KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
- Hán dịch: Căn
cứ bản dịch của Tam Tạng Pháp sư
Đàm Vô Sấm,
Sa môn Tuệ Nghiêm, Tuệ Quán, và Tạ
Linh Vân sửa lại
- Đời Tống
- Việt dịch:
Tuệ Khai cư sĩ -
Phan Rang
Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
---o0o---
Quyển thứ 12
PHẨM
THÁNH HẠNH (tiếp theo)
PHẦN XIX/2.
Này
thiện nam tử ! Sao gọi là Ðại Bồ tát trụ ở Ðại Thừa Ðại Bát Niết Bàn, quan
sát Tập đế ? Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát quan sát Tập đế này chính là ấm
nhân duyên. Sở dĩ gọi là Tập là trở lại Ái với Hữu. Ái có hai thứ, một là
yêu thân mình, hai là yêu những thứ cần dùng. Ái lại có hai thứ, chưa được
năm dục thì buộc lòng chuyên cầu, đã cầu được rồi thì kham nhẫn chuyên đắm
trước. Ái lại có ba thứ là dục ái, sắc ái, vô sắc ái. Ái lại có ba thứ là
nghiệp nhân duyên ái, phiền não nhân duyên ái, khổ nhân duyên ái. Người
xuất gia có bốn thứ ái. Những gì là bốn ? Ðó là y phục, ẩm thực, ngoạ cụ,
thuốc thang. Ái lại có năm thứ là tham trước năm ấm. Theo những thứ cần
dùng, ái trước tất cả, phân biệt tính toán vô lượng vô biên. Này thiện nam
tử ! Ái có hai thứ, một là thiện ái, hai là bất thiện ái. Bất thiện ái là
sự cầu của phàm phu ngu si. Thiện pháp ái là cầu của các Bồ tát. Thiện
pháp ái lại có hai thứ là chẳng thiện cùng thiện. Cầu Nhị thừa thì gọi là
bất thiện. Cầu Ðại Thừa thì gọi là thiện. Này thiện nam tử! Ái của phàm
phu thì gọi đó là Tập, chẳng gọi là Ðế. Bồ tát ái thì gọi là Thật Ðế,
chẳng gọi là Tập. Vì sao vậy ? Vì sở dĩ thọ sinh là vì độ chúng sinh, chứ
chẳng do ái mà thọ sinh vậy.
Bồ tát Ca
Diếp bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức
Thế Tôn ! Như đức Phật Thế Tôn, ở trong các kinh còn lại, vì các chúng
sinh mà nói nghiệp vì nhân duyên, hoặc nói kiêu mạn, hoặc nói sáu chạm
xúc, hoặc nói vô minh vì năm thịnh ấm mà tạo tác nhân duyên. Nay đức Thế
Tôn dùng cái nghĩa gì nói Tứ Thánh Ðế mà độc nhất dùng tính của ái làm
nhân của năm ấm ?
Ðức Phật khen
ngài Ca Diếp rằng :
- Hay
thay ! Hay thay ! Này thiện nam tử ! Ðúng như lời nói của ông! Các nhân
duyên chẳng phải là chẳng phải nhân nhưng chỉ có năm ấm là nhân duyên chủ
yếu đối với ái. Này thiện nam tử ! Ví như vị đại vương, nếu ra đi tuần du
thì đại thần, quyến thuộc đều tùy tùng. Ái cũng như vậy, tùy theo chỗ hành
của ái thì các kết này.v.v... cũng lại đi theo. Ví như áo bẩn có bụi bám
theo, nếu mặc vào thì bụi ở theo. Ái cũng như vậy, tùy theo chỗ sở ái mà
nghiệp kết cũng ở theo. Lại nữa, này thiện nam tử ! Ví như đất ẩm thì có
thể mọc mầm; ái cũng như vậy, có thể nảy sinh mầm phiền não của tất cả
nghiệp. Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát trụ ở Ðại Thừa Ðại Bát Niết Bàn,
quan sát sâu ái này thì thường có chín thứ, một là như nợ có dư, hai là
như vợ con La Sát, ba là như cành hoa đẹp có rắn độc, bốn là như thức ăn
chẳng ưa thích mà buộc phải ăn, năm là như dâm nữ, sáu là như Ma lâu ca tử
(?), bảy là như trúng thương lở thịt, tám là như gió dữ, chín là như sao
Tuệ. Sao gọi là như nợ có dư ? Này thiện nam tử ! Ví như người nghèo cùng
nhờ cậy tiền tài của người khác, tuy muốn đền trả hết nhưng còn chưa hết,
như buộc tại ngục mà chẳng được thoát. Thanh Văn, Duyên Giác cũng lại như
vậy, do có dư khí của ái tập nên chẳng thể thành được Vô Thượng Chánh Ðẳng
Chánh Giác. Này thiện nam tử ! Ðó gọi là như nợ có dư. Này thiện nam tử !
Sao gọi là như vợ con La Sát ? Này thiện nam tử ! Ví như có người được
cưới con gái La Sát làm vợ. Con gái La Sát này theo lẽ sinh ra con, sinh
rồi liền ăn con, ăn con đã hết lại ăn luôn cả chồng. Này thiện nam tử !
Con gái La Sát Ái cũng lại như vậy, theo các chúng sinh sinh ra con thiện
căn. Theo con sinh ra mà ăn thịt, con thiện căn đã hết, La Sát lại ăn luôn
chúng sinh, khiến cho họ rơi vào địa ngục, súc sinh, ngã quỉ, chỉ trừ Bồ
tát. Ðó gọi là như vợ con gái La Sát. Này thiện nam tử ! Sao gọi là như
cành hoa đẹp có rắn độc quấn quanh ? Ví như có người tính ưa thích hoa,
chẳng thấy tai họa rắn độc của cành hoa, liền nắm lấy trước, nắm rồi bị
nọc độc của rắn, bị nọc độc liền mạng chung. Tất cả phàm phu cũng lại như
vậy, tham hoa năm dục, chẳng thấy tai họa của rắn độc ái mà liền thọ lấy,
liền bị nọc độc của rắn ái mà mạng chung, liền đọa vào trong ba đường ác,
chỉ trừ Bồ tát. Ðó gọi là như cành hoa đẹp có độc xà quấn quanh. Này thiện
nam tử ! Sao gọi là chẳng tiện ăn mà cưỡng ép ăn ? Ví như có người chẳng
tiện ăn mà cưỡng ép phải ăn, ăn rồi bị bệnh đau bụng mà chết. Món ăn ái
cũng như vậy, chúng sinh trong năm đường bị cưỡng ép ăn tham trước. Do
nhân duyên này nên rơi vào ba đường ác, chỉ trừ Bồ tát. Ðó gọi là cái
chẳng tiện ăn mà cướng ép phải ăn. Này thiện nam tử ! Sao gọi là như dâm
nữ ? Ví như người ngu cùng với dâm nữ thông dâm mà dâm nữ kia khéo làm đủ
thứ siễm mỵ, hiện bày thân mật để đọat hết tiền tài sở hữu của người đó,
tiền tài đã hết lại liền đuổi đi ! Dâm nữ ái cũng như vậy, người ngu không
trí cùng nó giao thông. Dâm nữ ái này đọat hết tất cả thiện pháp sở hữu
của người ấy, thiện pháp đã hết thì xua đuổi khiến cho rơi vào trong ba
đường ác, chỉ trừ Bồ tát. Ðó gọi là như dâm nữ. Này thiện nam tử ! Sao gọi
