên vì các đức Phật mà nói kệ này :
Pháp hữu vi ấy Ø Tính nó vô thường
Sinh rồi chẳng trụ Tịch Diệt
vui hơn.
Này Thuần Ðà ! Ông nay phải quan sát tất
cả hành tạp, các pháp vô ngã, vô thường, chẳng trụ. Thân này có nhiều lỗi
hoạn không lường, giống như bọt nước. Vậy nên ông nay chẳng nên khóc gào.
Bấy giờ ông Thuần Ðà lại bạch đức Phật
rằng :
- Ðúng vậy ! Ðúng vậy ! Quả đúng như lời
dạy của đức Thế Tôn ! Tuy biết đức Như Lai phương tiện thị hiệnvào Niết
Bàn mà con chẳng thể chẳng ôm ưu não. Nhưng xét lại suy nghĩ của mình thì
lại sinh ra mừng vui !
Ðức Phật khen ông Thuần Ðà :
- Hay thay ! Hay thay ! Ông có thể biết
Như Lai thị hiện đồng với chúng sinh mà phương tiện vào Niết Bàn ! Này
Thuần Ðà ! Ông nay hãy nghe, như loài chim Ta-la-ta vào tháng xuân dương
(dưỡng khí mùa xuân) đều tập họp chung ở ao A-nậu-đạt đó. Các đức Phật
cũng vậy, đều đến chỗ này. Này Thuần Ðà ! Nay ông chẳng nên suy nghĩ các
đức Phật trường thọ hay đoản thọ ! Tất cả các pháp đều như tướng của
huyễn, đức Như Lai ở trong dùng phương tiện lực, không bị nhiễm trước. Vì
sao vậy ? Vì các Phật pháp là vậy. Này Thuần Ðà ! Ta nay thọ sự hiến cúng
dường của ông là vì muốn khiến cho ông độ thoát sinh tử và các hữu lậu
vậy. Nếu những người, trời đối với sự cúng dường ta lần sau cùng này đều
sẽ được quả báo bất động, thường hưởng an vui. Vì sao vậy ? Vì ta là ruộng
phước tốt của chúng sinh. Nếu ông muốn vì các chúng sinh tạo tác phước
điền thì mau chóng bày biện lễ phụng thí, chẳng nên đình lâu !
Lúc bấy giờ, ông Thuần Ðà vì muốn các
chúng sinh được độ thoát nên cúi đầu nuốt lệ mà bạch đức Phật rằng : :
- Hay thay ! Thưa đức Thế Tôn ! Nếu khi
con đủ sức đảm nhận làm ruộng phưóc thì có thể rõ biết đức Như Lai Niết
Bàn và chẳng phải Niết Bàn. Hôm nay chúng con và các Thanh Văn, Duyên
Giác, trí tuệ giống như con muỗi con ve, thật chẳng thể đo lường được Như
Lai Niết Bàn và chẳng phải Niết Bàn.
Lúc bấy giờ, ông Thuần Ðà và quyến thuộc
ưu sầu, gào khóc, vây quanh đức Như Lai, đốt hương, tung hoa, hết lòng
phụng kính, rồi liền cùng với Văn Thù đứng dậy mà đi cung cấp, bày biện đồ
ăn.
PHẨM AI THÁN !
Ông Thuần Ðà đi rồi, chưa bao lâu thì lúc đó đất này sáu thứ chấn động...
cho đến cõi Phạm cũng lại như vậy. Ðất động có hai, hoặc có địa động hoặc
đại địa động. Ðộng nhỏ thì gọi là địa động. Ðộng lớn thì gọi là đại địa
động. Có tiếng nhỏ thì gọi là địa động. Có tiếng lớn thì gọi là đại địa
động. Ðộng riêng đất thì gọi là địa động. Ðộng tất cả núi rừng sông biển
thì gọi là đại địa động. Ðộng một hướng thì gọi là địa động. Xoay chuyển
khắp cùng thì gọi là đại địa động. Ðộng gọi là địa động. Khi động có thể
khiến cho lòng chúng sinh động gọi là đại địa động. Khi Bồ tát mới từ cõi
trời Ðâu Suất xuống cõi Diêm phù đề thì gọi là đại địa động. Bồ tát từ sơ
sinh xuất gia, thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, chuyển bánh xe chánh
pháp và vào Niết Bàn thì gọi là đại địa động. Ngày hôm nay, đức Như Lai sẽ
vào Niết Bàn nên đất này động lớn như vậy. Các trời, rồng, càn thát bà, a
tu la, ca lâu la, khẩn na la, ma hầu la già, người và chẳng phải người
nghe lời nói này rồi thì thân đều nổi da gà, đồng thanh buồn khóc mà nói
kệ rằng :
Cúi đầu đấng Ðiều Ngự
Ø
Chúng con nay mời khuyên
Xa lìa bậc nhân tiên Mãi không có
cứu hộ.
Nay thấy Phật Niết Bàn Chúng con
chìm bể khổ
Bi luyến ôm lo buồn Như trâu nghé
mất mẹ.
Không ai cứu bần cùng Giống như người
bệnh khốn
Không thầy thuốc tùy lòng Ăn cái
chẳng nên ăn
Chúng sinh bệnh phiền não Bị các
kiến hại luôn
Xa lìa vua thuốc pháp Uống độc dược
tà môn
Vậy nên Phật Thế Tôn Chẳng nên
thấy bỏ sót
Như nước không chủ quân
(vua)
Nhân dân đều cơ cẩn.
