KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
- Hán dịch: Căn
cứ bản dịch của Tam Tạng Pháp sư
Đàm Vô Sấm,
Sa môn Tuệ Nghiêm, Tuệ Quán, và Tạ
Linh Vân sửa lại
- Đời Tống
- Việt dịch:
Tuệ Khai cư sĩ -
Phan Rang
Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
---o0o---
Quyển thứ 10
PHẨM NHẤT THIẾT ÐẠI CHÚNG SỞ
VẤN
(Sự hỏi han của tất cả đại chúng)
PHẦN
XVII:
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn từ diện môn của
ngài phóng ra đủ thứ ánh sáng, xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, tía... chiếu
soi thân của ông Thuần Ðà. Ông Thuần Ðà gặp ánh sáng ấy rồi thì cùng với
các quyến thuộc mang những đồ ăn ngon lành, mau chóng đến chỗ đức Phật,
muốn dâng đức Như Lai và Tỳ kheo Tăng bữa cúng dường sau cùng. Họ mang đến
chỗ đức Phật đủ chủng loại đồ vật đầy đủ dồi dào. Lúc bấy giờ, có nhiều
người trời uy đức lớn ngăn ông ấy lại ở trước và vây quanh giáp vòng rồi
nói với ông Thuần Ðà rằng :
- Hãy dừng lại, ông Thuần Ðà! Ông chớ
dâng đồ cúng dường ngay!
Bấy giờ, đức Như Lai lại phóng ra vô
lượng vô biên đủ thứ ánh sáng. Chư thiên, đại chúng gặp ánh sáng ấy rồi,
liền để cho ông Thuần Ðà đến trước chỗ đức Phật mà dâng lên đồ cúng dường
của ông ấy. Bấy giờ, trời, người và các chúng sinh mỗi mỗi đều tự lấy đồ
cúng dường của mình mang theo, đến trước đức Phật, quì dài mà bạch đức
Phật rằng :
- Nguyện xin đức Như Lai cho phép các vị
Tỳ kheo nhận những đồ cúng dường này.
Các vị Tỳ kheo biết đã đúng lúc nên sửa
áo, mang bát một lòng an tường. Bấy giờ, ông Thuần Ðà vì đức Phật và chúng
Tăng bố thí đủ thứ loại tòa báu Sư tử, treo tràng phan bảo bằng lụa ngũ
sắc, hương hoa, chuỗi ngọc... Bấy giờ, ba ngàn đại thiên thế giới trang
nghiêm vi diệu giống như đất nước An Lạc ở phương Tây. Bấy giờ, ông Thuần
Ðà đứng ở trước đức Phật, ưu bi buồn bã, bạch đức Phật một lần nữa rằng:
- Nguyện xin đức Như Lai rũ lòng thương
xót chúng con, sống lâu một kiếp hay giảm một kiếp!
Ðức Phật bảo rằng :
- Này Thuần Ðà! Ông muốn cho ta trụï thế
lâu dài thì cần phải mau chóng dâng lên Ðàn Ba la mật đầy đủ tối hậu!
Lúc bấy giờ, tất cả Ðại Bồ tát, trời,
người đủ loại, khác miệng đồng âm xướng lên như vầy rằng :
- Lạ thay! Ông Thuần Ðà đã thành tựu đại
phước đức nên có thể khiến cho đức Như Lai nhận sự cúng dường Vô thượng
sau cùng của ông ấy. Chúng ta vô phước nên sự thiết bày đồ cúng dường trở
thành uổng phí!
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn khiến cho
nguyện vọng của tất cả chúng sinh được thỏa mãn nên ở trên thân mình, mỗi
một lỗ chân lông hóa ra vô lượng đức Phật. Mỗi một đức Phật đều có vô
lượng những Tỳ kheo Tăng. Các đức Thế Tôn và vô lượng chúng này đều thị
hiện nhận đồ cúng dường của những người ấy. Ðức Thích Ca Như Lai tự thọ
nhận sự dâng bày cúng dường của ông Thuần Ðà. Bấy giờ, đồ ăn nấu chín bằng
gạo ngon của ông Thuần Ðà đựng đầy tám hộc nước Ma Dà Ðà (dụng cụ đo lường
của nước ấy) nhờ thần lực của đức Phật nên đều cung ứng sung túc cho tất
cả đại hội. Bấy giờ, ông Thuần Ðà thấy việc đó rồi thì lòng sinh vui mừng,
hớn hở không lường. Tất cả Ðại chúng cũng lại như vậy. Bấy giờ, đại chúng
vưng thánh chỉ của đức Phật, đều nghĩ rằng : “Ðức Như Lai nay đã thọ sự
cúng dường của chúng ta thì chẳng bao lâu nữa nhất định sẽ vào Niết Bàn”.
Họ nghĩ thế rồi, lòng phát sinh buồn vui lẫn lộn. Bấy giờ, rừng cây với
khu đất nhỏ hẹp ấy, do thần lực của đức Phật, dù là chỗ nhỏ như đầu mũi
kim cũng đều có vô lượng các đức Phật Thế Tôn và quyến thuộc ngồi thọ thực
mà đồ ăn cũng không sai khác. Lúc đó, trời, người, a tu la.v.v... bi thán
gào khóc mà nói lên rằng :
- Ðức Như Lai ngày hôm nay đã thọ nhận lễ
cúng dường sau cùng của chúng ta mà thọ cúng dường rồi thì sẽ Bát Niết
Bàn. Chúng ta sẽ lại cúng dường ai nữa đây! Chúng ta nay vĩnh viễn lìa
khỏi đấng Ðiều Ngự Vô thượng! Mù tối không tròng mắt con ngươi (không
mắt)!
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn an ủi tất
cả đại chúng mà nói kệ rằng :
Các ông chớ buồn than Ø Pháp
chư Phật ứng vậy
Ta vào với Niết Bàn Ðã qua vô lượng
kiếp
Thường thọ vui thắng hơn Mãi ở chỗ
yên ổn.
Ông nay nghe hết lòng Niết Bàn ta
sẽ nói :
Thực tưởng ta lìa xong Trọn không
hoạn đói khát
Nay sẽ vì các ông Nói thuận
theo nguyện ấy
Khiến tất cả chúng sinh Ðều được vui
yên ổn.
Ông nghe nên tu hành Pháp chư Phật
thường trụ.
Giả sử quạ cùng chim Ðồng chung một
cây đậu
Giống như anh em thân Vậy mới Niết
Bàn mãi.
Tất cả, Như Lai xem Như La Hầu La
vậy.
Thường được chúng sinh tôn Sao vĩnh
viễn Niết Bàn?
Giả sử rắn, chồn, chuột Ðồng ở chung
một hang
Yêu nhau như huynh đệ Vậy mới
mãi Niết Bàn.
Như Lai nhìn tất cả Như La Hầu La đó
Thường được chúng sinh tôn Sao vĩnh viễn
Niết Bàn?
Giả sử hoa bảy cánh Chuyển thành Bà
sư hương
Ca Lưu thành Trấn Ðầu Vậy mới mãi Niết
Bàn.
Như Lai nhìn tất cả Như La Hầu La đó
Sao từ bi tiêu tan Vào Niết
Bàn vĩnh viễn?
Giả sử Ðại Tà Kiến (Nhất xiển đề) Hiện
thân Phật đạo thành
Mãi ở Ðệ nhất lạc Vậy mới vào
Niết Bàn.
Như Lai nhìn tất cả Như La Hầu La đó
Sao mà bỏ từ bi Vào Niết Bàn vĩnh
viễn?
Giả sử tất cả chúng Nhất thời Phật
đạo thành
Xa lìa những lỗi hoạn Vậy mới vào Niết
Bàn.
Như Lai nhìn tất cả Như La Hầu La đó
Thì sao bỏ từ bi Vào Niết Bàn vĩnh
viễn.
Giả sử nước muỗi, ve Ngấm tan vào
trong đất
Sông, hang, biển tràn trề Vậy mới
vào diệt độ (Niết Bàn)
Lòng bi nhìn tất cả Ðều như La
Hầu La
Thường được chúng sinh kính Sao Niết Bàn
vĩnh viễn?
Do đó nên các ông Nên ưa sâu
chánh pháp
Chẳng nên sinh ưu phiền Mà kêu gào
khóc lóc.
Nếu muốn chánh hạnh mình (Thì) Tu Như
Lai thường trụ
Pháp như vậy xét xem Trường tồn
chẳng biến dị.
Lại nên suy nghĩ rằng : Tam Bảo đều
thường trụ
Thì đại hộ được thành Cầu cây khô ra
quả (trái).