là như hạt ma lâu ca ? Ví như hạt ma lâu ca, nếu chim ăn rồi theo phân rơi
xuống đất, hoặc nhân theo gió thổi đến ở dưới cây. Nó liền sinh trưởng,
quấn quanh, trói buộc cây Ni câu la khiến cho cây ấy chẳng tăng trưởng mà
khô chết. Hạt Ma lâu ca ái cũng lại như vậy, trói buộc thiện pháp sở hữu
của phàm phu chẳng cho tăng trưởng, liền đi đến khô diệt. Ðã khô diệt rồi
thì phàm phu sau khi mạng chung rơi vào ba đường ác, chỉ trừ Bồ tát. Ðó
gọi là như hạt ma lâu ca. Này thiện nam tử ! Sao gọi là như trúng thương
lở thịt. Như người trúng thương lâu sinh ra lở thịt. Người ấy cần phải
siêng năng hết lòng trị liệu, chớ sinh ra tâm bỏ phế. Nếu họ sinh lòng bỏ
phế thì chỗ thịt lở lớn thêm, nhọt trùng lại sinh ra. Do nhân duyên này
nên liền mạng chung. Ghẻ lở năm ấm của người phàm phu ngu si cũng lại như
vậy, ái ở trong ấy mà bị lở thịt thì cần phải dốc lòng siêng trị liệu vết
thịt lở ái. Nếu họ chẳng trị liệu thì mạng chung liền rơi vào trong ba
đường ác, chỉ trừ Bồ tát. Ðó gọi là như trúng thương lở thịt. Này thiện
nam tử ! Sao gọi là như gió dữ ? Ví như gió dữ có thể san bằng núi gò, nhổ
bật cả rễ sâu. Gió dữ ái dục cũng lại như vậy, ở chỗ cha mẹ mà sinh ra ác
tâm có thể nhổ bật căn bản Bồ Ðề sâu chắc vô thượng của bậc đại trí Xá Lợi
Phất.v.v..., chỉ trừ Bồ tát. Ðó gọi là như gió dữ. Này thiện nam tử ! Sao
gọi là như sao Tuệ ? Ví như sao Tuệ xuất hiện dưới vòm trời thì tất cả
nhân dân đói kém, bệnh tật, gầy mòn... mắc thêm những khổ não. Sao Tuệ ái
cũng lại như vậy, có thể đoạn diệt tất cả hạt giống thiện căn, khiến cho
người phàm phu cô độc, khốn cùng, đói kém sinh ra bệnh phiền não, lưu
chuyển trong sinh tử, chịu đủ thứ khổ, chỉ trừ Bồ tát. Ðó gọi là sao tuệ.
Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát trụ ở Ðại Thừa Ðại Bát Niết Bàn quan sát
chín thứ ái kết như vậy. Này thiện nam tử ! Do nghĩa này nên các người
phàm phu có khổ Vô Ðế, Thanh Văn, Duyên Giác có khổ Hữu Khổ Ðế mà không
Chân Ðế, các Bồ tát .v.v... lý giải khổ không khổ (vô khổ). Vậy nên không
khổ mà có Chân Ðế. Các người phàm phu có Tập Vô Ðế, Thanh Văn, Duyên Giác
có tập Hữu Tập Ðế. Các Bồ tát .v.v... lý giải Tập Không Tập (vô Tập). Vậy
nên không tập mà có Chân Ðế, Thanh Văn, Duyên Giác có Diệt chẳng phải
Chân. Ðại Bồ tát có Diệt có Chân Ðế. Thanh Văn, Duyên Giác có Ðạo chẳng
phải Chân. Ðại Bồ tát có Ðạo có Chân Ðế.
Này thiện nam
tử ! Sao gọi là Ðại Bồ tát trụ ở Ðại Thừa Ðại Bát Niết Bàn thấy Diệt, thấy
Diệt Ðế ? Ðó là đoạn trừ tất cả phiền não. Nếu phiền não đoạn trừ thì gọi
là Thường. Diệt lửa phiền não thì gọi là tịch diệt. Phiền não diệt rồi thì
được hưởng thọ lạc. Các đức Phật, Bồ tát cầu nhân duyên nên gọi là tịnh mà
lại chẳng thọ hai mươi lăm cõi hữu nên gọi là xuất thế. Do xuất thế nên
gọi là Ngã. Thường đối với sắc, thanh, hương, vị, xúc.v.v.. hoặc nam, hoặc
nữ, hoặc sinh, trụ, diệt, hoặc khổ, hoặc vui, chẳng khổ chẳng vui, chẳng
thủ lấy tướng mạo... nên gọi là rốt ráo Tịch Diệt Chân Ðế. Này thiện nam
tử ! Bồ tát như vậy trụ ở Ðại Thừa Ðại Bát
Niết Bàn mà quan sát
Diệt Thánh Ðế. Này thiện nam tử ! Sao gọi là Ðại Bồ tát trụ ở Ðại Thừa Ðại
Bát Niết Bàn, quan sát Ðạo Thánh Ðế. Này thiện nam tử ! Ví như trong tối
nhờ đèn mà thấy được vật lớn, nhỏ. Ðại Bồ tát cũng lại như vậy, trụ ở Ðại
Thừa Ðại Bát Niết Bàn, nhờ tám Thánh Ðạo mà thấy tất cả pháp. Ðó là thường
- vô thường, hữu vi - vô vi, có chúng sinh - chẳng phải chúng sinh, vật -
chẳng phải vật, khổ - lạc, ngã - vô ngã, tịnh - chẳng tịnh, phiền não -
chẳng phải phiền não, nghiệp - chẳng phải nghiệp, thật - chẳng thật, thừa
- chẳng phải thừa, tri - vô tri, Ðà la phiếu - chẳng phải Ðà la phiếu, cầu
na - chẳng phải cầu na, kiến - chẳng phải kiến, sắc - chẳng phải sắc, đạo
- chẳng phải đạo, giải - chẳng phải giải...Này thiện nam tử ! Bồ tát như
vậy, trụ ở Ðại Thừa Ðại Bát Niết Bàn mà quan sát Ðạo Thánh Ðế.
Bồ tát Ca
Diếp bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức
Thế Tôn ! Nếu tám Thánh Ðạo là Ðạo Thánh Ðế thì nghĩa chẳng tương ứng. Vì
sao vậy ? Vì đức Như Lai, hoặc nói rằng, lòng tin là đạo, có thể độ được
các lậu. Hoặc có khi ngài nói rằng, Ðạo là chẳng phóng dật đó ! Các
đức Phật Thế Tôn chẳng phóng dật nên được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.
Ðạo cũng là pháp trợ đạo của Bồ tát. Hoặc có khi ngài nói rằng, tinh tấn
là Ðạo. Như ngài bảo A Nan rằng, nếu có người có thể siêng tu tinh tấn thì
được thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Hoặc có khi ngài nói rằng, Ðạo
là quán thân niệm xứ, nếu có người buộc lòng mình tinh cần tu tập thân
niệm xứ này thì được thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Hoặc có khi
đức Phật nói rằng, Chánh Ðịnh là đạo, như ngài bảo đại đức Ðại Ca Diếp,
phàm Chánh định thì chân thật là Ðạo, chẳng phải chẳng Chánh định mà là
Ðạo vậy. Nếu vào Chánh định thì mới có thể tư duy sự sinh diệt của năm ấm,
chẳng phải chẳng vào định mà có thể tư duy vậy. Hoặc đức Phật nói rằng,
một pháp, nếu người tu tập thì có thể tịnh chúng sinh, diệt trừ tất cả lo
buồn khổ não, kiến lập được chánh pháp - Pháp đó gọi là Niệm Phật tam
muội. Hoặc đức Phật lại nói rằng, tu vô thường tưởng thì đó gọi là Ðạo.