Cũng như vậy, chúng con Mất bóng
che, vị pháp (mùi vị pháp)
Nay nghe Phật Niết Bàn Lòng chúng
con mê loạn
Như đại địa động rung Mê mất các
phương hướng.
Ðại tiên vào Niết Bàn Phật nhật
(mặt trời Phật) rơi xuống đất
Nước pháp(pháp
thủy) đều khô khan Chúng con
nhất định chết
Như Lai vào Niết Bàn Chúng sinh
rất khổ não
Như con ông trưởng giả Với cha
mẹ, mới chôn
Như Lai vào Niết Bàn Như con chẳng
sống lại.
Chúng sinh và chúng con Ðều không
người cứu hộ.
Như Lai vào Niết Bàn Cho đến súc
sinh loại
Tất cả đều lo buồn Khổ não cháy
lòng ấy.
Ngày hôm nay, chúng con Làm sao
chẳng sầu não
Như Lai thấy bỏ buông Giống như nhổ
nước bọt.
Như mặt trời mọc lên Ánh sáng
rất sáng rỡ
Có thể soi lại mình Cũng diệt
tất cả tối
Như Lai thần thông quang Hay trừ con
khổ não
Ở trong đại chúng đó Ngài như Tu Di
Sơn.
Thưa đức Thế Tôn ! Ngài ví như vị quốc
vương sinh ra nuôi nấng các con hình mạo đoan chính, lòng thường ái niệm.
Trước ngài dạy kỹ nghệ khiến cho chúng đều thông minh linh lợi. Nhiên hậu
ngài bỏ họ phó thác cho Chiên đà la. Thưa đức Thế Tôn ! Chúng con ngày hôm
nay làm con của vua pháp, nhờ đức Phật dạy bảo đã đủ Chánh kiến, nguyện
xin ngài chớ buông bỏ. Như ngài buông bỏ chúng con thì đồng với các vương
tử. Nguyện xin đức Phật trụ lại lâu dài, chẳng vào Niết Bàn. Thưa đức Thế
Tôn ! Ví như có người học giỏi các luận, nhưng lại đối với các luận này mà
phát sinh kinh sợ. Ðức Như Lai cũng vậy, chúng con thông đạt các pháp mà
đối với các pháp lại sinh ra kinh sợ. Giả sử nếu đức Như Lai ở lâu với
đời, nói vị cam lồ làm sung túc cho tất cả. Như vậy thì chúng sinh chẳng
sợ rơi vào địa ngục nữa. Thưa đức Thế Tôn! Ví như có người mới học làm
việc bị quan bắt nhốt vào ngục tù. Có người hỏi nó rằng : “Ngươi thọ việc
gì ?” Nó đáp : “Tôi nay chịu ưu khổ lớn !” Nếu người ấy được giải thoát
thì được yên vui. Ðức Thế Tôn cũng vậy, ngài vì chúng con nên tu những
hạnh khổ mà nay chúng con còn chưa được khỏi khổ não sinh tử thì làm sao
đức Như Lai được hưởng an vui ? Thưa đức Thế Tôn ! Ví như vị y vương giỏi
lý giải phương thuốc, thiên (lệch) dùng bí phương (phương thuốc bí mật)
dạy trao cho con mình, ngoài ra chẳng dạy phương thuốc ấy cho người ngoài
thọ học. Ðức Như Lai cũng vậy, ngài riêng đem pháp tạng bí mật thậm thâm
dạy cho một mình ngài Văn Thù, bỏ sót chúng con, chẳng thấy đức Phật đoái
hoài thương xót. Ðức Như Lai đối với pháp nên không bí mật tiếc rẻ như vị
y vương kia thiên lệch dạy cho con mình, chẳng dạy cho người ngoài đến thọ
học. Vị y vương sở dĩ chẳng thể dạy khắp là vì tình còn hơn thua nên còn
có bí mật tiếc rẻ. Tâm của đức Như Lai nhất định không hơn thua thì vì sao
chẳng thấy ngài dạy bảo như vậy ? Nguyện xin đức Như Lai ở lâu với đời chớ
vào Niết Bàn ! Thưa đức Thế Tôn ! Ví như người già ít bệnh khổ lìa bỏ con
đường bằng mà đi vào đường nguy hiểm. Ðường hiểm nhiều khó khăn, chịu đủ
mọi thứ khổ. Lại có người khác thấy họ mà thương xót liền bày ra con đường
bằng phẳng đẹp đẽ. Thưa đức Thế Tôn ! Con cũng như vậy. Sở dĩ nói ít là dụ
cho người chưa tăng trưởng pháp thân. Sở dĩ nói già là dụ cho phiền não
nặng. Sở dĩ nói bệnh khổ là ví cho chưa thoát khỏi sinh tử. Sở dĩ nói
đường hiểm là dụ cho hai mươi lăm cõi. Nguyện xin đức Như Lai bày đường
dẫn lối cho chúng con đi vào con đường cam lồ chân chánh. Xin ngài ở lâu
với đời, chớ vào Niết Bàn !
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo các Tỳkheo
rằng :
- Này các Tỳkheo ! Các ông chớ như những
người, trời.v.v... phàm phu mà lo buồn kêu khóc ! Các ông phải siêng năng
tinh tấn ràng buộc lòng vào chánh niệm !