Ðó gọi là Tam bảo Bốn chúng nên
lắng nghe
Nghe rồi nên hoan hỷ Liền phát tâm Bồ
Ðề.
Nếu hay kể Tam Bảo Thường trụ đồng
chân đế
Thì đây là thề nguyền Tối thượng
của chư Phật.
Nếu có Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu
bà di có thể dùng thệ nguyện tối thượng của Như Lai mà phát nguyện thì
phải biết người đó không có ngu si, kham thọ cúng dường do quả báo công
đức của nguyện lực này, ở đời thì tối thắng như A la hán. Nếu có người
chẳng thể quan sát rõ Tam Bảo thường trụ như vậy thì chính là Chiên đà la.
Nếu có người có thể biết Tam Bảo thường trụ thì nhân duyên thật pháp nên
lìa khỏi khổ được an vui không ai nhiễu hại có thể lưu nạn.
Lúc bấy giờ, đại chúng người, trời, a tu
la.v.v... nghe pháp này rồi, lòng sinh vui mừng hớn hở vô cùng. Lòng họ
điều hòa nhu nhuyến, giỏi diệt hết các sự che lấp. Lòng không cao thấp, uy
nghi thanh tịnh, nhan mạo vui vẻ, biết Phật thường trụ. Vậy nên họ thiết
bày sự cúng dường của chư thiên, tung lên đủ thứ hoa, hương bột, hương
xoa... tấu lên kỹ nhạc, nhà trời để cúng dường đức Phật.
Lúc bấy giờ, đức Phật lại bảo Bồ tát Ca
Diếp rằng :
- Này thiện nam tử! Ông có thấy việc hy
hữu của chúng này không?
Ngài Ca Diếp đáp rằng :
- Thấy rồi, thưa đức Thế Tôn! Con thấy
các Như Lai nhiều vô lượng vô biên, chẳng thể xưng kể thọ bữa ăn mà các
đại chúng người, trời dâng lên cúng dường. Con còn thấy đại thân trang
nghiêm của chư Phật mà chỗ ngồi của các ngài như một mũi kim khâu với
nhiều chúng vây quanh mà chẳng chướng ngại nhau. Con lại thấy đại chúng
đều phát thệ nguyện, nói mười ba bài kệ. Con cũng biết đại chúng, lòng
từng người đều nghĩ rằng : “Ðức Như Lai hôm nay riêng thọ đồ cúng dường
của một mình ta”. Giả sử đồ ăn dâng cúng của ông Thuần Ðà nghiền nát như
vi trần mà dâng một hạt bụi đó cho một đức Phật còn chẳng cùng khắp được.
Nhưng nhờ thần lực của đức Phật nên đồ cúng của ông Thuần Ðà đều làm sung
túc tất cả đại chúng. Chỉ những vị Ðại Bồ tát như ngài Văn Thù Sư Lợi Pháp
Vương Tử.v.v... mới có thể biết việc hy hữu như vậy là do đức Như Lai
phương tiện thị hiện. Con biết đại chúng Thanh Văn và A tu la.v.v... đều
biết Như Lai là pháp thường trụ.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo ông Thuần Ðà
rằng :
- Ông nay có thấy là việc này hy hữu đặc
biệt kỳ lạ không?
- Thật vậy, thưa đức Thế Tôn! Con trước
đã thấy vô lượng những đức Phật với thân trang nghiêm ba mươi hai tướng
tốt, tám mươi vẻ đẹp, nay thấy hết những vị Ðại Bồ tát với thân lớn sai
khác, nhan mạo không gì sánh. Con chỉ thấy thân đức Phật ví như cây thuốc
được sự vây quanh của những Ðại Bồ tát.
Ðức Phật bảo ông Thuần Ðà rằng :
- Sự thấy vô lượng đức Phật của ông trước
đó chính là do sự biến hóa của ta, vì muốn lợi ích cho tất cả chúng sinh,
khiến cho họ đượcvui mừng! Những đại Bồ tát như vậy đã có thể tu hành
chẳng thể nghĩ bàn, có thể tạo tác vô lượng những Phật sự. Này Thuần Ðà!
Ông nay đều đã thành tựu hạnh đại Bồ tát, được trụ ở Thập Ðịa, sở hạnh của
Bồ tát đã hoàn thành đầy đủ.
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn! Ðúng vậy! Ðúng vậy!
Ðúng như lời của đức Phật! Ông Thuần Ðà đã tu thành Bồ tát hạnh, con cũng
tùy hỷ! Hôm nay đức Như Lai muốn vì vô lượng chúng sinh đời vị lai tạo tác
ánh sáng lớn nên nói Kinh Ðại Thừa Ðại Niết Bàn này. Thưa đức Thế Tôn! Tất
cả Khế kinh nói thì có nghĩa khác hay không nghĩa khác vậy?
- Này thiện nam tử! Lời ta nói thì cũng
có nghĩa khác, cũng không nghĩa khác!
Ông Thuần Ðà bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn! Như lời đức Phật nói
:
Những vật sở hữu
Ø
Bố thí hết đi
Chỉ được khen ngợi Không hủy tổn gì!
Thưa đức Thế Tôn! Nghĩa đó ra sao? Trì
giới, hủy giới có gì sai biệt?
Ðức Phật dạy rằng :
- Chỉ trừ một người, còn tất cả những
người bố thí đều được khen ngợi.
Ông Thuần Ðà hỏi rằng :
- Sao gọi là “chỉ trừ một người”?
Ðức Phật dạy rằng :
- Như đã nói trong Kinh này, là người phá
giới!
Ông Thuần Ðà lại thưa :
- Con nay chưa hiểu được! Nguyện xin đức
Phật nói rõ cho!
Ðức Phật bảo ông Thuần Ðà rằng :
- Người phá giới gọi là Nhất xiển đề (Ðại
tà kiến)! Ngoài ra tất cả sự bố thí của những người khác đều được khen
ngợi, thu hoạch được quả báo lớn!
Ông Thuần Ðà lại hỏi :
- Nhất xiển đề thì nghĩa ấy ra sao?
Ðức Phật bảo rằng :
- Này Thuần Ðà! Nếu có Tỳ kheo và Tỳ kheo
ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di phát khởi lời thô ác bài báng chánh pháp. Họ đã
tạo nghiệp nặng đó mà vĩnh viễn chẳng lòng hối cải, không có tàm quí.
Những người như vậy thì gọi là những kẻ hướng đến con đường nhất xiển đề.
Nếu kẻ phạm bốn trọng cấm, ngũ nghịch tội, tự biết nhất định phạm việc
nặng như vậy mà lòng không chút kinh sợ, tủi thẹn, chẳng chịu phát lộ, đối
với chánh pháp của Phật vĩnh viễn không có lòng hộ trì, nuối tiếc, kiến
lập, lời nói hủy báng khinh miệt, nhiều tội lỗi. Những người như vậy cũng
gọi là kẻ hướng về con đường nhất xiển đề. Nếu người nào nói không có
Phật, Pháp, Tăng thì những người ấy cũng gọi là hướng về nhất xiển đề. Chỉ
trừ bọn nhất xiển đề như thế này, ngoài ra những người bố thí khác, tất cả
đều được khen ngợi.
Lúc bấy giờ, ông Thuần Ðà lại bạch đức
Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn! Sở dĩ gọi là phạm
giới thì nghĩa ấy thế nào?
Ðức Phật bảo ông Thuần Ðà rằng :
- Như người phạm bốn trọng cấm và ngũ
nghịch tội, bài báng chánh pháp... những người như vậy gọi là Phá Giới!
Ông Thuần Ðà lại hỏi :
- Kẻ phá giới như vậy có thể cứu vớt
chăng?
Ðức Phật bảo ông Thuần Ðà rằng :
- Nếu có nhân duyên thì có thể cứu vớt!
Nếu người mặc pháp phục còn chưa rời bỏ mà lòng thường mang tủi thẹn, kinh
sợ, tự khảo trách : “Chao ôi! Sao ta bị phạm trọng tội ấy! Lạ thay! Sao ta
lại tạo nghiệp khổ ấy!”, rồi tự hối cải sâu sắc, sinh lòng hộ pháp muốn
kiến tạo chánh pháp và nghĩ rằng : “Nếu có người hộ pháp thì ta sẽ cúng
dường. Nếu có người đọc tụng Kinh điển Ðại Thừa thì ta sẽ hỏi han thọ trì,
đọc tụng, đã thông lợi rồi ta lại vì người khác phân biệt nói rộng
rãi”. Ta nói (đức Phật nói) người đó chẳng gọi là Phá Giới. Vì sao vậy?