Như ngài bảo các Tỳ kheo rằng, có người có thể tu nhiều Vô thường tưởng
thì có thể được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Hoặc đức Phật nói rằng,
ngồi một mình ở chỗ A lan nhã không tịch mà tư duy thì có thể mau chóng
được thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Hoặc có khi đức Phật nói rằng,
vì người diễn nói pháp thì đó gọi là Ðạo. Nếu nghe pháp rồi lưới nghi liền
đoạn trừ mà lưới nghi đã đoạn trừ rồi thì được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh
Giác. Hoặc có khi đức Phật nói rằng, trì giới là đạo, như ngài đã bảo ngài
A Nan, nếu có người tinh cần tu trì cấm giới thì người đó qua khỏi khổ lớn
sinh tử. Hoặc có khi đức Phật nói rằng, gần gũi bạn lành thì đó gọi là
Ðạo, như ngài bảo ngài A Nan, nếu có người gần gũi bậc thiện tri thức thì
an tịnh được giới. Nếu có chúng sinh có thể gần gũi ta thì được phát tâm
Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Hoặc có khi đức Phật nói rằng, tu Từ (bi)
là Ðạo. Người tu học Từ thì đoạn trừ các phiền não, được chỗ chẳng động
(bất động xứ). Hoặc có khi đức Phật nói rằng, trí tuệ chính là Ðạo. Như
đức Phật thuở xưa vì Tỳ kheo ni Ba Xà Ba Ðề nói rằng : “Này chị em ! Như
các Thanh Văn dùng dao trí tuệ có thể đoạn dứt các lậu phiền não của các
dòng chảy”. Hoặc có khi đức Phật nói rằng, thí chính là Ðạo. Như thuở
trước đức Phật bảo vua Ba Tư Nặc rằng : “Này Ðại vương ! Ông phải biết, ta
thuở xa xưa làm nhiều việc huệ thí. Do nhân duyên này nên ngày nay được
thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác”. Thưa đức Thế Tôn ! Nếu tám Thánh
Ðạo là Ðạo Ðế thì như vậy các kinh điển há chẳng phải là hư vọng ư ? Nếu
những Kinh đó chẳng phải là hư vọng thì vì duyên gì trong những Kinh đó
chẳng nói tám Thánh Ðạo là Ðạo Thánh Ðế. Nếu những Kinh đó chẳng nói thì
thuở xưa vì sao đức Như Lai lầm lẫn ? Nhưng con nhất định biết các đức
Phật Như Lai từ lâu lìa khỏi sự lầm lẫn !
Lúc bấy giờ,
đức Thế Tôn khen Bồ tát Ca Diếp rằng :
- Hay thay !
Hay thay ! Này thiện nam tử ! Ông nay muốn biết bí mật sở hữu trong Kinh
điển vi diệu Ðại Thừa của Bồ tát thì nên hỏi vấn đề đó. Này thiện nam tử !
Ðúng vậy, các Kinh điển đều vào Ðạo Ðế ! Này thiện nam tử ! Như trước ta
đã nói, nếu có người tin đạo mà tin đạo như vậy là căn bản của niềm tin,
là có thể tá trợ đạo Bồ Ðề. Vậy nên lời nói của ta không có lầm lẫn. Này
thiện nam tử ! Như Lai giỏi biết vô lượng phương tiện, muốn hóa độ chúng
sinh nên tạo tác đủ thứ thuyết pháp như vậy. Này thiện nam tử ! Ví như vị
lương y nhận biết nguyên nhân đủ thứ bệnh của các chúng sinh, rồi
tùy theo sự bệnh hoạn của họ mà vì họ hòa hợp thuốc, cùng sự cấm kỵ của
thuốc, chỉ dùng một thứ nước, chẳng ở trong cấm lệ. Hoặc cho uống nước
gừng, hoặc nước cam thảo, hoặc nước Tế tân, hoặc nước Hắc thạch mật, hoặc
nước A ma lặc, hoặc nước Ni bà la, hoặc nước Bát trú la, hoặc uống nước
lạnh, hoặc uống nước nóng, hoặc nước bồ đào, hoặc nước An thạch lựu. Này
thiện nam tử ! Như vậy vị lương y giỏi biết đủ thứ thuốc trị bệnh hoạn của
chúng sinh tuy có nhiều nước cấm nhưng chẳng còn lệ thuộc. Như Lai cũng
vậy, giỏi biết phương tiện, nhưng đối với pháp tướng tùy theo các chúng
sinh mà phân biệt rộng nói đủ thứ danh tướng. Những chúng sinh kia theo
lời nói mà thính thọ, thọ rồi tu tập đoạn trừ phiền não, như người bệnh
kia theo lời dạy của lương y nên bệnh hoạn được tiêu trừ. Lại nữa, này
thiện nam tử ! Như có người giỏi lý giải mọi lời nói ở trong đại chúng.
Những đại chúng này bị sự bức bách mà nóng khát, hoặc phát lên tiếng rằng
: “Ta muốn uống nước ! Ta muốn uống nước !” Người giỏi giải đó tức thời
dùng nước trong mát, tùy theo chủng loại của những người khát ấy mà nói
rằng : “Nước đây !”, hoặc nói rằng: “Ba ni !”, hoặc nói rằng : “Uất đặc
!”, hoặc nói rằng : “Ta lợi lam!”, hoặc nói rằng : “Bà lợi !”, hoặc nói
rằng : “Bà Gia !”, hoặc nói rằng : “Cam Lộ !”, hoặc nói rằng : “Sữa trâu
!”. Người đó dùng vô lượng tên của nước như vậy mà vì đại chúng nói lên.
Này thiện nam tử ! Như Lai cũng vậy, dùng một Thánh Ðạo vì các Thanh Văn
diễn nói đủ thứ, từ tín căn.v.v.. đến tám Thánh Ðạo. Lại nữa, này thiện
nam tử ! Ví như người thợ bạc vàng bậc thầy dùng một thứ vàng mà tùy ý tạo
tác đủ thứ chuỗi ngọc, như là kẹp, khóa, vòng ngọc, vòng xuyến, thoa cài
tóc, mũ trời, dấu ấn cánh tay... Tuy có sự sai biệt chẳng đồng như vậy
nhưng chẳng lìa khỏi vàng. Này thiện nam tử ! Như Lai cũng vậy, dùng một
Phật đạo tùy theo các chúng sinh, phân biệt đủ thứ mà vì họ nói cho. Hoặc
nói một thứ, như là chư Phật một đạo không hai. Phật lại nói hai thứ, như
là Ðịnh, Tuệ. Lại nói ba thứ, như là thấy trí tuệ. Lại nói bốn thứ, như là
thấy đạo, tu đạo, không học đạo, Phật đạo. Lại nói năm thứ, như là tín
hành đạo, pháp hành đạo, tín giải thoát đạo, kiến đáo đạo, thân chứng đạo.
Lại nói sáu thứ, như là Tu Ðà Hoàn đạo, Tư Ðà hàm đạo, A Na Hàm đạo, A La
Hán đạo, Bích Chi Phật đạo, Phật đạo. Lại nói bảy thứ, như là niệm giác
phận, trạch pháp giác phận, tinh tấn giác phận, hỷ giác phận, trừ giác
phận, định giác phận, xả giác phận. Lại nói tám thứ, đó là chánh kiến,
chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh
niệm, chánh định. Lại nói chín thứ, đó là tám Thánh đạo và tín. Lại nói
mười thứ, đó là mười lực. Lại nói mười một thứ, đó là mười lực và đại từ.
Lại nói mười thứ, đó là mười lực và đại từ, đại bi. Lại nói mười ba thứ,
đó là mười lực và đại từ, đại bi, niệm Phật tam muội. Lại nói mười sáu
thứ, đó là mười lực, đại từ, đại bi, niệm Phật tam muội và ba chánh niệm
xứ sở đắc của Phật. Lại nói hai mươi đạo, đó là mười lực, bốn vô sở úy,
đại từ, đại bi, niệm Phật tam muội và ba chánh niệm xứ. Này thiện nam tử !