Những trời, người, atula.v.v... nghe lời
nói của đức Phật thì dừng lại, chẳng kêu khóc nữa, giống như có người làm
đám tang đứa con yêu của mình, đưa đi chôn cất xong rồi, nén lòng dừng
chẳng khóc nữa. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn vì các đại chúng mà nói kệ rằng :
Ý các ông sẽ thông Ø Chẳng
nên sầu khổ lắm
Pháp Phật đều vậy nên Các ông
phải lặng lẽ
Ưa hạnh chẳng buông lung Giữ lòng ức
niệm chánh
Các phi pháp lìa xong Tự an ủi thọ
lạc.
Lại nữa, này các Tỳkheo ! Nếu các ông có
sự nghi hoặc thì hôm nay đều phải hỏi ! Hoặc không hay chẳng không, hoặc
thường hay vô thường, hoặc khổ hay chẳng khổ, hoặc nương (y) hay chẳng
nương, hoặc đi hay chẳng đi, hoặc về hay chẳng phải về, hoặc hằng hay
chẳng phải hằng, hoặc đoạn hay thường, hoặc chúng sinh hay chẳng phải
chúng sinh, hoặc có hay không, hoặc thật hay chẳng thật, hoặc chân hay
chẳng chân, hoặc diệt hay chẳng diệt, hoặc mật hay chẳng mật, hoặc hai hay
chẳng hai... Trong đủ thứ pháp như vậy.v.v... có điều gì nghi hoặc thì hôm
nay nên hỏi han tìm hiểu. Ta sẽ tùy thuận vì các ông đoạn trừ các nghi
hoặc đó cho ! Ta cũng sẽ vì các ông trước nói pháp cam lộ rồi nhiên hậu
mới sẽ vào Niết Bàn. Này các Tỳkheo ! Phật ra đời khó, thân người khó
được, gặp Phật sinh niềm tin thì việc này cũng khó, hay nhẫn là khó, nhẫn
được việc này cũng lại khó, thành tựu cấm giới đầy đủ không khiếm khuyết
được quả Alahán thì việc này cũng khó như cầu cát vàng, hoa Ưu đàm bát.
Này các Tỳkheo ! Các ông lìa khỏi tám nạn được thân người là khó. Các ông
gặp được ta chẳng nên luống qua ! Ta thuở xa xưa, tu đủ thứ hạnh khổ, nay
được phương tiện Vô thượng như vậy. Vì các ông nên trong vô lượng kiếp xả
bỏ thân, tay, chân, đầu, mắt, não, tủy... Vậy nên các ông chẳng nên buông
lung ! Này Tỳkheo các ông ! Sao gọi là trang nghiêm ngôi thành báu chánh
pháp đầy đủ các thứ công đức trân bảo ? - Dùng Giới, Ðịnh và Trí tuệ làm
tường vách, hào nước ! Các ông hôm nay gặp được ngôi thành báu Phật pháp
này thì chẳng nên chọn lấy vật hư ngụy này ! Ví như vị thương chủ gặp được
ngôi thành trân bảo mà chọn lấy những sành sỏi đem về nhà. Các ông cũng
như vậy, gặp được ngôi thành báu mà chọn lấy vật hư ngụy. Này Tỳkheo ! Các
ông chớ vì hạ tâm mà sinh ra biết đủ ! Các ông hôm nay tuy được xuất gia
nhưng đối với Ðại Thừa này chẳng phát sinh tham mộ. Này các Tỳkheo ! Các
ông tuy thân được mặc cà sa nhiễm y nhưng lòng còn chưa nhiễm pháp Ðại
Thừa thanh tịnh. Này các Tỳkheo ! Các ông tuy đi khất thực trải qua nhiều
nơi nhưng trước hết chưa từng cầu pháp thực Ðại Thừa. Này các Tỳkheo ! Các
ông tuy cạo bỏ râu tóc nhưng chưa vì chánh pháp trừ bỏ các kết sử. Này các
Tỳkheo ! Hôm nay ta sẽ chân thật dạy bảo các ông ! Ta nay hiện tại đại
chúng hòa hợp, pháp tính của Như Lai chân thật chẳng điên đảo. Vậy nên các
ông cần phải tinh tấn nhiếp lấy tâm, dũng mãnh tiêu diệt các kết sử. Mặt
trời tuệ mười lực ẩn mất rồi nên các ông sẽ bị sự che phủ của vô minh. Này
các Tỳkheo ! Ví như đất đai, các núi, thảo dược được chúng sinh sử dụng.
Pháp của ta cũng vậy, sinh ra vị pháp cam lộ diệu thiện mà làm thuốc hay
chữa đủ thứ bệnh phiền não của chúng sinh. Ta nay sẽ khiến cho tất cả
chúng sinh và các con của ta, bốn bộ chúng, đều an trụ trong bí mật tạng.
Ta cũng lại sẽ an trụ trong đó mà vào Niết Bàn. Những gì gọi là bí mật
tạng ? Giống như chư y , ba điểm nếu bằng thì chẳng thành y, dọc cũng
chẳng thành (?). Như ba mắt trên mặt của Ma Ê Thủ La mới được thành y. Ba
điểm nếu khác biệt cũng chẳng được thành. Ta cũng như vậy, pháp giải thoát
cũng chẳng phải Niết Bàn, thân Như Lai cũng chẳng phải Niết Bàn, Maha Bát
Nhã cũng chẳng phải Niết Bàn. Ba pháp đều khác, cũng chẳng phải Niết Bàn.