Này thiện nam tử! Ví như mặt trời mọc có thể diệt trừ tất cả tối tăm của
bụi che ngăn. Kinh điển Ðại Niết Bàn vi diệu này xuất hiện, hưng thịnh ở
đời cũng lại như vậy, có thể trừ hết mọi tội đã làm trong vô lượng kiếp
của chúng sinh. Vậy nên Kinh này nói rằng, hộ trì chánh pháp được quả báo
lớn, cứu vớt phá giới. Nếu có người hủy báng chánh pháp này mà có thể tự
cải hối quay trở về với pháp, tự nghĩ rằng, việc làm tất cả điều bất thiện
như người tự hại mình, lòng sinh ra khủng bố kinh sợ, tủi thẹn, trừ chánh
pháp nay ra lại không có gì cứu hộ. Vậy nên cần phải quay trở về chánh
pháp”. Nếu người có thể đúng như lời nói như vậy mà qui y thì bố thí cho
người này được phước không lường, cũng gọi là bậc ứng thọ cúng dường của
thế gian. Nếu người phạm tội nghiệp ác như trên mà hoặc qua một tháng hay
mười lăm ngày, chẳng phát sinh lòng qui y, phát lồ. Nếu bố thí cho hạng
người này thì quả báo rất ít. Người phạm ngũ nghịch cũng lại như vậy, có
thể sinh lòng hối hận, bên trong mang tủi thẹn rằng : “Nay ta đã làm
nghiệp bất thiện rất là khổ lắm! Ta sẽ kiến lập và hộ trì chánh pháp!” thì
đó chẳng gọi là tội ngũ nghịch vậy. Nếu bố thí cho người này thì được
phước không lường. Ðã phạm tội nghịch rồi chẳng sinh lòng hộ pháp, qui y
thì có bố thí cho người đó thì pước chẳng đủ nói. Lại, này thiện nam tử!
Về người phạm trọng tội thì ông nay hãy lắng nghe! Ta sẽ vì ông phân biệt
giải nói rộng rãi! Ông nên sinh tâm này : “Gọi là Chánh pháp tức là vi mật
tạng của Như Lai. Vậy nên ta phải hộ trì kiến lập”. Bố thí cho người này
thì được thắng quả báo. Này thiện nam tử! Ví như người con gái mang thai
gần sinh, gặp nước loạn lạc, tránh xa đến nước khác. Ở tại một ngôi miếu
thờ trời, nàng liền sinh con và nuôi dưỡng. Về sau, nghe nước cũ yên ổn,
giàu thịnh, nàng mang con mình muốn trở về quê cũ. Ðường đi phải qua sông
Hằng, nước lớn chảy xiết mà phải bồng con, chẳng thể qua sông được, nàng
liền tự nghĩ rằng : “Ta thà cùng con chung mạng chung một chỗ, chứ chẳng
bỏ con mà qua sông một mình”. Nghĩ thế rồi nàng cùng con đều chìm chết.
Sau khi mạng chung nàng liền sinh lên trời. Do từ niệm đến con, muốn khiến
cho con được qua sông mà người con gái vốn tính tệ ác đó, nhờ lòng thương
con nên được sinh lên trời. Người phạm bốn trọng cấm, năm tội vô gián mà
sinh lòng hộ pháp cũng lại như vậy, tuy trước có làm nghiệp bất thiện,
nhưng do hộ pháp nên được làm ruộng phước vô thượng của thế gian. Người hộ
pháp này có phước báo không lường như vậy.v.v...
Ông Thuần Ðà lại bạch rằng :
- Thưa đức Thế Tôn! Nếu nhất xiển đề có
thể tự cải hối cung kính, cúng dường, khen ngợi Tam bảo thì thí cho người
như vậy có được đại quả báo không?
Ðức Phật dạy rằng :
- Này thiện nam tử! Ông nay chẳng nên nói
lời như vậy! Này thiện nam tử! Ví như có người ăn trái cây Am La, nhả hạt
xuống đất mà lại nghĩ rằng : “Trong hạt trái này chắc có vị ngọt!” Hắn
liền lấy trở lại, đập vỡ mà ăn. Vị của hạt ấy rất đắng, lòng sinh ra hối
hận. Hắn sợ mất giống trái cây liền thu thập lại những hạt vỡ ấy, rồi gieo
vào đất, siêng năng gia công sửa trị, dùng váng sữa, dầu và sữa để tùy lúc
tưới bón. Ý ông thế nào? Có chắc những hạt ấy mọc được không?
- Thưa đức Thế Tôn! Không vậy! Giả sử
trời mưa xuống nước cam lộ vô thượng còn cũng chẳng mọc được!
- Này thiện nam tử! Nhất xiển đề kia cũng
lại như vậy, đã thiêu đốt, tiêu diệt hết căn lành thì sẽ ở chỗ nào mà được
trừ diệt tội. Này thiện nam tử! Nếu người sinh lòng thiện thì đó chẳng gọi
là nhất xiển đề vậy. Này thiện nam tử! Do nghĩa này nên tất cả sự bố thí
mà quả báo sở đắc chẳng phải không sai biệt. Vì sao vậy? Vì bố thí cho
Thanh Văn thì quả báo sở đắc khác, bố thí cho Bích Chi Phật được quả báo
cũng khác, chỉ có cúng dường cho Như Lai là thu hoạch được quả Vô thượng.
Vậy nên nói rằng, tất cả sự bố thí chẳng phải không sai khác.
Ông Thuần Ðà lại nói rằng :
- Vì sao đức Như Lai nói bài kệ này?
Ðức Phật bảo ông Thuần Ðà rằng :
- Vì có nhân duyên nên ta nói bài kệ này!
Trong thành Vương Xá có một người Ưu bà tắc, lòng không tịnh tín, phụng sự
giáo phái Ni-Kiền mà đến hỏi ta về ý nghĩa của Bố thí. Do nhân duyên này
nên ta nói bài kệ đó, ta cũng vì những vị đại Bồ tát nói nghĩa của bí
tạng. Như bài kệ ấy thì nghĩa ấy thế nào? Tất cả là một phần ít tất cả!
Ông phải biết rằng, đại Bồ tát là kẻ hùng trong loài người, nhiếp lấy kẻ
trì giới mà bố thí sự cần dùng cho họ, xả bỏ kẻ phá giới như trừ bỏ cỏ
bông kê.
Lại nữa, này thiện nam tử! Như ta thuở
xưa đã nói kệ rằng :
Tất cả sông nước Ø
Ắt có khúc quanh
Tất cả rừng rậm Ắt cây có danh
Tất cả người nữ Ắt lòng dối quanh
(siểm khúc) Tất cả tự tại Ắt thọ an lành (lạc an).
Lúc bấy giờ, đại Bồ tát Văn Thù Sư Lợi
liền đứng dậy, trật áo vai phải, gối phải quì xuống đất, trước lễ dưới
chân đức Phật mà nói kệ rằng :
Chẳng phải mọi sông
Ø
Khúc quanh ắt có
Chẳng phải mọi rừng Ðều có danh mộc
Chẳng phải nữ nhân Ðều dạ siểm
khúc
Mọi Tự Tại Tôn Chẳng ắt thọ lạc.
Bài kệ đức Phật đã nói, nghĩa ấy có khác.
Nguyện xin ngài rũ lòng thương xót nói lên cái nhân duyên ấy! Vì sao vậy?
Thưa đức Thế Tôn! Ở ba ngàn đại thiên thế giới này có châu tên là Câu Gia
Ni. Châu ấy có sông ngay thẳng chẳng quanh co tên là Ta Bà Gia. Nó giống
như sợi dây thẳng, chảy vào biển phía Tây. Như vậy tướng dòng sông này
khác với trong Kinh mà đức Phật chưa từng nói. Nguyện xin đức Như Lai nhân
trong Kinh Phương Ðẳng A Hàm này, nói có nghĩa khác khiến cho các Bồ tát
tín giải sâu sắc vấn đề đó. Thưa đức Thế Tôn! Ví như có người trước biết
quặng vàng mà sau chẳng nhận thức được vàng. Ðức Như Lai cũng vậy, biết
hết pháp rồi mà sự diễn nói có cái khác chẳng hết. Ðức Như Lai tuy nói lời
nói khác như vậy nhưng cần phải phương tiện lý giải ý thú của vấn đề ấy.
Tất cả rừng rậm nhất định là cây cối nhưng rừng đó cũng có cái khác. Vì
sao vậy? Vì đủ thứ cây báu như vàng, bạc, lưu ly... đó cũng gọi là rừng.