Ðạo này là một thể, Như Lai ngày xưa vì chúng sinh nên phân biệt đủ thứ.
Lại nữa, này thiện nam tử ! Ví như nhân từ một thứ lửa đốt cháy lên mà
được đủ thứ tên, như là lửa cây, lửa cỏ, lửa trấu, lửa rơm, lửa phân trâu
ngựa... Này thiện nam tử ! Phật đạo cũng vậy, chỉ một mà không hai, nhưng
vì chúng sinh nên phân biệt đủ thứ. Lại nữa, này thiện nam tử ! Ví như một
thứ nhận thức mà phân biệt nói thành sáu thứ : Nếu đến với mắt thì gọi là
nhãn thức (nhận biết của mắt)... cho đến ý thức cũng lại như vậy. Này
thiện nam tử ! Ðạo cũng như vậy, chỉ một mà không hai, nhưng Như Lai vì
giáo hóa các chúng sinh nên phân biệt ra đủ thứ. Lại nữa, này thiện nam tử
! Ví như việc thấy của mắt về một sắc thì gọi là màu sắc. Cái nghe của tai
thì gọi là Thanh (tiếng). Cái ngữi của mũi thì gọi là Hương. Cái nếm của
lưỡi thì gọi là Vị. Cái hay biết của thân thì gọi là Xúc. Này thiện nam tử
! Ðạo cũng như vậy, chỉ một mà không hai, nhưng Như Lai vì muốn giáo hóa
chúng sinh nên phân biệt ra đủ thứ. Này thiện nam tử ! Do nghĩa này nên
Bát Thánh Ðạo phận tên là Ðạo Thánh Ðế. Này thiện nam tử ! Bốn Thánh Ðế
này, các đức Phật Thế Tôn theo thứ lớp nói đến. Do nhân duyên này nên vô
lượng chúng sinh đã được khỏi sinh tử.
Bồ tát Ca
Diếp bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức
Thế Tôn ! Một thuở trước đây, đức Phật ở trong rừng Thi Thủ bên bờ sông
Hằng, bấy giờ, đức Như Lai lấy một ít lá cây rồi bảo các Tỳ kheo rằng :
“Số lá cầm trong tay ta hôm nay nhiều hay số lá của tất cả cây cỏ mọc trên
đất nhiều ?” Các thầy Tỳ kheo bạch rằng: “Thưa đức Thế Tôn ! Số lá của tất
cả cây cỏ mọc trên đất nhiều chẳng thể kể xiết, còn số lá của đức Như Lai
nắm thì ít chẳng đủ nói”. “Này các Tỳ kheo ! Sự hiểu biết của ta về tất cả
pháp như những cỏ cây mọc khắp trên đất, nhưng những điều vì các chúng
sinh tuyên nói thì như số lá nắm trong tay”. Ðức Thế Tôn, bấy giờ đã nói
lời như vậy. Ðức Như Lai đã hiểu rõ vô lượng các pháp, nếu người vào bốn
Ðế thì tức là đã nói, nếu người chẳng vào thì cần có năm Ðế ?
Ðức Phật khen
ngài Ca Diếp :
- Hay thay !
Hay thay ! Này thiện nam tử ! Ðiều hỏi của ông hôm nay có thể đem lại lợi
ích, yên ổn, khoái lạc cho vô lượng chúng sinh. Này thiện nam tử ! Như vậy
các pháp đều đã thâu nhiếp tại trong bốn Ðế.
Bồ tát Ca
Diếp lại bạch đức Phật rằng :
- Những pháp
như vậy, nếu ở tại bốn Ðế thì vì sao đức Như Lai xướng rằng, chẳng nói ?
Ðức Phật nói
rằng :
- Này thiện
nam tử ! Tuy lại vào trong nhưng còn chẳng gọi là nói. Vì sao vậy ? Này
thiện nam tử ! Vì biết bốn Ðế có hai thứ trí, một là trung trí, hai là
thượng trí. Trung trí là trí của Thanh Văn, Duyên Giác. Thượng trí là trí
của các đức Phật, Bồ tát. Này thiện nam tử ! Biết các ấm là khổ thì gọi là
trung trí. Phân biệt các ấm có vô lượng tướng, đều là các khổ thì chẳng
phải là sự hiểu biết của Thanh Văn, Duyên Giác. Ðó gọi là thượng trí. Này
thiện nam tử ! Những nghĩa như vậy, ta đối với những Kinh đó, trọn chẳng
nói đến. Này thiện nam tử ! Biết các nhập thì gọi đó là cửa (môn), cũng
gọi là Khổ. Ðó gọi là Trung trí. Phân biệt các nhập có vô lượng tướng đều
chính là khổ thì chẳng phải là sự hiểu biết của Thanh Văn, Duyên Giác. Ðó
gọi là Thượng trí. Những nghĩa như vậy, ta đối với những Kinh đó, cũng
chẳng nói đến. Này thiện nam tử ! Biết các Giới thì gọi đó là phận, cũng
gọi là tánh, cũng gọi là khổ. Ðó gọi là Trung trí. Phân biệt các giới có
vô lượng tướng đều chính là các khổ thì chẳng phải là sự hiểu biết của các
Thanh Văn, Duyên Giác. Ðó gọi là Thượng trí. Này thiện nam tử ! Những
nghĩa như vậy, ta đối với Kinh đó, cũng chẳng nói đến. Này thiện nam tử !
Biết tướng hoại của sắc thì đó gọi là Trung trí. Phân biệt các sắc có vô
lượng tướng đều chính là các khổ thì chẳng phải là sự hiểu biết của các
Thanh Văn, Duyên Giác. Ðó gọi là Thượng trí. Những nghĩa như vậy, ta đối
với Kinh đó, cũng chẳng nói đến. Này thiện nam tử ! Biết tướng thọ giác
thì gọi là Trung Trí. Phân biệt các thọ có vô lượng tướng giác thì chẳng
phải là sự hiểu biết của Thanh Văn, Duyên Giác. Ðó gọi là Thượng trí. Này
thiện nam tử ! Những nghĩa như vậy, đối với Kinh đó, ta cũng chẳng nói
đến. Này thiện nam tử ! Biết tưởng thủ tướng thì đó gọi là Trung trí. Phân
biệt tưởng đó có vô lượng tướng thủ (lấy) thì chẳng phải là sự hiểu biết
của Thanh Văn, Duyên Giác. Ðó gọi là Thượng trí. Những nghĩa như vậy, đối
với Kinh đó, ta cũng chẳng nói đến. Này thiện nam tử ! Biết tướng hành tác
thì đó gọi là Trung trí. Phân biệt hành này có vô lượng tướng tác thì
chẳng phải là sự hiểu biết của các Thanh Văn, Duyên Giác. Ðó gọi là Thượng
trí. Này thiện nam tử ! Những nghĩa như vậy, đối với Kinh đó, ta cũng
chẳng nói đến. Này thiện nam tử ! Biết tướng phân biệt của thức thì đó gọi
là Trung trí. Phân biệt thức đó có vô lượng tướng biết thì chẳng phải là
sự hiểu biết của Thanh Văn, Duyên Giác. Ðó gọi là Thượng trí. Này thiện
nam tử ! Những nghĩa như vậy, đối với Kinh đó, ta cũng chẳng nói đến. Này
thiện nam tử ! Biết nhân duyên của ái có thể sinh ra năm ấm thì đó là
Trung trí. Một người khởi lên ái vô lượng vô biên thì Thanh Văn, Duyên
Giác chẳng thể biết. Nếu có thể biết sự khởi lên những ái như vậy của tất
cả chúng sinh thì đó gọi là Thượng trí. Những nghĩa như vậy, đối với Kinh
đó, ta cũng chẳng nói đến. Này thiện nam tử ! Biết diệt phiền não thì đó
gọi là Trung trí. Phân biệt phiền não chẳng thể xưng kể và Diệt cũng như
vậy, chẳng thể xưng kể thì chẳng phải là sự hiểu biết của Thanh Văn, Duyên
Giác. Ðó gọi là Thượng trí. Những nghĩa như vậy, đối với Kinh đó, ta cũng
chẳng nói đến. Này thiện nam tử ! Biết tướng của Ðạo đó có thể lìa khỏi
phiền não thì đó gọi là Trung trí. Phân biệt tướng Ðạo có vô lượng vô biên
và sự lìa khỏi phiền não cũng vô lượng vô biên thì chẳng phải là sự hiểu
biết của Thanh Văn, Duyên Giác. Ðó gọi là Thượng trí. Những nghĩa như vậy,
đối với Kinh đó, ta cũng chẳng nói đến. Này thiện nam tử ! Biết Thế Ðế thì
gọi là Trung trí. Phân biệt Thế Ðế vô lượng vô biên chẳng thể xưng kể thì
chẳng phải là sự hiểu biết của Thanh Văn, Duyên Giác. Ðó gọi là Thượng
trí. Những nghĩa như vậy, đối với Kinh đó, ta cũng chẳng nói đến. Này
thiện nam tử ! Biết tất cả hành vô thường, các pháp vô ngã, Niết Bàn tịch
diệt là Ðệ nhất nghĩa thì đó gọi là Trung trí. Biết Ðệ nhất nghĩa vô lượng
vô biên, chẳng thể xưng kể thì chẳng phải là sự hiểu biết của Thanh Văn,
Duyên Giác. Ðó gọi là Thượng trí. Những nghĩa như vậy, đối với Kinh đó, ta
cũng chẳng nói đến.