Ta nay an trụ ba pháp như vậy vì chúng sinh nên gọi là vào Niết Bàn, như
chữ y của đời.
Lúc bấy giờ, các vị Tỳkheo nghe đức Phật
Thế Tôn nhất định sẽ Niết Bàn đều lo buồn, thân nổi da gà, rơi nước mắt
chan hòa, cúi đầu dưới chân đức Phật, nhiễu quanh vô lượng vòng, bạch đức
Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Con thích nói về Vô
thường, Khổ, Không, Vô ngã. Thưa đức Thế Tôn ! Ví như, trong dấu chân của
tất cả chúng sinh thì dấu chân voi là trên. Vô thường tưởng này cũng lại
như vậy, ở trong các tưởng, nó là tối đệ nhất. Nếu có người tinh cần tu
tập thì có thể trừ được tất cả tham ái của dục giới ái, vô minh, kiêu mạn
và vô thường tưởng của sắc giới, vô sắc giới. Thưa đức Thế Tôn ! Ðức Như
Lai nếu lìa khỏi vô thường tưởng thì hôm nay chẳng nên vào Niết Bàn. Nếu
chẳng lìa khỏi thì sao nói rằng, tu vô thường tưởng thì lìa khỏi ái, vô
minh, kiêu mạn và vô thường tưởng của ba cõi. Thưa đức Thế Tôn ! Ví như
nhà nông vào thời tiết tháng mùa thu, cày sâu đất của mình thì có thể trừ
hết cỏ xấu. Vô thường tưởng này cũng lại như vậy, có thể trừ tất cả tham
ái của Dục giới, ái, vô minh, kiêu mạn và vô thường tưởng của Sắc giới và
Vô sắc giới. Thưa đức Thế Tôn ! Ví như cày ruộng thì cày vào mùa thu là
thượng sách, như trong các dấu chân thì dấu chân voi là to nhất, ở trong
các tưởng thì vô thường tưởng là trên hết. Thưa đức Thế Tôn! Ví như vị đế
vương biết mạng mình sắp hết nên ân xá cho thiên hạ. Những người bị ngục
tù, trói buộc, giam giữ đều khiến cho giải thoát. Nhiên hậu nhà vua mới bỏ
mạng. Ðức Như Lai hôm nay cũng nên như vậy. Ngài độ cho các chúng sinh,
những kẻ vô tri, vô minh, bị trói buộc giam giữ đều khiến cho giải thoát,
rồi nhiên hậu vào Niết Bàn. Chúng con hôm nay đều chưa được độ thì làm sao
đức Như Lai lại muốn buông bỏ mà vào Niết Bàn ? Thưa đức Thế Tôn ! Ví như
có người bị quỉ ám (nắm giữ) gặp được thầy bùa chú giỏi. Nhờ sức chú nên
họ liền được trừ bớt. Ðức Như Lai cũng vậy, vì các Thanh Văn trừ quỉ vô
minh, khiến cho được an trụ ở pháp Ðại Bát Nhã giải thoát.v.v... như chữ
thế y (?). Thưa đức Thế Tôn ! Ví như con hương tượng (một loài voi) bị
người bắt trói. Tuy có thầy giỏi nhưng chẳng thể cấm chế, nó phá tan kềm
tỏa mà đi theo ý của mình. Chúng con chưa thoát khỏi năm mươi bảy phiền
não trói buộc mà sao đức Như Lai liền muốn buông bỏ, vào với Niết Bàn ?
Thưa đức Thế Tôn ! Như người bị bệnh sốt rét gặp được thầy thuốc giỏi thì
sự khổ được trừ tiêu. Chúng con cũng như vậy, có nhiều những khổ hoạn, tà
mạng, nhiệt bệnh... tuy gặp được đức Như Lai, nhưng bệnh chúng con chưa
trừ khỏi, chưa được thường lạc yên ổn vô thượng thì sao đức Như Lai liền
muốn buông bỏ mà vào với Niết Bàn. Thưa đức Thế Tôn ! Ví như người say
rượu chẳng tự hay biết, chẳng nhận thức được thân sơ, mẹ, con gái, chị
em... mà mê mang dâm loạn, nói năng buông thả, nằm trong chỗ bất tịnh. Có
thầy giỏi cho thuốc bảo uống. Uống xong, người ấy mữa ra, trở lại tự nhớ
biết, lòng mang xấu hổ, tự khắc phục quở trách sâu sắc. Rượu là cội rễ của
các ác, bất thiện, nếu có thể đoạn trừ thì xa được mọi tội lỗi. Thưa đức
Thế Tôn ! Con cũng như vậy, từ xưa đến nay luân chuyển trong sinh tử, đắm
say tình sắc, ham thích ngũ dục, chẳng phải mẹ tưởng mẹ, chẳng phải chị
tưởng chị, chẳng phải con gái tưởng con gái, với chẳng phải chúng sinh
sinh ra chúng sinh tưởng. Vậy nên luân chuyển chịu khổ sinh tử như người
say kia nằm trong bất tịnh. Ðức Như Lai hôm nay sẽ bố thí cho con thuốc
pháp, khiến cho con trở lại mữa ra rượu ác phiền não mà con chưa được tâm
tỉnh thức thì sao đức Như Lai liền muốn buông bỏ, vào với Niết Bàn. Thưa
đức Thế Tôn ! Ví như có người khen cây chuối là chắc thật thì không có chỗ
này. Thưa đức Thế Tôn ! Chúng sinh cũng vậy, nếu khen ngã, nhân, chúng
sinh, thọ mạng, dưỡng dục, tri kiến, tác giả, thọ giả... là chân thật thì
cũng không có chỗ đó ! Chúng con tu vô ngã tưởng như vậy. Thưa đức Thế Tôn
! Ví như nước uống cặn đục không ai lại dùng. Thân này cũng vậy, vô ngã,
vô chủ. Thưa đức Thế Tôn ! Như hoa bảy cánh không có mùi hương. Thân này
cũng vậy, vô ngã, vô chủ. Chúng con như vậy lòng thường tu tập vô ngã
tưởng. Như đức Phật đã nói, tất cả các pháp không ngã và ngã sở, các
Tỳkheo nên thường tu tập. Tu tập như vậy rồi thì trừ được ngã mạn. Lìa ngã
mạn rồi thì liền vào Niết Bàn. Thưa đức Thế Tôn ! Ví như dấu vết chim ở
trong hư không hiện ra thì không có chỗ này ! Có thể tu tập vô ngã tưởng
mà có các kiến thì cũng không có chỗ này !