Tất cả nữ nhân nhất định mang lòng dua nịnh quanh co. Ðiều này cũng có
khác. Vì sao vậy? Vì cũng có nữ nhân giỏi gìn giữ cấm giới, thành tựu công
đức, có đại từ bi. Tất cả đấng tự Tại nhất định hưởng thọ an vui. Ðiều này
cũng có khác. Vì sao vậy? Vì có đấng Tự Tại là vua Chuyển Luân Thánh, là
pháp vương Như Lai chẳng thuộc phạm vi ma chết, chẳng thể diệt tận. Còn
Phạm Vương, Ðế Thích, Chư Thiên... tuy được tự tại nhưng đều là vô thường.
Nếu được thường trụ, không biến dị thì mới gọi là tự tại như là Ðại Thừa
Ðại Bát Niết Bàn.
Ðức Phật dạy rằng :
- Này thiện nam tử! Ông nay giỏi được
biện tài lạc thuyết! Nhưng ông hãy dừng lại, lắng nghe! Này Văn Thù Sư
Lợi! Ví như ông trưởng giả, thân mắc bệnh khổ. Lương y chẩn bệnh, rồi vì
ông hòa hợp thuốc cao. Khi đó, người bịnh tham muốn uống nhiều thuốc. Vị
lương y nói với người bệnh rằng : “Nếu người có thể tiêu hóa thì có thể
uống tùy ý. Ông nay thân thể gầy yếu, chẳng nên uống nhiều. Ông phải biết
thuốc cao này cũng gọi cam lộ mà cũng gọi là thuốc độc. Nếu uống nhiều mà
chẳng tiêu hóa thì gọi là độc dược!”. Này thiện nam tử! Ông nay chớ cho là
lời nói của vị thầy thuốc đó trái với nghĩa lý, làm tổn thất thế lực của
thuốc cao. Này thiện nam tử! Như Lai cũng vậy, vì các quốc vương, hậu phi,
thái tử, vương tử, đại thần... nhân vương tử, hậu phi... của vua Ba tư Nặc
có lòng kiêu mạn mà vì muốn điều phục nên thị hiện sự khủng bố như vị
lương y kia, nên nói kệ rằng :
Tất cả sông nước
Ø
Ắt có khúc quanh
Tất cả rừng rậm Ắt cây có danh
Tất cả người nữ Ắt lòng dối quanh
Tất cả Tự Tại Ắt thọ an lành.
Này Văn Thù Sư Lợi! Ông nay phải biết,
lời nói của Như Lai không có sai lầm. Như đất đai này có thể làm cho lật
úp, nhưng lời nói của Như Lai nhất định không sai lầm! Do nghĩa này nên
lời nói của Như Lai, tất cả hữu dư.
Lúc bấy giờ, đức Phật khen ngài Văn Thù
Sư Lợi rằng :
- Hay thay! Hay thay! Này thiện nam tử!
Ông biết ý nghĩa như vậy đã lâu nhưng vì thương xót tất cả, muốn khiến cho
chúng sinh được trí tuệ nên rộng hỏi Như Lai về ý nghĩa của bài kệ như
vậy!
Lúc bấy giờ, ngài Văn Thù Sư Lợi Pháp
Vương Tử lại ở trước đức Phật mà nói kệ rằng :
Với lời người khác
Ø
Chẳng nghịch, thuận tùng
Cũng chẳng quán khác Tác dùng bất
tác
Chỉ tự quán thân Hành thiện, bất
thiện.
Như vậy, đức Thế Tôn nói pháp dược này
chẳng phải là chánh thuyết mà chỉ đối với lời nói người khác thuận theo,
chẳng nghịch lại thôi! Nguyện xin đức Như Lai rũ lòng thương nói lời chân
chánh! Vì sao vậy? Thưa đức Thế Tôn! Vì ngài thường nói, tất cả chín mươi
lăm thứ ngoại học, đều hướng đến con đường ác. Các đệ tử Thanh Văn đều
hướng về đường chánh như hộ trì cấm giới, nhiếp lấy oai nghi, giữ gìn cẩn
thận các căn. Nhưng người như vậy ưa thích Ðại pháp sâu sắc, hướng đến
Thiện đạo mà vì sao đức Như Lai ở trong chính bộ Kinh, thấy có người hủy
báng người khác thì liền quở trách? Như vậy ý nghĩa bài kệ là hướng đến
chỗ nào?
Ðức Phật bảo ngài Văn Thù Sư Lợi rằng :
- Này thiện nam tử! Ta nói bài kệ này
cũng chẳng vì hết tất cả chúng sinh! Bấy giờ ta chỉ vì vua A Xà Thế. Các
đức Phật Thế Tôn, nếu không nhân duyên thì nhất định chẳng nói nghịch, vì
có nhân duyên nên mới nói vậy! Này thiện nam tử! Vua A xà Thế hại cha ông
ấy rồi đi đến chỗ của ta, muốn chiết phục ta mà hỏi như vầy : “Thưa đức
Thế Tôn! Thế nào? Nhất thiết trí này chẳng phải là Nhất thiết trí sao? Nếu
là Nhất thiết trí thì ông Ðiều Ðạt thuở xưa, trong vô lượng đời, thường
mang lòng ác, theo đuổi đức Như Lai, muốn làm nghịch hại ngài mà vì sao
đức Như Lai còn cho ông ấy xuất gia?” Này thiện nam tử! Do nhân duyên này
nên ta vì vị vua đó mà nói kệ này :
Với lời người khác
Ø
Chẳng nghịch, thuận tùng
Cũng chẳng quán khác Tác dùng bất
tác
Chỉ tự quán thân Hành thiện, bất
thiện.
Phật bảo rằng : “Này đại vương! Ông nay
hại cha, đã tạo tác tội nghịch vô gián rất nặng nên phải phát lồ để cầu
thanh tịnh thì còn duyên vào đâu mới lại thấy tội lỗi của người khác?” Này
thiện nam tử! Do nghĩa này nên ta vì vị vua đó mà nói bài kệ này. Lại nữa,
này thiện nam tử! Cũng vì hộ trì người chẳng hủy cấm giới thành tựu uy
nghi, thấy lỗi người khác mà ta nói bài kệ đó. Nếu lại có người thọ lời
dạy bảo của người khác, xa lìa mọi ác, lại dạy người khác xa lìa mọi ác
thì người như vậy tức là đệ tử của ta!
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn vì ngài Văn Thù
Sư Lợi, lại nói kệ rằng :
Tất cả sợ gậy, dao Ø Không
ai chẳng yêu mạng
Lấy mình mà suy ra Chớ giết, chớ đánh
trượng.
Lúc bấy giờ, ngài Văn Thù Sư Lợi lại ở
trước đức Phật mà nói kệ rằng:
Phi tất cả sợ dao (gậy) Ø Phi
tất cả yêu mạng
(Phi
tất cả : chẳng phải tất cả...)
Lấy mình mà suy ra Siêng làm Thiện
phương tiện.
Ðức Như Lai nói ý nghĩa câu pháp này cũng
là chưa hết! Vì sao vậy? Vì như A la hán, Chuyển Luân Thánh Vương, ngọc
nữ, voi ngựa, chủ tạng đại thần mà những trời, người và a tu la cầm gươm
bén có thể hại họ được thì không có điều này. Dũng sĩ, liệt nữ, vua ngựa,
chúa thú, Tỳ kheo trì giới, tuy đến đối mặt nhau mà chẳng kinh sợ. Do
nghĩa này nên đức Như Lai nói kệ cũng là hữu dư. Nếu nói rằng, suy mình ra
có thể làm ví dụ thì tức là cũng hữu dư. Vì sao vậy? Vì nếu khiến A la hán
lấy mình ví cho người kia thì có ngã tưởng và cả mạng tưởng. Nếu có ngã
tưởng và cả mạng tưởng thì nên ủng hộ. Phàm phu cũng nên thấy A la hán đều
là người tu hành. Nếu như vậy thì tức là tà kiến. Nếu có tà kiến thì mạng
chung ứng sinh vào địa ngục A Tỳ. Lại, A la hán giả sử đối với chúng sinh
phát sinh lòng hại thì không có điều này. Vô lượng chúng sinh cũng lại
không thể hại A la hán.
Ðức Phật dạy rằng :
- Này thiện nam tử! Nói ngã tưởng là nói
đối với chúng sinh phát sinh lòng đại bi, không có tư tưởng giết hại; là
nói A la hán có lòng bình đẳng. Ông chớ cho là đức Thế Tôn không có nhân
duyên mà nói nghịch vậy. Ngày xưa ở trong thành Vương Xá của vị vua này có
người thợ săn bậc thầy giết nhiều bầy nai, mời ta ăn thịt. Bấy giờ, ta tuy
nhận lời mời của người đó, nhưng đối với các chúng sinh phát sinh lòng từ
bi như thương La Hầu La mà nói kệ rằng :
Sẽ khiến ngươi trường thọ
Ø Mãi
mãi trụ thế gian
Thọ trì pháp chẳng hại Như thọ mạng Thế
Tôn.