Lúc bấy giờ,
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức
Thế Tôn ! Lời nói của ngài về Thế Ðế, Ðệ nhất nghĩa thì nghĩa ấy ra sao ?
Thưa đức Thế Tôn ! Trong Ðệ nhất nghĩa có Thế đế không ? Trong Thế Ðế có
Ðệ nhất nghĩa không ? Như trong ấy có thì tức là Nhất Ðế. Như trong ấy
không thì sẽ chẳng phải là lời nói của đức Như Lai hư dối sao ?
- Này thiện
nam tử ! Thế đế tức là Ðệ nhất nghĩa đế !
- Thưa đức
Thế Tôn ! Nếu vậy thì không có hai Ðế.
Ðức Phật dạy
rằng :
- Này thiện
nam tử ! Có phương tiện khéo thuận theo chúng sinh thì nói có hai Ðế. Này
thiện nam tử ! Nếu thuận lời nói thì có hai thứ, một là thế pháp, hai là
xuất thế pháp. Này thiện nam tử ! Như sự hiểu biết của người xuất thế thì
gọi là Ðệ nhất nghĩa đế mà của người đời thì gọi là Thế đế. Này thiện nam
tử ! Năm ấm hòa hợp thì xưng rằng : mỗ giáp (đại từ chỉ một thứ gì đó).
Phàm phu chúng sinh theo sự xưng hô ấy thì đó là Thế đế. Lý giải các ấm
không có tên, gọi mỗ giáp, lìa khỏi các ấm cũng không có tên gọi mỗ giáp.
Người xuất thế có thể biết đúng như tánh tướng ấy thì gọi là Ðệ nhất nghĩa
đế. Lại nữa, này thiện nam tử ! Hoặc lại có pháp có tên có thật, hoặc lại
có pháp có tên không thật. Này thiện nam tử ! Pháp có tên không thật thì
tức là Thế đế, pháp có tên có thật thì đó là Ðệnhất nghĩa đế. Này thiện
nam tử ! Như ngã, chúng sinh, thọ mạng, tri kiến, dưỡng dục, trượng phu,
tác giả, thọ giả, bốc cháy khi nóng, thành của Càn thát bà, lông rùa, sừng
thỏ, bánh xe lửa xoay vần, các ấm, giới, nhập... thì đó gọi là Thế đế.
Khổ, Tập, Diệt, Ðạo gọi là Ðệ nhất nghĩa đế. Này thiện nam tử ! Thế pháp
có năm thứ, một là danh thế, hai là cú thế (cú : câu), ba là phược thế,
bốn là pháp thế, năm là chấp trước thế. Này thiện nam tử ! Sao gọi là Danh
thế ? Trai, gái, bình, áo, xe cộ, nhà cửa.v.v... những vật như vậy thì đó
gọi là Danh thế. Sao gọi là Cú thế ? Một bài kệ bốn câu. Những bài kệ như
vậy.v.v... thì đó gọi là Cú thế. Sao gọi là Phược thế ? Vén cuốn, hợp lại,
ràng buộc, câu kết, trói buộc, chắp tay... đó gọi là Phược thế. Sao gọi là
Pháp thế ? Như minh chùy tập họp Tăng, nghiêm tiếng trống răn bảo binh sĩ,
thổi tù và báo biết thời gian... đó gọi là Pháp thế. Sao gọi là Chấp trước
thế ? Như trông xa thấy có người mặc nhiễm y thì sinh tư tưởng chấp trước
rằng, chính là Samôn, chẳng phải là Bàlamôn. Thấy người có dây bện đeo
ngang trên thân thì liền sinh ý niệm rằng, chính là Bàlamôn, chẳng phải là
Samôn. Ðó gọi là Chấp trước thế. Này thiện nam tử ! Như vậy gọi là năm thứ
thế pháp. Này thiện nam tử ! Nếu có chúng sinh đối với năm thứ thế pháp
như vậy mà lòng không điên đảo, biết đúng như thật thì đó gọi là Ðệ nhất
nghĩa đế. Lại nữa, này thiện nam tử ! Hoặc đốt, hoặc cắt, hoặc chết, hoặc
hoại... thì đó gọi là Thế đế. Không đốt, không cắt, không chết, không
hoại... thì đó gọi là Ðệ nhất nghĩa đế. Lại nữa, này thiện nam tử ! Có tám
tướng khổ gọi là Thế đế. Không sinh, không già, không bệnh, không chết,
không ái biệt ly, không oán tắng hội, không cầu bất đắc, không năm thịnh
ấm thì đó gọi là Ðệ nhất nghĩa đế. Lại nữa, này thiện nam tử ! Ví như một
người có nhiều khả năng. Nếu khi người ấy chạy thì gọi là người chạy. Nếu
khi người ấy thu hoạch, cắt cỏ thì lại gọi là người ấy cắt cỏ. Nếu người
ấy làm đồ ăn uống thì gọi là người nấu ăn. Nếu người ấy chế tác gỗ cây thì
gọi là thợ mộc, khi rèn luyện vàng, bạc thì gọi là thợ vàng bạc. Như vậy
một người có nhiều tên gọi, pháp cũng như vậy, kỳ thật là một mà có nhiều
tên. Nương nhân cha mẹ hòa hợp mà sinh ra thì gọi là Thế đế. Do mười hai
nhân duyên hòa hợp mà sinh ra thì gọi là Ðệ nhất nghĩa đế.
Bồ tát Văn
Thù Sư Lợi bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức
Thế Tôn ! Cái nói rằng Thật đế thì nghĩa ấy ra sao ?
Ðức Phật dạy
rằng :
- Này thiện
nam tử ! Nói rằng Thật đế thì gọi là Chân Pháp ! Này thiện nam tử ! Nếu
pháp chẳng phải chân thật thì chẳng gọi là Chân đế. Này thiện nam tử !