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn khen các Tỳkheo
rằng :
- Hay thay ! Hay thay ! Các ông giỏi có
thể tu tập vô ngã tưởng !
Các vị Tỳkheo liền bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Chúng con chẳng
những chỉ tu tập vô ngã tưởng mà cũng lại tu tập các tưởng khác nữa ! Như
là khổ tưởng, vô thường tưởng.v.v... Thưa đức Thế Tôn ! Ví như người say
rượu, lòng họ mê loạn, nhìn thấy những núi sông, thành quách, cung điện,
mặt trời, mặt trăng, tinh tú... đều xoay chuyển. Thưa đức Thế Tôn ! Nếu có
người chẳng tu tập khổ tưởng, vô thường tưởng, vô ngã tưởng.v.v... thì
người như vậy chẳng gọi là Thánh mà nhiều những buông lung, lưu chuyển
sinh tử. Thưa đức Thế Tôn ! Do nhân duyên này nên chúng con khéo tu tập
những tưởng như vậy.
Lúc bấy giờ, đức Phật bảo các Tỳkheo rằng
:
- Hãy lắng nghe ! Lắng nghe ! Các ông
hướng về sự dẫn dụ người say rượu. Các ông chỉ biết nó về mặt văn tự, chưa
đạt đến ý nghĩa của ví dụ ấy. Như người say rượu kia thấy, mặt trời mặt
trăng ở trên, thật sự chẳng phải xoay chuyển mà sinh ra tưởng xoay chuyển.
Chúng sinh cũng vậy, họ bị các phiền não, vô minh che phủ nên sinh ra lòng
điên đảo : Ngã cho là vô ngã, thường cho là vô thường, tịnh cho là bất
tịnh, vui cho là khổ...Do bị sự che phủ của phiền não nên tuy sinh ra
tưởng này nhưng chẳng đạt được ý nghĩa của chúng, như người say rượu kia
đối với việc chẳng phải xoay chuyển mà sinh tưởng chuyển. Ngã tức là Phật
nghĩa, thường tức là pháp thân nghĩa, lạc tức là Niết Bàn nghĩa, tịnh tức
là pháp nghĩa. Này các Tỳkheo ! Vì sao mà nói rằng, có ngã tưởng thì kiêu
mạn, cống cao, lưu chuyển sinh tử ? này các ông ! Nếu nói rằng, ngã cũng
tu tập vô thường tưởng, khổ tưởng, vô ngã tưởng thì ba thứ tu này không có
thật nghĩa. Ta nay sẽ nói ba pháp tu thù thắng. Khổ thì cho là vui, vui
thì cho là khổ đó là pháp điên đảo. Vô thường cho là thường, thường cho là
vô thường đó là pháp điên đảo. Vô ngã cho là ngã, ngã cho là vô ngã đó là
pháp điên đảo. Bất tịnh cho là tịnh, tịnh cho là bất tịnh đó là pháp điên
đảo. Có bốn pháp điên đảo như vậy thì người này chẳng biết chánh tu các
pháp. Này Tỳkheo các ông ! Ở trong pháp khổ mà sinh ra lạc tưởng; ở trong
vô thường mà sinh ra thường tưởng; ở trong vô ngã mà sinh ra ngã tưởng; ở
trong bất tịnh mà sinh ra tịnh tưởng. Thế gian cũng có Thường - Lạc - Ngã
- Tịnh, xuất thế gian cũng có Thường - Lạc - Ngã - Tịnh. Pháp thế gian thì
có chữ không có nghĩa. Pháp xuất thế gian thì có chữ, có nghĩa. Vì sao vậy
? Vì pháp thế gian có bốn điên đảo nên chẳng biết nghĩa. Sở dĩ vì sao? Vì
có tưởng điên đảo, tâm điên đảo, kiến điên đảo. Do ba điên đảo nên người
thế gian trong vui thấy khổ, trong thường thấy vô thường, trong ngã thấy
vô ngã, trong tịnh thấy bất tịnh. Ðó gọi là điên đảo. Do điên đảo nên thế
gian biết chữ mà chẳng biết nghĩa. Những gì là nghĩa ? - Vô ngã tức là
sinh tử, ngã tức là Như Lai. Vô thường là Thanh Văn, Duyên Giác, thường là
pháp thân của Như Lai. Khổ là tất cả ngoại đạo, lạc tức là Niết Bàn. Bất
tịnh tức là pháp hữu vi, tịnh là chánh pháp sở hữu của các đức Phật Bồ
tát. Ðó gọi là chẳng điên đảo. Do chẳng điên đảo nên biết chữ, biết nghĩa.