Vậy nên ta nói bài kệ này :
Tất cả sợ gậy dao Không ai chẳng
yêu mạng
Lấy mình mà suy ra Chớ giết, chớ đánh
trượng.
Ðức Phật dạy rằng :
- Hay thay! Hay thay! Này Văn Thù Sư Lợi!
Ông vì các vị đại Bồ tát nên hỏi han Như Lai về mật giáo như vậy!
Lúc bấy giờ, ngài Văn Thù Sư Lợi lại nói
kệ rằng :
Sao gọi kính cha mẹ Ø Thuận
theo mà trọng tôn?
Pháp này sao tu tập Mà đọa ngục Vô
gian (Vô gián)?
Ðến đây, đức Như Lai dùng kệ đáp :
Nếu mẹ là tham ái Ø Vô
minh lấy làm cha
Thuận theo tôn trọng đó Thì đọa
ngục A tỳ.
Lúc bấy giờ, đức Như Lai lại vì ngài Văn
Thù Sư Lợi, một lần nữa nói kệ rằng :
Tất cả thuộc người
(lệ thuộc người khác) Ø
Thì gọi là khổ
Do mình tất cả Tự tại lạc an
Tất cả kiêu mạn Thế (lực) rất bạo
tàn.
Những người hiền thiện Tất cả yêu
thương.
Lúc bấy giờ, Ðại Bồ tát Văn Thù Sư Lợi
bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn! Lời nói này của đức
Như Lai cũng chẳng hết! Nguyện xin đức Như Lai lại rũ lòng thương xót nói
về nhân duyên ấy. Vì sao vậy? Vì như con ông trưởng giả khi theo thầy học
thì có bị lệ thuộc thầy không? Nếu lệ thuộc thầy thì nghĩa chẳng thành
tựu, nếu chẳng lệ thuộc thì cũng chẳng thành tựu, nếu được tự tại cũng
chẳng thành tựu. Vậy nên lời nói của Như Lai hữu dư! Lại nữa, thưa đức Thế
Tôn! Ví như vị vương tử không có sự tập quen mọi việc, khi chạm đến việc
thì chẳng thành. Ðó cũng là tự tại nhưng ngu tối thường khổ. Như vậy vương
tử đó nếu nói tự tại thì nghĩa cũng chẳng thành, hoặc nói rằng lệ thuộc
người khác thì nghĩa cũng chẳng thành. Do nghĩa này nên nghĩa của lời nói
đức Phật gọi là hữu dư. Vậy nên tất cả lệ thuộc người khác chẳng nhất định
là thọ khổ và tất cả tự tại chẳng nhất định là thọ lạc (vui). Tất cả kiêu
mạn thế lực rất bạo ác là cũng hữu dư! Thưa đức Thế Tôn! Như các liệt nữ
lòng kiêu mạn nên xuất gia học đạo, hộ trì cấm giới, thành tựu uy nghi,
nhiếp giữ các căn chẳng cho dong ruỗi tán loạn. Vậy nên tất cả kết sử kiêu
mạn chẳng nhất định là bạo ác. Người hiền thiện được tất cả ái niệm là
cũng hữu dư. Như người, bên trong phạm bốn trọng cấm rồi mà chẳng bỏ pháp
phục, kiên trì uy nghi người hộ trì Chánh pháp thấy được rồi thì chẳng ái
niệm người đó, sau khi mạng chung còn bị đọa vào địa ngục. Nếu có người
tốt phạm bốn trọng cấm rồi mà người hộ pháp thấy liền đuổi ra, bãi đạo
hoàn tục. Do nghĩa này nên tất cả hiền thiện chẳng nhất định là đều được
ái niệm.
Lúc bấy giờ, đức Phật bảo ngài Văn Thù Sư
Lợi rằng :
- Có nhân duyên nên Như Lai nói đến nghĩa
hữu dư này. Lại có nhân duyên nên các đức Phật Như Lai nói pháp này. Ở
thành Vương xá có một người con gái tên là Thiện Hiền, trở về nhà cha mẹ,
nhân đến chỗ ta, qui y với ta và Pháp cùng chúng Tăng mà nói lên rằng :
“Thế của tất cả nữ nhân chẳng tự do còn tất cả nam tử tự tại vô ngại”. Bấy
giờ, ta biết lòng của người con gái này, liền vì cô ấy tuyên nói bài kệ
tụng như vậy. Này Văn Thù Sư Lợi! Hay thay! Hay thay! Ông nay có thể vì
tất cả chúng sinh hỏi về mật ngữ như vậy của Như Lai!
Ngài Văn Thù Sư Lợi lại nói kệ rằng :
Tất cả những chúng sinh
Ø Ðều
nương ăn uống sống (còn)
Tất cả có sức lớn (to) Lòng ấy không
ghét ghen.
Tất cả nhân ăn uống Mà bịnh khổ
vương mang.
Tất cả tu tịnh hạnh Mà được thọ
lạc an.
Như vậy, thưa đức Thế Tôn! Hôm nay ngài
thọ bữa ăn cúng dường của ông Thuần Ðà thì chúng sẽ không có sự kinh sợ
cho đức Như Lai sao?
Bấy giờ, đức Thế Tôn lại vì ngài Văn Thù
mà nói kệ rằng:
Chẳng phải mọi chúng sinh
Ø
Ðều nương ăn uống sống.
Chẳng phải mọi sức lớn Lòng đều
không ghét ghen.
Chẳng phải mọi nhân ăn Mà bị các
khổ bệnh.
Chẳng phải mọi tịnh hạnh Ðều được thọ
lạc an.
Này Văn Thù Sư Lợi! Nếu ông bị bệnh thì
ta cũng như vậy, mà bịnh khổ theo. Vì sao vậy? Vì các A la hán và Bích Chi
Phật, Bồ tát, Như Lai thật ra không có sự ăn uống, nhưng vì muốn hóa độ
những chúng sinh kia nên thị hiện thọ dụng vô lượng vật bố thí của chúng
sinh, khiến cho những người ấy đầy đủ Ðàn Balamật, cứu vớt địa ngục, súc
sinh và ngã quỉ. Nếu nói rằng, Như Lai sáu năm khổ hạnh, thân hình gầy còm
thì không có điều này. Các đức Phật Thế Tôn một mình cứu vớt các cõi mà
chẳng đồng với hạng phàm phu thì sao mà được tấm thân gầy yếu vậy? Các đức
Phật Thế Tôn tinh cần tu tập, thu hoạch được thân Kim Cương chẳng đồng với
tấm thân nguy khốn dễ tan vỡ của người đời. Những đệ tử của ta cũng lại
như vậy, chẳng thể nghĩ bàn, chẳng nương vào ăn uống. Tất cả đại lực không
ghen ghét thì cũng là nghĩa hữu dư. Như người thế gian trọn đời vĩnh viễn
không có lòng ganh ghét mà không có đại lực. Tất cả bệnh khổ nhân ăn uống
có được thì cũng là nghĩa hữu dư. Vì ta cũng thấy có người bị bệnh do
khách quan như là dao, gươm,, mâu, kích đâm chém. Tất cả người tịnh hạnh
đều thọ yên vui thì cũng là nghĩa hữu dư. Thế gian cũng có người ngoại đạo
tu hành phạm hạnh, chịu nhiều khổ não. Do nghĩa này nên lời nói của Như
Lai tất cả là hữu dư. Ðó gọi là Như Lai chẳng phải không nhân duyên mà nói
kệ này. Vì có nhân duyên nên nói! Ngày xưa ở nước Ưu Thiền Ni này, có vị
Bàlamôn tên là Cổ Ðê Ðức đi đến chỗ của ta, muốn thọ lần thứ tư pháp Bát
Giới Trai. Lúc bấy giờ, ta vì ông ấy nói bài kệ này.
Lúc bấy giờ, Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật
rằng :
- Thưa đức Thế Tôn! Sao gọi là nghĩa vô
dư vậy? Sao gọi là nghĩa tất cả?
- Này thiện nam tử! Tất cả là chỉ trừ
người trợ đạo, thường ưa thiện pháp. Ðó gọi là tất cả, cũng gọi là vô dư,
là muốn khiến cho các thiện nam tử ưa pháp biết nghĩa hữu dư và vô dư này.
Bồ tát Ca Diếp, lòng rất vui mừng, hớn hở
không lường, trước bạch đức Phật rằng :
- Rất lạ thay! Ðức Thế Tôn bình đẳng nhìn
chúng sinh như La Hầu La!