Thật đế thì không điên đảo mà không điên đảo thì mới gọi là Thật đế. Này
thiện nam tử ! Thật đế thì không có hư vọng. Nếu có hư vọng thì chẳng gọi
là Thật đế. Này thiện nam tử! Thật đế thì gọi là Ðại Thừa. Chẳng phải Ðại
Thừa thì chẳng gọi là Thật đế. Này thiện nam tử ! Thật đế là lời nói của
Phật, chẳng phải là lời nói của ma. Nếu là lời nói của ma, chẳng phải là
lời nói của Phật thì chẳng gọi là Thật đế. Này thiện nam tử ! Thật đế là
một đạo thanh tịnh, không có hai vậy. Này thiện nam tử ! Có Thường, có
Lạc, có Ngã, có Tịnh thì đó gọi là nghĩa của Thật đế.
Ngài Văn Thù
Sư Lợi bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức
Thế Tôn ! Nếu lấy chân thật làm Thật đế thì pháp chân thật tức là Như Lai
hư không, Phật tính. Nếu như vậy thì Như Lai hư không cùng với Phật tính
không có sai biệt !
Ðức Phật bảo
ngài Văn Thù Sư Lợi rằng :
- Có Khổ có
đế có thật, có Tập có đế có thật, có Diệt có đế có thật, có Ðạo có đế có
thật. Này thiện nam tử ! Như Lai chẳng phải khổ, chẳng phải đế mà là thật.
Hư không chẳng phải khổ, chẳng phải đế mà là thật. Phật tính chẳng phải
khổ, chẳng phải đế mà là thật. Này Văn Thù Sư Lợi ! Cái gọi rằng Khổ là
tướng vô thường, là tướng có thể đoạn. Ðó là Thật đế. Tính của Như Lai
chẳng phải khổ, chẳng phải vô thường, chẳng phải tướng có thể đoạn. Vậy
nên Như Lai là thật. Hư không, Phật tính cũng lại như vậy. Lại nữa, này
thiện nam tử! Cái gọi rằng Tập là có thể khiến cho năm ấm hòa hợp mà sinh
ra, cũng gọi là khổ, cũng gọi là vô thường, là tướng có thể đoạn. Ðó là
Thật tướng. Này thiện nam tử ! Như Lai chẳng phải là tính của Tập, chẳng
phải là nhân của ấm, chẳng phải tướng có thể đoạn. Vậy nên Như Lai là
thật. Hư không, Phật tính cũng lại như vậy. Này thiện nam tử ! Cái nói
rằng Diệt là gọi phiền não diệt, cũng thường và vô thường. Sở đắc của Nhị
thừa gọi là vô thường. Sở đắc của chư Phật thì gọi là Thường, cũng gọi là
Chứng pháp. Ðó là Thật đế. Này thiện nam tử ! Tính của Như Lai chẳng gọi
là Diệt, có thể diệt phiền não, chẳng phải thường, vô thường, chẳng gọi là
chứng biết, thường trụ không biến dị. Vậy nên Như Lai là Thật. Hư không,
Phật tính cũng lại như vậy. Này thiện nam tử ! Ðạo có thể đoạn phiền não,
cũng thường vô thường, là pháp có thể tu. Ðó gọi là Thật đế. Như Lai chẳng
phải đạo có thể đoạn phiền não, chẳng phải thường, vô thường, chẳng phải
pháp có thể tu mà thường trụ bất biến. Vậy nên là Thật. Hư không, Phật
tính cũng lại như vậy. Lại nữa, này thiện nam tử ! Nói rằng Chân thật thì
tức là Như Lai. Như Lai thì tức là Chân thật. Chân thật thì tức là
Hư không. Hư không thì tức là Chân thật. Chân thật thì tức là Phật tính.
Phật tính thì tức là Chân thật. Này Văn Thù Sư Lợi ! Có khổ thì có nhân
của khổ, có hết khổ, có đối tác của khổ mà Như Lai thì chẳng phải khổ...
chẳng phải là đối tác của khổ. Vậy nên Như Lai là Thật, chẳng gọi là đế.
Hư không, Phật tính cũng lại như vậy. Khổ là hữu vi, hữu lậu, không vui
(vô lạc) còn Như Lai chẳng phải hữu vi, chẳng phải hữu lậu, sáng rỡ an
vui, là thật chẳng phải là đế.
Ngài Văn Thù
Sư Lợi bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức
Thế Tôn ! Như lời nói đức Phật, chẳng điên đảo thì gọi là Thật đế. Nếu như
vậy thì trong bốn đế có bốn điên đảo chăng ? Trong đso nếu có thì tại sao
nói không có điên đảo, gọi là thật đế, còn tất cả điên đảo thì chẳng gọi
là thật ?
Ðức Phật bảo
ngài Văn Thù Sư Lợi rằng :
- Tất cả điên
đảo đều vào Khổ đế. Như tất cả chúng sinh có lòng điên đảo thì gọi là điên
đảo. Này thiện nam tử ! Ví như có người chẳng thọ lời dạy bảo của cha mẹ,
bậc tôn trưởng hay tuy có thọ mà chẳng thể thuận theo tu hành thì người
như vậy gọi là điên đảo. Như vậy điên đảo chẳng phải chẳng là khổ mà tức
là khổ vậy.
Ngài Văn Thù
Sư Lợi nói rằng :
- Như lời nói
của đức Phật, chẳng hư vọng thì tức là Thật đế. Nếu vậy thì phải biết hư
vọng chẳng phải Thật đế.
Ðức Phật dạy
rằng :
- Này thiện
nam tử ! Tất cả hư vọng đều vào Khổ đế. Như có chúng sinh lừa dối người
khác. Do nhân duyên này nên đọa vào địa ngục, súc sinh, ngã quỉ. Những
pháp như vậy.v.v... thì gọi là hư vọng. Như vậy hư vọng chẳng phải chẳng
là khổ mà tức là khổ vậy. Thanh Văn, Duyên Giác, các đức Phật Thế Tôn xa
lìa những hành động đó nên chẳng gọi là hư vọng. Như vậy hư vọng là sự
đoạn trừ của các đức Phật và hàng Nhị thừa nên gọi là Thật đế.
Ngài Văn Thù
Sư Lợi nói rằng :
- Như lời nói
của đức Phật, Ðại Thừa là Thật đế, thì phải biết Thanh Văn, Bích Chi Phật
thừa là chẳng thật !
Ðức Phật dạy
rằng :
- Này Văn Thù
Sư Lợi ! Hàng Nhị thừa kia là thật cũng chẳng thật. Thanh Văn, Duyên Giác
đoạn các phiền não thì gọi là thật. Vô thường chẳng thường trụ là pháp
biến dị thì đó gọi là chẳng thật.
Ngài Văn Thù
Sư Lợi nói rằng :
- Như lời đức
Phật nói, nếu lời nói đức Phật gọi là thật thì phải biết lời nói của ma là
chẳng thật. Thưa đức Thế Tôn ! Như lời nói của ma thì Thánh đế có nhiếp
lấy không ?
Ðức Phật dạy
rằng :
- Này Văn Thù
Sư Lợi ! Lời nói của ma thì được sự nhiếp lấy của hai đế là Khổ và Tập.
Phàm là tất cả sự phi pháp, phi luật chẳng thể làm cho con người được lợi
ích thì dù cho trọn ngày tuyên nói cũng không có người thấy Khổ, đoạn Tập,
chứng Diệt tu Ðạo. Ðó gọi là hư vọng. Như vậy hư vọng thì gọi là lời nói
của ma.