Nếu người muốn xa lìa bốn điên đảo thì nên biết Thường - Lạc - Ngã - Tịnh
như vậy.
Các vị Tỳkheo bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Như đức Phật đã nói,
lìa bốn điên đảo thì được biết rõ Thường - Lạc - Ngã - Tịnh, đức Như Lai
hôm nay vĩnh viễn không có bốn điên đảo thì đã rõ biết Thường - Lạc - Ngã
- Tịnh. Nếu đã rõ biết Thường - Lạc - Ngã - Tịnh thì vì sao đức Như Lai
chẳng trụ một kiếp hay nữa kiếp để dạy bảo, dẫn đường chúng con khiến cho
chúng con lìa khỏi bốn điên đảo mà lại buông bỏ chúng con, muốn vào Niết
Bàn. Ðức Như Lai nếu đoái hoài nghĩ đến, dạy bảo thì chúng con sẽ hết
lòng, thọ lĩnh để tu tập. Ðức Như Lai nếu phải vào Niết Bàn thì chúng con
làm sao cùng với tấm thân độc hại này đồng chung dừng ở tu tập phạm hạnh ?
Chúng con cũng sẽ theo đức Phật Thế Tôn vào với Niết Bàn !
Lúc bấy giờ, đức Phật bảo các Tỳkheo rằng
:
- Các ông chẳng nên nói ra lời như vậy !
Chánh pháp vô thượng sở hữu của ta hôm nay đều đem phú chúc cho ông Ma Ha
Ca Diếp. Ông Ca Diếp này sẽ vì các ông làm đại y chỉ, giống như Như Lai vì
các chúng sinh làm chỗ y chỉ. Ông Ma Ha Ca Diếp cũng lại như vậy, sẽ vì
các ông làm chỗ y chỉ. Ví như vị đại vương thống lĩnh nhiều việc. Nếu khi
đi tuần du thì đem hết việc nước phú chúc cho vị đại thần. Như Lai cũng
vậy, cũng đem chánh pháp sở hữu mà phú chúc cho ông Ma Ha Ca Diếp. Các ông
phải biết, trước tiên việc tu tập Vô thường tưởng, Khổ tưởng chẳng phải là
chân thật. Ví như vào mùa xuân có những người ở tại ao lớn, tắm rửa, ngồi
thuyền dạo chơi, làm rớt báu lưu ly chìm sâu trong nước. Lúc đó, mọi người
đều cùng vào trong nước tìm kiếm bảo vật này. Họ đua nhau bắt lấy ngói,
đá, cỏ cây, cát sỏi mà mỗi mỗi đều tự cho là được ngọc lưu ly, vui mừng
mang ra khỏi nước, mới biết chẳng phải thật. Lúc đó ngọc báu còn ở trong
nước, do sức của ngọc nên nước đều lắng trong. Ðến đây, đại chúng mới thấy
ngọc báu còn ở dưới nước giống như ngước xem hình dáng vầng trăng trong hư
không. Lúc đó, trong chúng có một người trí dùng sức phương tiện, từ từ
vào trong nước, liền lấy được ngọc. Này Tỳkheo ! Các ông chẳng nên như vậy
tu tập Vô thường tưởng, Khổ tưởng, Vô ngã tưởng, Bất tịnh tưởng.v.v... mà
lấy làm thật nghĩa, như những người kia đều lấy ngói, đá, cỏ cây, cát sỏi
mà làm ngọc báu. Các ông cần phải giỏi học phương tiện để tại khắp nơi nơi
luôn luôn tu tập Ngã tưởng, Thường tưởng, Lạc tưởng, Tịnh tưởng. Các ông
lại cần phải biết trước tiên việc tu tập là tướng mạo của bốn pháp đều là
điên đảo. Người muốn được chân thân tu các tưởng thì phải như người trí
kia, khéo léo tìm ra ngọc báu, gọi là Ngã tưởng, Thường tưởng, Lạc tưởng,
Tịnh tưởng.
Lúc bấy giờ, các vị Tỳkheo bạch đức Phật
rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Như đức Phật trước
đã nói, các pháp vô ngã, các ông phải tu học, tu học đó rồi thì lìa khỏi
ngã tưởng, lìa khỏi ngã tưởng thì lìa kiêu mạn, lìa kiêu mạn thì được vào
Niết Bàn. Ðó là ý nghĩa ra sao ?