Bấy giờ, đức Phật khen Bồ tát Ca Diếp
rằng :
- Hay thay! Hay thay! Sự thấy của ông hôm
nay thậm thâm, vi diệu!
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn! Nguyện xin đức Như
Lai nói về công đức sở đắc của Kinh Ðại Thừa Ðại Niết Bàn này!
Ðức Phật bảo ngài Ca Diếp rằng :
- Này thiện nam tử! Nếu có người được
nghe danh tự kinh này thì công đức sở đắc chẳng phải là điều có thể tuyên
nói của các Thanh Văn, Bích Chi Phật, chỉ có Phật mới có thể biết. Vì sao
vậy? Vì chẳng thể nghĩ bàn, vì chính là cảnh giới của Phật. Huống gì là
công đức của người thọ trì, đọc tụng thông lợi và ghi chép thành kinh
quyển.
Lúc bấy giờ, chư thiên, người đời và A tu
la liền ở trước đức Phật, khác miệng đồng âm, mà nói kệ rằng :
Chư Phật khó nghĩ bàn
Ø Pháp,
Tăng lại cũng vậy
Vậy nên nay mời khuyên Nguyện xin chút
dừng trụ
Ðợi tôn giả A Nan Và ngài Ðại
Ca Diếp
Quyến thuộc hai chúng trên Chẳng bao
lâu sẽ đến.
Cùng A Xà Thế Vương Quốc chủ nước Ma
Kiệt
Kính tin Phật hết lòng Nơi này còn
chưa đến
Nguyện xin Phật Thế Tôn Rũ lòng
thương xót trụ,
Ở trong chúng này, xin Ðoạn con những
nghi võng (lưới nghi).
Lúc bấy giờ, đức Như Lai vì các đại chúng
mà nói kệ rằng :
Trưởng tử pháp Thế Tôn
Ø Tên
là Ðại Ca Diếp
Và A Nan tinh cần Hay đoạn mọi nghi
hoặc
Các ông xem kỹ càng A Nan đa văn sĩ
Tự nhiên sẽ giải thông Thường và vô
thường đó!
Do vậy mà chẳng nên Lòng mang ưu não
lớn!
Lúc bấy giờ, đại chúng đem đủ thứ đồ vật
cúng dường đức Như Lai. Cúng dường đức Phật rồi, họ liền phát tâm Vô
Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác và vô lượng vô biên hằng hà sa số những Bồ
tát .v.v.. được trụ ở bậc Sơ địa. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn cùng với ngài
Văn Thù Sư Lợi, Bồ tát Ca Diếp và cùng với ông Thuần Ðà mà thọ ký biệt.
Trao ký biệt xong, đức Phật nói như vầy :
- Này các thiện nam tử! Các ông hãy tự
sửa lấy lòng mình, cẩn thận chớ buông lung! Bệnh đau lưng của ta hôm nay
làm toàn thân đều đau nhức. Ta nay muốn nằm nghỉ như đứa trẻ kia và như
người bệnh hoạn thường. Này Văn Thù! Các ông phải vì bốn bộ chúng diễn nói
Ðại Pháp rộng rãi. Nay ta đem pháp này phó chúc cho ông! Cho đến khi Ca
Diếp và A Nan đến thì ông lại phải đem chánh pháp như vậy phó chúc cho họ.
Bấy giờ, khi đức Như Lai nói lời này rồi,
vì muốn điều phục các chúng sinh nên ngài hiện thân có bệnh, nghiêng hông
phải mà nằm như người bệnh vậy.
PHẨM
HIỆN BỆNH
PHẦN
XVIII:
Lúc
bấy giờ, Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn! Ðức Như Lai đã khỏi
tất cả bệnh tật, hoạn khổ đều trừ, không kinh sợ nữa. Thưa đức Thế Tôn!
Tất cả chúng sinh có bốn mũi tên độc tức là nguyên nhân của bệnh. Những gì
là bốn? Ðó là tham dục, sân nhuế, ngu si, kiêu mạn. Nếu có nguyên nhân
bệnh thì có bệnh sinh ra. Như là bệnh phổi nóng thì hơi trên thổ ra
nghịch, thân thể đau đớn, tâm thần mê loạn, bệnh lị, bệnh nôn ọe, bệnh
tiểu tiện ra máu, bệnh đau một bên mắt và tai, bệnh lưng, bụng trương đầy,
bệnh điên cuồng khô tiêu bị quỉ mỵ bắt... đủ thứ những bệnh về thân tâm
như vậy mà các đức Phật Thế Tôn đều không có nữa. Hôm nay đức Như Lai vì
duyên gì mà quay gọi Văn Thù Sư Lợi bảo rằng: “Ta nay đau lưng, các ông
phải vì đại chúng nói pháp!” Theo con thì có hai nhân duyên, tức là ngài
không có bệnh khổ. Những gì là hai? Một là thương xót tất cả chúng sinh.
Hai là ngài muốn cung cấp bố thí cho người bệnh thuốc chữa bệnh. Ðức Như
Lai thuở xưa, đã ở trong vô lượng ức kiếp, tu đạo Bồ tát, thường hành ái
ngữ làm lợi ích chúng sinh, chẳng khiến họ khổ não, ngài đã bố thí cho
người bệnh tật đủ thứ thuốc chữa bệnh thì vì nhân duyên gì đến hôm nay tự
nói rằng, có bệnh? Thưa đức Thế Tôn! Người đời có bệnh, hoặc ngồi, hoặc
nằm chẳng yên chỗ của mình, hoặc đi tìm đồ ăn thức uống, dạy bảo người nhà
sửa trị sản nghiệp, còn vì sao đức Như Lai mặc nhiên mà nằm, chẳng dạy bảo
những người đệ tử Thanh Văn về Thi Ba la mật, các thiền giải thoát Tam ma
bạt đề, tu các chánh cần? Vì nhân duyên gì ngài chẳng nói Kinh điển Ðại
Thừa thậm thâm như vậy? Vì sao đức Như Lai chẳng dùng vô lượng phương tiện
dạy ngài Ðại Ca Diếp, bậc vua voi trong loài người và các bậc đại
nhân.v.v... khiến cho những vị ấy chẳng thoái lui Vô Thượng Chánh Ðẳng
Chánh Giác. Vì sao đức Như Lai chẳng sửa trị các vị Tỳ kheo ác nhận nuôi
tất cả vật bất tịnh. Thưa đức Thế Tôn! Quả thật ngài không có bệnh mà sao
ngài mặc nhiên nghiêng hông phải mà nằm? Các Bồ tát, phàm đã cấp thí cho
người bệnh thuốc chữa bệnh thì thiện căn thu được đều bố thí cho chúng
sinh mà chung hồi hướng về Nhất Thiết Chủng Trí, vì trừ diệt những phiền
não chướng, nghiệp chướng, báo chướng của chúng sinh. Phiền não chướng là
tham dục, sân nhuế, ngu si, phẩn nộ, triền cái, tiều não (thiêu đốt, não
hại), tật đố, san lận, gian trá, dua nịnh, không tàm, không quí (không tủi
thẹn), mạn, mạn mạn, chẳng như mạn, tăng thượng mạn ngã mạn, tà mạn, kiêu
mạn, phóng dật, cống cao, oán giận, tranh tụng, tà mạng, nịnh hót, trá
hiện tướng khác, lấy lợi cầu lợi, cầu xấu, cầu nhiều, không có cung kính,
chẳng theo lời dạy bảo, gần gũi bạn xấu, tham lợi không chán, trói buộc
khó mở, muốn với ác dục, tham với ác tham, thân kiến, hữu kiến và cả vô
kiến, luôn bày tỏ vừa lòng, ngủ ngáp chẳng vui, ham muốn ăn uống, lòng ấy
tối tăm, lòng duyên vào dị tưởng, chẳng khéo tư duy, thân miệng nhiều ác,
ưa thích nhiều lời, các căn ám độn, phát ngôn nhiều hư dối, thường bị sự
che trùm của dục giác, sân nhuế giác và độc hại giác... Ðó gọi là phiền
não chướng. Nghiệp chướng là năm tội vô gián, bệnh trọng ác. Báo chướng là
sinh tại địa ngục, súc sinh, ngã quỉ, bài báng chánh pháp và nhất xiển đề
(Ðại tà kiến). Ðó gọi là báo chướng. Ba chướng như vậy gọi là đại bệnh mà
các Bồ tát, ở vô lượng kiếp, khi tu Bồ Ðề đã cấp cho tất cả người bệnh tật
thuốc chữa trị, thường phát nguyện này : “Xin khiến cho các chúng sinh
vĩnh viễn đoạn dứt bệnh nặng ba chướng này”! Lại nữa, thưa đức Thế Tôn!