Ngài Văn Thù
Sư Lợi nói rằng :
- Như lời đức
Phật nói, một đạo thanh tịnh, không có hai. Những ngoại đạo.v.v... cũng
lại nói rằng : “Ta có một đạo thanh tịnh, không có hai”. Nếu nói rằng một
đạo là Thật đế thì cùng với ngoại đạo kia có gì sai biệt ? Nếu không sai
biệt thì chẳng nên nói rằng, một đạo thanh tịnh.
Ðức Phật dạy
rằng :
- Này thiện
nam tử ! Các ngoại đạo.v.v... có Khổ đế, Tập đế, không có Diệt đế, Ðạo đế.
Chúng ở trong chẳng phải Diệt mà sinh ra Diệt tưởng, ở trong chẳng phải
Ðạo mà sinh ra Ðạo tưởng, ở trong chẳng phải Quả mà sinh ra Quả tưởng, ở
trong chẳng phải Nhân mà sinh ra Nhân tưởng. Do nghĩa này nên ngoại đạo
kia không có “một đạo thanh tịnh không hai”.
Ngài Văn Thù
Sư Lợi thưa rằng :
- Như lời đức
Phật nói, có Thường, có Lạc, có Ngã, có Tịnh là thật nghĩa thì các ngoại
đạo.v.v... nên có thật đế, trong Phật pháp thì không. Vì sao vậy ? Vì
những bọn ngoại đạo cũng lại nói rằng, các hành là Thường. Sao gọi là
Thường ? Vừa ý hay chẳng vừa ý thì các nghiệp báo đều phải thọ nhận, chẳng
mất vậy. Vừa ý thì gọi là quả báo của thập thiện, chẳng vừa ý là quả báo
của mười điều bất thiện. Nếu nói rằng, các hành đều vô thường mà người tác
nghiệp ở đây đã diệt thì còn ai ở đó để thọ quả báo ? Do nghĩa này nên các
hành là Thường, nhân duyên sát sinh gọi là Thường. Thưa đức Thế Tôn ! Nếu
nói rằng, các hành đều là vô thường thì người giết (năng sát) người bị
giết (sở sát) cả hai đều vô thường. Nếu vô thường thì ai ở địa ngục mà thọ
tội báo. Nếu nói rằng, nhất định có người thọ báo ở địa ngục thì phải biết
các hành thật chẳng phải vô thường. Thưa đức Thế Tôn ! Buộc lòng chuyên
niệm cũng gọi là thường như là điều nghĩ ngợi mười năm cho đến trăm năm
cũng chẳng quên mất. Vậy nên đó là thường. Nếu vô thường thì việc thấy
trước kia ai nhớ ? Ai nghĩ ? Do nhân duyên này nên tất cả các hành chẳng
phải là vô thường vậy. Thưa đức Thế Tôn ! Tất cả sự nhớ tưởng cũng gọi là
thường. Có người lúc trước nhìn thấy các tướng chân, tay, đầu, cổ.v.v...
của người khác thì về sau nếu gặp liền nhớ biết lại người đó. Nếu vô
thường thì tướng cũ nên diệt đi ! Thưa đức Thế Tôn ! Những nghiệp sở tác
do tu tập lâu, hoặc mới theo học, hoặc trải qua ba năm hay trải qua năm
năm... rồi nhiên hậu mới hiểu biết hoàn thiện nên gọi là Thường. Thưa đức
Thế Tôn ! Pháp tính toán, từ một đến hai, từ hai đến ba... cho đến trăm
ngàn. Nếu vô thường thì số một ban đầu nên diệt mà số một ban đầu nếu diệt
thì cái gì lại đến hai ? Như vậy là thường thì số một hết không có số hai
? Do một chẳng diệt nên được đến hai... cho đến trăm, ngàn. Vậy nên gọi là
Thường. Thưa đức Thế Tôn ! Như phép đọc tụng, tụng một A Hàm, đến hai A
Hàm cho đến ba, bốn A Hàm. Như A Hàm ấy vô thường thì việc đọc tụng nhất
định chẳng đến bốn. Do nhân duyên tăng trưởng việc đọc tụng đó nên gọi là
thường. Thưa đức Thế Tôn ! Bình, áo, xe cộ... như của người mắc nợ, hình
tướng đất đai, núi, sông, cây, rừng, thảo dược, lá cây mà chúng sinh trị
bệnh đều là thường cũng lại như vậy. Thưa đức Thế Tôn ! Tất cả ngoại đạo
đều nói lời này : Các hành là thường. Nếu đó là thường thì tức là Thật đế.
Thưa đức Thế Tôn ! Có các ngoại đạo lại nói rằng : “Có Lạc”. Làm sao mà
biết vậy ? Người thọ quả báo nhất định được vừa ý ! Thưa đức Thế Tôn !
Phàm người thọ lạc nhất định được sự an vui đó. Ðó là vua trời Ðại Phạm,
trời Ðại Tự Tại, Thích Ðề Hoàn Nhân, trời Tỳ Nưỡu và những người, trời. Do
nghĩa này nên nhất định có Lạc. Thưa đức Thế Tôn ! Có các ngoại đạo nói
rằng : “Có Lạc !” có thể khiến cho chúng sinh sinh ra cầu mong, người đói
cầu ăn, người khát cầu uống, người lạnh cầu ấm, người nóng cầu mát, người
cùng cực cầu dứt đi, người bệnh cầu khỏi bệnh, người tham dục cầu sắc...
Nếu không có Lạc thì những người kia vì nhân duyên gì mà cầu ? Do có người
cầu nên biết là có Lạc. Thưa đức Thế Tôn ! Có các ngoại đạo lại nói rằng :
“Bố thí có thể được Lạc. Người thế gian ưa bố thí cho Samôn, các Bàlamôn
bần cùng khốn khổ quần áo, đồ ăn, thức uống, ngọa cụ, thuốc chữa bệnh,
voi, ngựa, xe cộ, hương bột, hương xoa, mọi thứ hoa, nhà cửa, nơi y chỉ,
đèn sáng... Họ làm sự ban cho đủ thứ như vậy.v.v... là để cho đời sau của
mình thọ được quả báo vừa ý. Vậy nên phải biết là nhất định có Lạc”. Thưa
đức Thế Tôn ! Có các ngoại đạo lại nói rằng : “Do nhân duyên nên phải biết
là có Lạc. Như là người thọ lạc thì có nhân duyên nên gọi là Lạc xúc. Nếu
người không có lạc thì làm sao được nhân duyên. Như không có sừng thỏ thì
không có nhân duyên. Có nhân duyên của lạc thì biết là có lạc. Thưa đức
Thế Tôn ! Có các ngoại đạo lại nói rằng : “Thọ lạc có thượng, trung, hạ
nên phải biết là có lạc. Hạ thọ lạc là Thích Ðề Hoàn Nhân. Trung thọ
lạc là vua trời Ðại Phạm. Thượng thọ lạc là trời Ðại tự Tại. Do có thượng,
trung, hạ như vậy nên phải biết là có lạc”. Thưa đức Thế Tôn ! Có các
ngoại đạo lại nói rằng : “Có Tịnh ! Vì sao vậy ? Nếu không có tịnh thì
chẳng nên khởi dục mà nếu khởi dục thì phải biết là có Tịnh”. Họ lại nói
rằng : “Vàng, bạc, trân bảo, lưu ly, pha lê, xa cừ, mã não, san hô, chân
châu, bích ngọc, kha bối, suối chảy, ao tắm, đồ ăn, thức uống, quần áo,
hoa hương, hương bột, hương xoa, ánh sáng đèn, đuốc.v.v... những vật như
vậy đều là tịnh pháp. Lại nữa, có tịnh ! Gọi năm ấm thì tức là tịnh khí