Ðức Phật bảo các Tỳkheo rằng :
- Hay thay ! Hay thay ! Hôm nay, các ông
có thể hỏi han ý nghĩa này là đã tự đoạn nghi hoặc rồi. Ví như vị quốc
vương tối tăm, đần độn, ít trí có một người thầy thuốc, tính khí lại ngang
ngạnh tự đắc mà nhà vua chẳng riêng ban cho bổng lộc hậu. Ông ấy trị liệu
mọi bệnh thuần dùng thuốc sữa, cũng lại chẳng biết căn nguyên của sự khởi
bệnh. Tuy ông biết thuốc sữa nhưng lại chẳng khéo giải trừ bệnh phong lãnh
nhiệt (cảm sốt). Tất cả các bệnh ông đều dạy uống sữa. Vị vua này chẳng
phân biệt được vị thầy thuốc đó biết sữa tốt xấu, lành dữ. Lại có vị thầy
thuốc sáng suốt, thông hiểu tám thứ thuật, giỏi trị liệu mọi bệnh, biết
các phương thuốc, từ phương xa đến. Lúc đó người thầy thuốc cũ chẳng biết
học hỏi, trái lại sinh lòng cống cao, khinh mạn. Lúc đó vị thầy thuốc sáng
suốt liền cận kề thỉnh làm thầy, hỏi han pháp bí ảo của y phương và nói
với người thầy thuốc cũ rằng : “Tôi nay thỉnh ngài làm sư phạm ! Nguyện
xin ngài vì tôi tuyên xướng, giải nói !”. Người thầy thuốc cũ đáp rằng :
“Ông nay nếu có thể làm kẻ sai bảo cho ta bốn mươi tám năm thì nhiên hậu
ta mới sẽ dạy cho ông y pháp !” Lúc đó vị thầy thuốc sáng suốt liền nhận
lời dạy ấy mà nói rằng : “Tôi sẽ như vậy ! Tôi sẽ như vậy ! Tùy theo sở
năng của tôi, tôi sẽ cung cấp và chịu sự sai khiến của ngài”. Lúc đó,
người thầy thuốc cũ liền đem vị khách y cùng vào yết kiến nhà vua. Lúc đó
vị khách y liền vì nhà vua nói đủ thứ y phương và các kỹ nghệ khác rằng :
“Thưa Ðại vương ! Ngài phải biết rằng, nên khéo phân biệt : pháp này như
vậy có thể dùng trị nước ! Pháp này như vậy có thể dùng chữa bệnh !”. Bấy
giờ, vị quốc vương nghe lời nói này rồi mới biết người thầy thuốc cũ si ám
vô trí nên liền đuổi đi, lệnh cho ra khỏi quốc giới, rồi nhiên hậu cung
kính vị khách y bội phần. Khi đó vị khách y tác khởi ý niệm rằng : “Muốn
giáo hóa nhà vua thì hôm nay chính là lúc”. Ông liền nói với nhà vua rằng
: “Thưa Ðại vương ! Ðối với tôi nếu ngài thật sự ái niệm thì tôi sẽ yêu
cầu ngài một nguyện vọng”.
Nhà vua liền đáp rằng :
- Từ vai phải này và bộ phận khác của
thân thể, theo ý cầu xin của ông, tôi đều cho tất cả.
Vị khách y đó nói rằng :
- Nhà vua tuy hứa cho tôi tất cả bộ phận
thân thể, nhưng tôi chẳng dám có sự cầu xin nhiều. Việc cầu xin của tôi
hôm nay là, nguyện xin đức vua truyền lệnh cho tất cả trong nước, từ nay
về sau chẳng được uống thuốc sữa của vị thầy thuốc cũ. Sở dĩ vì sao ? Vì
thuốc đó độc hai gây nhiều thương tổn. Nếu ai còn uống thì sẽ chém đầu.
Ðoạn dứt thuốc sữa rồi, nhất định không có người chết oan uổng nữa mà
thường sống yên vui nên tôi cầu xin nguyện vọng đó !
Nhà vua đáp rằng :
- Sự cầu xin của ông chừng như chẳng đủ
lời !
Nhà vua liền vì ông ấy tuyên lệnh cho tất
cả trong nước, phàm những người bệnh đều chẳng được phép lấy sữa làm
thuốc. Nếu ai lấy nó làm thuốc thì sẽ bị chặt đầu.
Lúc bấy giờ, vị khách y hòa hợp mọi thứ
thuốc, như là các vị cay, đắng, mặn, ngọt, chua.v.v... để trị liệu mọi
bệnh thì không bệnh gì chẳng khỏi. Sau đó chẳng bao lâu, nhà vua lại bị
bệnh, liền ra lệnh cho vị thầy thuốc này : “Ta nay bệnh khốn phải điều trị
làm sao ?” Vị thầy thuốc xem bệnh nhà vua rồi thấy nên dùng thuốc sữa,
liền tâu với vua rằng :
- Như theo bệnh của nhà vua thì cần phải
uống sữa. Việc đoạn dứt thuốc sữa lúc trước của tôi là chẳng phải lời nói
thật. Hôm nay, nếu ngài uống thì bệnh rất có thể trừ được bệnh. Bệnh nóng
sốt của nhà vua hôm nay chính nên uống sữa !
Nhà vua nói với vị thầy thuốc rằng :
- Ông nay điên hay sao ? Bị bệnh sốt ư ?
Mà nói uống sữa có thể trừ được bệnh này. Trước đây ông bảo là độc, nay
sao lại bảo uống ? Muốn lừa dối ta sao ? Thầy thuốc trước khen sữa, còn
ông cho rằng nó độc, khiến ta đuổi ông ấy đi. Hôm nay ông lại cho rằng sữa
rất tốt có thể trừ bệnh. Như lời nói của ông thì người thầy thuốc cũ của
ta nhất định là hơn ông.
Lúc đó vị khách y lại nói với vua rằng :
- Nhà vua nay chẳng nên nói lời như vậy !