Ðại Bồ tát khi tu Bồ Ðề cấp cho tất cả người bệnh thuốc trị bệnh thường
phát nguyện này : “Nguyện khiến cho chúng sinh vĩnh viễn đoạn dứt các
bệnh, được thành thân Như Lai Kim Cương”. Lại nguyên : “Vì tất cả vô lượng
chúng sinh làm vua Diệu Dược, đoạn trừ tất cả những trọng bệnh ác. Nguyện
cho các chúng sinh được thuốc A dà đà, nhờ dược lực này có thể trừ tất cả
ác độc không lường”. Lại nguyện cho chúng sinh đối với Vô Thượng Chánh
Ðẳng Chánh Giác không có thoái chuyển, mau chóng được thành tựu Phật dược
Vô thượng, tiêu trừ tất cả mũi tên độc phiền não. Lại nguyện cho chúng
sinh siêng tu tinh tấn, thành tựu tâm Như Lai Kim Cương làm thuốc vi diệu
trị liệu mọi thứ bệnh, chẳng khiến cho có người sinh ra tranh tụng tưởng.
Cũng nguyện chúng sinh làm cây thuốc lớn trị liệu tất cả những trọng bệnh
ác. Lại nguyện chúng sinh nhổ ra tên độc, được thành ánh sáng Vô thượng
của Như Lai. Lại nguyện cho chúng sinh được vào pháp tạng vi mật đại dược
trí tuệ của Như Lai. Thưa đức Thế Tôn! Bồ tát như vậy đã ở vô lượng trăm
ngàn vạn ức na do tha kiếp phát thệ nguyện này, khiến cho những chúng sinh
đều không có các bệnh thì vì duyên cớ gì đức Như Lai cho đến hôm nay xướng
lên rằng : có bệnh. Lại nữa, thưa đức Thế Tôn! Người đời có bệnh thì chẳng
thể ngồi dậy, cúi, ngước, tiến, dừng, ăn uống chẳng ngăn, nước uống chẳng
xuống, cũng lại chẳng thể dạy răn các con sửa trị gia nghiệp. Bấy giờ, cha
mẹ, vợ con, anh em, thân thuộc, bạn bè đều đối với người này sinh tư tưởng
ắt chết. Thưa đức Thế Tôn! Ðức Như Lai hôm nay cũng lại như vậy, nghiêng
bên phải mà nằm mà không có luận nói gì thì những người ngu của cõi Diêm
phù đề này sẽ nghĩ rằng, đức Như Lai Chánh Giác ắt sẽ Niết Bàn mà sinh ra
diệt tận tưởng. Nhưng mà tính Như Lai thật ra chẳng rốt ráo vào Niết Bàn.
Vì sao vậy? Vì Như Lai thường trụ không biến dị. Do nhân duyên này, chẳng
nên nói rằng, ta nay đau lưng.
Lại nữa, thưa đức Thế Tôn! Người đời có
bệnh thì thân thể hao gầy, hoặc nằm, hoặc nghiêng thì nằm xuống giường
nệm. Bấy giờ lòng mọi người sinh ra khinh rẻ, khởi lên tư tưởng ắt chết.
Ðức Như Lai nay cũng lại như vậy, sẽ bị sự khinh nhờn của chín mươi lăm
thứ ngoại đạo và phát sinh vô thường tưởng. Những ngoại đạo kia sẽ nói
rằng : “Chẳng như chúng ta do tính của ngã nên người, tự tại, thời tiết,
vi trần, các pháp.v.v... là thường trụ, không có biến dị. Sự biến thiên vô
thường của ông Samôn Cù Ðàm là pháp biến dị. Do nghĩa này nên, thưa đức
Thế Tôn! Hôm nay ngài chẳng nên mặc nhiên nghiêng bên phải mà nằm. Lại
nữa, thưa đức Thế Tôn! Người đời có bệnh thì bốn đại tăng tổn chẳng điều
hòa thích hợp hổ tương nhau, gầy yếu thiếu thốn. Vậy nên người bệnh chẳng
thể tùy ý ngồi dậy, nằm xuống giường nệm. Ðức Như Lai, bốn đại không gì
chẳng điều hòa thích hợp, thân lực đầy đủ cũng không gầy yếu, tổn hao,
thưa đức Thế Tôn! Như sức mười con trâu nhỏ chẳng bằng sức của một con
trâu lớn. Sức mười con trâu lớn chẳng bằng sức của một con trâu xanh. Sức
mười con trâu xanh chẳng bằng sức một con phàm tượng. Sức mười con voi
thường chẳng bằng sức một con voi hoang. Sức mười con voi hoang chẳng bằng
sức của một con voi hai ngà. Sức của mười con voi hai ngà chẳng bằng sức
một con voi bốn ngà. Sức mười con voi bốn ngà chẳng bằng sức một con voi
trắng của núi Tuyết. Sức mười con voi trắng núi Tuyết chẳng bằng sức một
con Hương tượng. Sức mười con Hương tượng chẳng bằng sức một con voi xanh.
Sức mười con voi xanh chẳng bằng sức một con voi vàng. Sức mười con voi
vàng chẳng bằng sức một con voi đỏ. Sức mười con voi đỏ chẳng bằng sức một
con voi trắng. Sức mười con voi trắng chẳng bằng sức một con voi núi. Sức
mười con voi núi chẳng bằng sức một con voi Ưu bát la. Sức mười con voi Ưu
bát la chẳng bằng sức một con voi Ba đầu ma. Sức mười con voi Ba đầu ma
chẳng bằng sức một con voi Câu vật đầu. Sức mười con voi Câu vật đầu chẳng
bằng sức một con voi Phân đà lợi. Sức mười con voi Phân đà lợi chẳng bằng
sức một lực sĩ trong loài người. Sức mười lực sĩ trong loài người chẳng
bằng sức một Bát kiện đề. Sức của mười Bát kiện đề chẳng bằng sức một bát
tý (cánh tay) Na la diên. Sức của mười Na la diên tám tay chẳng bằng sức
một chi tiết của một Bồ tát Thập trụ. Những chi tiết trong thân của tất cả
phàm phu chẳng đụng đến nhau. Ðầu chi tiết của lực sĩ trong loài người
đụng đến nhau. Các chi tiết trong thân của Bát kiện đề tiếp liền nhau. Ðầu
chi tiết trong thân của Na la diên móc vào nhau. Những xương đốt của Bồ
tát Thập trụ như rồng cuộn bung ra liên kết nhau. Vậy nên sức ấy của Bồ
tát rất lớn. Khi thế giới thành, từ cõi bờ Kim cương dấy lên tòa ngồi Kim
cương lên đến dưới gốc cây Bồ Ðề Ðạo Tràng, đức Bồ tát ngồi rồi thì lòng
tức thì chứng được mười lực. Ðức Như Lai hôm nay chẳng nên như đứa hài nhi
trẻ nít kia. Hài nhi trẻ nít ngu si vô trí thì không gì có thể nói. Do
nghĩa này nên trẻ nít tùy nằm nghiêng không người chê trách. Còn đức Như
Lai Thế Tôn có đại trí tuệ soi sáng tất cả, con rồng lớn của loài người
đầy đủ đại uy đức, thành tựu thần thông, bậc tiên nhân vô thượng đoạn trừ
vĩnh viễn lưới nghi, đã nhổ bỏ mũi tên độc, tiến lùi an tường, uy nghi đầy
đủ, được vô sở úy thì hôm nay ngài vì sao nghiêng hông phải mà nằm, khiến
cho những người, trời sầu bi khổ não?
Lúc bấy giờ, Bồ tát Ca Diếp liền ở trước
đức Phật mà nói kệ rằng :
Ðấng Cù Ðàm thánh đức
Ø Diệu
pháp nguyện nói lên
Chẳng nên như đứa trẻ Người bệnh nằm
trên giường.
Ðiều Ngự, Thiên Nhân Sư Nằm tựa Song Thọ
gian
Phàm phu ngu hèn thấy Sẽ nói ắt
Niết Bàn!
Chẳng biết điển Phương Ðẳng Sở hạnh Phật
thậm thâm.
Chẳng thấy vi mật tạng Như mù chẳng
thấy đường
Chỉ có các Bồ tát Như Văn Thù
vân...vân..
Giải được thậm thâm đó Như người giỏi
bắn tên.
Ba đời các đức Phật Ðại bi làm cội
nguồn
Ðại từ bi như vậy Nay ở đâu
Thế Tôn?
Nếu Ðại bi không có Thì chẳng gọi Thế
Tôn (Phật)?