chứa đựng các tịnh vật như là người, trời, các tiên, A la hán, Bích Chi
Phật, Bồ tát, chư Phật. Do nghĩa này nên gọi năm ấm đó là tịnh”. Thưa đức
Thế Tôn ! Có các ngoại đạo lại nói rằng : “Có Ngã ! Vì có sự nhìn thấy thì
có thể tạo tác vậy. Ví như có người vào nhà của người thợ gốm, tuy chẳng
thấy thân người thợ gốm, nhưng vì thấy bánh xe, sợi dây nên nhất định biết
nhà ấy là thợ gốm. Ngã cũng như vậy, mắt thấy sắc rồi thì nhất định biết
có Ngã. Nếu không Ngã thì ai có thể thấy sắc, nghe tiếng... cho đến xúc
pháp cũng lại như vậy. Lại nữa, làm sao được biết có Ngã ? - Nhân tướng
nên biết ! Những gì là tướng? Hít thở, nhìn ngắm, thọ mạng, lòng sai
khiến, thọ các khổ vui, tham cầu, sân nhuế.v.v.. những pháp như vậy đều là
tướng của Ngã. Vậy nên phải biết là nhất định có Ngã. Lại nữa, có Ngã thì
có thể phân biệt vị. Có người ăn trái cây, mới nhìn thấy đã biết vị. Vậy
nên phải biết là nhất định có Ngã. Lại nữa, làm sao biết có ngã vậy ? Do
nghề nghiệp chấp tác vậy. Cầm liềm có thể cắt cỏ, cầm búa có thể bửa củi,
cầm bình thì đựng nước, cầm xe thì có thể điều khiển.v.v... những việc như
vậy thì Ngã có thể chấp tác. Vậy nên phải biết là nhất định có Ngã. Lại
nữa, làm sao biết có Ngã vậy ? Ngay lúc sinh ra là muốn được bú sữa nhân
vốn đã quen vậy. Do đó phải biết là nhất định có Ngã. Lại nữa, làm sao
biết có Ngã vậy ? Hòa hợp lợi ích cho chúng sinh khác vậy. Ví như bình,
quần áo, xe cộ, ruộng nhà, núi rừng, cây cối, voi, ngựa, trâu, dê... Những
vật như vậy nếu hòa hợp thì có lợi ích. Bên trong này năm ấm cũng lại như
vậy, mắt.v.v...các căn có hòa hợp thì lợi ích Ngã. Vậy nên phải biết là
nhất định có Ngã. Lại nữa, làm sao biết có Ngã vậy ? Có pháp ngăn chận
vậy. Như có vật thì có sự ngăn chận, nếu vật không có thì không có ngăn
chận. Nếu có ngăn chận thì biết là có Ngã. Vậy nên phải biết là nhất định
có Ngã. Lại nữa, làm sao biết có Ngã vậy ? Bạn - chẳng phải bạn, thân -
chẳng phải thân chẳng phải là bạn bè, chánh pháp - tà pháp cũng chẳng phải
bạn bè, trí cùng chẳng phải trí cũng chẳng phải bạn bè, Samôn - chẳng phải
Samôn, Bàlamôn - chẳng phải Bàlamôn, con - chẳng phải con, ngày - chẳng
phải ngày, đêm - chẳng phải đêm, ngã - chẳng phải ngã... những pháp như
vậy là bạn, chẳng phải bạn. Vậy nên phải biết là nhất định có Ngã”. Thưa
đức Thế Tôn ! Những ngoại đạo.v.v... đã bằng đủ thứ để nói lên có Thường,
Lạc, Ngã, Tịnh thì phải biết là nhất định có Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Thưa
đức Thế Tôn ! Do nghĩa này nên các ngoại đạo.v.v... cũng được nói rằng:
“Ngã có chân đế”.
Ðức Phật dạy
rằng :
- Này thiện
nam tử ! Nếu có Samôn, Bàlamôn có Thường, có Lạc, có Ngã, có Tịnh thì đó
chẳng phải là Samôn, chẳng phải Bàlamôn. Vì sao vậy ? Vì mê ở sinh tử, lìa
khỏi bậc Ðại Ðạo Sư Nhất Thiết Trí. Như vậy những Samôn, Bàlamôn đắm chìm
trong các dục, thiện pháp tổn hao vậy. Những ngoại đạo này bị sự trói buộc
tại ngục tù tham dục, sân nhuế, ngu si mà kham nhẫn yêu thích. Những ngoại
đạo này tuy biết nghiệp quả, mình làm mình chịu nhưng mà còn chẳng thể xa
lìa ác pháp. Những ngoại đạo này chẳng phải là tự sống bằng chánh pháp,
chánh mạng. Vì sao vậy ? Vì không có lửa trí tuệ nên chẳng thể tiêu trừ.
Những ngoại đạo này tuy muốn tham trước năm dục thượng diệu nhưng nghèo
nàn thiện pháp, chẳng siêng tu tập. Những ngoại đạo này tuy muốn đi đến
trong Chánh giải thoát mà trì giới cụ túc thành tựu. Những ngoại đạo này
tuy muốn cầu lạc mà chẳng thể cầu nhân duyên của lạc. Những ngoại đạo này
tuy lại rất ghét tất cả những khổ nhưng hành động của họ chưa có thể xa
lìa những nhân duyên của khổ. Những ngoại đạo này tuy bị sự trói buộc của
rắn độc bốn đại nhưng còn hành động buông lung, chẳng thể cẩn thận. Những
ngoại đạo này bị sự che phủ của vô minh, xa lìa bạn lành, ưa ở tại ba cõi
trong lửa lớn vô thường rực cháy mà chẳng thể ra khỏi. Những ngoại đạo này
gặp những bệnh phiền não khó khỏi mà lại chẳng cầu bậc lương y đại trí.
Những ngoại đạo này vào đời vị lai sẽ phải lặn lội trên đường xa xôi, nguy
hiểm vô biên mà chẳng biết dùng vốn liếng thiện pháp để tự trang nghiêm.
Những ngoại đạo này thường bị sự hủy hoại của tai họa thâm độc của dâm dục
mà ngược lại còn ôm giữ sương độc của năm dục. Những ngoại đạo này sân
nhuế rừng rực mà ngược lại gần gũi bạn ác. Những ngoại đạo này thường bị
sự che phủ của vô minh mà ngược lại còn tìm kiếm pháp tà ác. Những ngoại
đạo này thường bị sự lừa dối mê hoặc của tà kiến mà ngược lại còn ở trong
đó sinh ra tư tưởng thân thiện. Những ngoại đạo này mong được ăn trái ngọt
mà lại trồng hạt đắng. Những ngoại đạo này ở trong nhà tối phiền não mà
ngược lại xa lìa ánh sáng của ngọn đuốc đại trí. Những ngoại đạo này bị
bệnh khát phiền não mà lại uống nước dục mặn. Những ngoại đạo này chìm nổi
trong dòng sông lớn sinh tử vô biên mà lại xa lìa bậc lái thuyền Vô
thượng. Những ngoại đạo này mê hoặc, điên đảo nói rằng, các hành thường.
Các hành nếu thường là không có điều này.
KINH ÐẠI BÁT NIẾT BÀN
- Quyển
thứ mười hai hết -
--- o0o ---
Mục Lục
01 |
02 |
03 | 04 |
05 |
06 | 07 |
08 |
09 | 10 |
11 |
12
13 |
14 | 15 |
16 |
17 | 18 |
19 |
20 | 21 |
22 |
23 | 24
25 |
26 | 27 |
28 |
29 | 30 |
31 | 32 |
33 |
34 | 35 |
36
--- o0o ---
|
Thư
Mục Tác Giả |
--- o0o ---
Vi tính: Thọ Huệ
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày:
01-2-2003