Như loài trùng ăn gỗ tạo thành chữ thì loài trùng này chẳng biết là chữ
hay chẳng phải chữ. Kẻ trí thấy chữ đó chẳng cho rằng loài trùng này hiểu
được chữ, cũng chẳng kinh ngạc, quái lạ. Ðại vương phải biết, vị cựu y
cũng vậy, ông chẳng phân biệt được các bệnh mà đều cho thuốc sữa như đường
ăn gỗ của loài trùng kia ngẫu nhiên thành chữ. Vị cựu y lúc trước này
chẳng hiểu biết sự tốt xấu thiện ác của thuốc sữa.
Nhà vua hỏi rằng :
- Sao gọi là chẳng hiểu biết ?
Vị khách y đáp nhà vua rằng :
- Thuốc sữa đó cũng là độc hại, cũng là
cam lộ. Sao gọi sữa đó là cam lộ ? Nếu con trâu lấy sữa này chẳng ăn cặn
rượu, cỏ trụi, rơm rạ, nghé con của nó điều phục, thuần tính, bãi chăn thả
chẳng ở tại vùng cao, cũng chẳng ở dưới thấp ẩm ướt, uống bằng nước trong,
chẳng dong ruổi đuổi chạy, chẳng cho trâu nghé ở chung bầy, ăn uống điều
hòa thích hợp, đi đứng được chỗ thì sữa của con trâu như vậy có thể trừ
các bệnh. Sữa đó gọi là cam lồ diệu dược. Trừ loại sữa đó ra, còn tất cả
đều gọi là độc hại.
Bấy giờ, vị đại vương nghe lời nói đó rồi
liền khen rằng :
- Này đại y (vị thầy thuốc lớn) ! Hay
thay ! Hay thay ! Ta từ ngày hôm nay, mới biết được sự thiện ác, tốt xấu
của thuốc sữa.
Nhà vua liền uống thuốc sữa và bệnh được
trừ khỏi, tức thời tuyên lệnh cho tất cả trong nước từ nay về sau phải
uống thuốc sữa. quốc dân nghe lệnh đó đều sinh ra sân hận, đều nói với
nhau rằng : “Nhà vua hôm nay bị quỉ ám hay bị điên rồi sao mà lừa gạt
chúng ta lại ra lệnh uống sữa”. Tất cả nhân dân đều ôm lòng sân hận, đều
tập họp ở chỗ vua. Nhà vua nói rằng :
- Các người chẳng nên đối với ta mà sinh
ra sân hận ! Như thuốc sữa này uống hay chẳng uống đều là thầy thuốc dạy,
chẳng phải là lỗi của ta !
Lúc bấy giờ, đại vương cùng những nhân
dân nhảy nhót vui mừng cung kính cúng dường bội phần vị thầy thuốc đó. Tất
cả người bệnh đều uống thuốc sữa, bệnh đều trừ khỏi hết.
Ðức Phật dạy rằng :
- Này Tỳkheo ! Các ông phải biết rằng,
Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri Minh Hành Túc Thiện Thệ Thế Gian Giải Vô
Thượng Sĩ Ðiều Ngự Trượng Phu Thiên Nhân Sư Phật Thế Tôn cũng lại như vậy,
là Ðại Y vương xuất hiện ở thế gian, hàng phục tất cả ngoại đạo, tà y, ở
trong bốn chúng xướng lên như vầy : “Ta là Y vương !” Ta muốn hàng phục
ngoại đạo nên xướng lên rằng : “Không ngã, không nhân, không chúng sinh,
không thọ mạng, không dưỡng dục, không tri kiến, không tác giả, không thọ
giả”. Này các Tỳkheo ! Các ông phải biết, lời nói của các ngoại đạo này về
ngã như loài trùng ăn gỗ ngẫu nhiên thành chữ vậy. Vậy nên Như Lai, ở
trong Phật pháp xướng rằng, vô ngã là vì điều phục chúng sinh, vì biết
thời. Vô ngã như vậy là có nhân duyên nên ta cũng nói hữu ngã, như vị thầy
thuốc giỏi kia giỏi biết sữa là thuốc, là chẳng phải thuốc, chẳng phải như
việc cho có ngô ngã của kẻ phàm phu. Việc cho là Ngã của kẻ phàm phu ngu
muội thì hoặc có người nói rằng, lớn như ngón tay cái, hoặc như hạt cải,
hoặc như vi trần. Như Lai nói về Ngã đều chẳng như vậy. Vậy nên nói rằng,
các pháp vô ngã, thật ra chẳng phải vô ngã. Cái gì là Ngã ? Nếu pháp là
thật là chân, là thường, là chủ, là y tính chẳng biến dị thì đó gọi là
Ngã. Như vị Ðại y kia giỏi lý giải thuốc sữa, Như Lai cũng vậy, vì các
chúng sinh nên nói trong các pháp chân thật có Ngã. Bốn chúng các ông cần
phải tu tập pháp này như vậy.
KINH ÐẠI BÁT NIẾT BÀN
-
Quyển thứ hai hết -
--- o0o ---
Mục Lục
01 |
02 |
03 | 04 |
05 |
06 | 07 |
08 |
09 | 10 |
11 |
12
13 |
14 | 15 |
16 |
17 | 18 |
19 |
20 | 21 |
22 |
23 | 24
25 |
26 | 27 |
28 |
29 | 30 |
31 | 32 |
33 |
34 | 35 |
36
--- o0o ---
|
Thư
Mục Tác Giả |
--- o0o ---
Vi tính: Thọ Huệ
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày:
01-2-2003