Niết Bàn nếu Phật quyết Thì chẳng gọi
là thường.
Nguyện xin đấng Vô thượng Thượng nhận
thỉnh chúng con
Chúng sinh được lợi ích Ngoại
đạo bị diệt tan.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn, lòng đại bi
xông tỏa, biết ý niệm của mỗi một những chúng sinh, sắp muốn thuận theo sự
lợi ích rốt cùng. Ðức Phật liền trở dậy ngồi kiết già, nhan mạo tươi vui
như vàng lỏng tụ lại, mặt mày đoan nghiêm giống như vầng trăng tròn đầy,
hình dung thanh tịnh không có những cấu bẩn, phóng ra ánh sáng lớn soi đầy
khắp hư không. Ánh sáng ấy thịnh đại hơn trăm ngàn mặt trời, soi đến các
giới ở phương Ðông, phương Nam, phương Tây, phương Bắc, bốn phương bàng
phương trên, phương dưới, ban cho chúng sinh đuốc Ðại Trí khiến cho họ
diệt được hết vô minh hắc ám, khiến cho trăm ngàn ức na do tha an dừng ở
tâm Bồ Ðề chẳng thoái lui. Lúc bấy giờ, lòng đức Thế Tôn không tư lự nghi
ngờ như vua Sư tử, ngài dùng ba mươi hai tướng của bậc Ðại Nhân, tám mươi
vẻ đẹp để trang nghiêm thân mình. Tất cả lỗ chân lông ở trên thân ấy mà
mỗi một lỗ chân lông trổ ra một đóa hoa sen. Hoa ấy vi diệu đều đủ một
ngàn cánh mà sắc thuần màu vàng ròng, thân bằng lưu ly, tua bằng Kim
Cương, đài bằng ngọc mai khôi, hình dáng lớn tròn trịa giống như bánh xe.
Những hoa sen đó đều phát đủ thứ màu sắc xen nhau như xanh, vàng, đỏ,
trắng, tía, pha lê... Những ánh sáng đó đều soi khắp đến địa ngục A Tỳ,
địa ngục Tưởng, địa ngục Hắc Thằng (dây đen), địa ngục Chúng Hợp, địa ngục
Khiếu Hoán (kêu la), địa ngục Ðại Khiếu Hoán, địa ngục Tiều Nhiệt (đốt
nóng), địa ngục Ðại Tiều Nhiệt. Chúng sinh trong tám địa ngục ấy thường bị
sự bức thiết của các khổ như là đốt cháy, nung nấu, nướng trên lửa, chặt,
đâm, lột da.... Họ gặp ánh sáng ấy rồi thì mọi khổ như vậy diệt hết, không
còn, yên ổn, mát mẻ, khoái lạc không cùng cực. Trong ánh sáng ấy tuyên nói
tạng bí mật của Như Lai rằng, các chúng sinh đều có Phật tính. Chúng sinh
nghe rồi liền mạng chung sinh vào trong cõi trời, người. Cho đến tám thứ
địa ngục lạnh giá (bàn băng) như là địa ngục A Ba Ba, địa ngục A Tra Tra,
địa ngục A La La, địa ngục A Ta Ta, địa ngục Ưu Bát La, địa ngục Ba Ðầu
Ma, địa ngục Câu Vật Ðầu, địa ngục Phân Ðà Lợi. Chúng sinh trong những địa
ngục đó thường bị sự bức bách não hại của khổ lạnh, như là cắt xé thân thể
nát vụn, tàn hại lẫn nhau... Họ gặp ánh sáng ấy rồi thì những khổ như vậy
cũng diệt không còn, liền được điều hòa ấm áp, thích hợp với thân thể.
Trong ánh sáng này cũng nói tạng bí mật của Như Lai rằng, các chúng sinh
đều có Phật tính. Chúng sinh nghe rồi, liền mạng chung sinh vào trong cõi
người, trời. Lúc bấy giờ, ở cõi Diêm phù đề này và các thế giới khác mà có
địa ngục thì đều trống không, không có người thọ tội, trừ nhất xiển đề.
Ngã quỉ, súc sinh bị sự bức bách của đói khát, dùng tóc buộc thân, ở hàng
trăm ngàn năm chưa từng nghe danh tự nước uống mà gặp ánh sáng ấy rồi thì
đói khát liền tiêu trừ. Trong ánh sáng đó cũng nói lên tạng bí mật của Như
Lai rằng, các chúng sinh đều có Phật tính. Chúng sinh nghe rồi, liền mạng
chung sinh vào trong cõi người, trời, khiến cho loài ngã quỉ cũng đều
trống không, trừ loài quỉ bài báng chánh điển Ðại Thừa Phương Ðẳng. Chúng
sinh súc sinh giết hại lẫn nhau, tương tàn ăn thịt nhau mà gặp ánh sáng ấy
rồi thì lòng sân nhuế đều diệt. Trong ánh sáng đó cũng nói lên tạng bí mật
của Như Lai rằng, các chúng sinh đều có Phật tính. Chúng sinh nghe rồi,
liền mạng chung sinh vào trong cõi người, trời. Ðang khi ấy loài súc sinh
cũng hết, trừ kẻ bài báng chánh pháp. Mỗi một hoa đó đều có một đức Phật
với hào quang tròn tỏa sáng một tầm màu vàng rực rỡ, vi diệu đoan nghiêm,
tối thượng vô tỷ. Thân các đức Phật đó trang nghiêm ba mươi hai tướng tốt,
tám mươi vẻ đẹp. Những đức Thế Tôn đó, hoặc có vị ngồi, hoặc có vị đi,
hoặc có vị nằm, hoặc có vị đứng hoặc dậy tiếng sấm, hoặc tuông mưa to,
hoặc phóng ra ánh chớp, hoặc quát gió lớn, hoặc phát ra khói lửa thân như
đám lửa, hoặc thị hiện bảy báu, những núi, ao, suối, sông, nước, núi rừng,
cây cối..., hoặc lại thị hiện bảy báu, đất nước, thành ấp, tụ lạc, cung
điện, nhà cửa, hoặc lại thị hiện voi, ngựa, sư tử, cọp, sói, khổng tước
(công) phượng hoàng, các loài chim..., hoặc lại thị hiện khiến cho chúng
sinh sẵn có trong cõi Diêm phù đề đều thấy địa ngục, ngã quỉ, súc sinh,
hoặc lại thị hiện sáu trời cõi Dục. Lại có đức Thế Tôn, hoặc nói ấm, giới,
các nhập có nhiều những lỗi hoạn. Hoặc lại có vị nói pháp bốn Thánh Ðế.
Hoặc lại có vị nói nhân duyên của các pháp. Hoặc có vị nói các nghiệp
phiền não đều do nhân duyên sinh. Hoặc có vị nói ngã cùng vô ngã. Hoặc có
vị nói hai pháp khổ và vui. Hoặc lại có vị nói thường, vô thường.v.v...
Hoặc lại có vị nói tịnh cùng bất tịnh. Lại có đức Thế Tôn vì các vị Bồ tát
diễn nói việc tu hành sáu Ba la mật. Hoặc lại có vị nói về công đức sở đắc
của các vị Ðại Bồ tát. Hoặc lại có vị nói về công đức sở đắc của những đức
Phật Thế Tôn. Hoặc lại có vị nói về công đức sở đắc của người Thanh Văn.
Hoặc lại có vị nói thuận theo Nhất thừa. Hoặc lại có vị nói về Tam thừa
thành đạo. Hoặc có đức Thế Tôn mà hông trái tuông ra nước, hông phải phát
ra lửa. Hoặc có vị thị hiện : sơ sinh, xuất gia, ngồi ở dưới gốc cây Bồ Ðề
Ðạo Tràng, chuyển bánh xe diệu pháp, vào đến Niết Bàn. Hoặc có đức Thế Tôn
tạo tiếng rống Sư tử khiến cho trong hội này có người được một quả, hai
quả, ba quả cho đến quả thứ tư. Hoặc lại có vị nói lên vô lượng nhân duyên
lìa khỏi sinh tử. Lúc bấy giờ, chúng sinh sẵn có trong cõi Diêm phù đề này
gặp ánh sáng ấy rồi thì người mù thấy được hình sắc, người điếc nghe được
tiếng, người câm có thể nói, người què có thể đi, người nghèo được của,
người san tham có thể bố thí, người sân nhuế phát từ tâm, người chẳng tin
thì tin... Như vậy thế giới không có một chúng sinh tu hành pháp ác, trừ
nhất xiển đề. Lúc bấy giờ, tất cả trời, rồng, quỉ thần, càn thát bà, a tu
la, ca lâu la, khẩn na la, ma hầu la già, la sát, kiền đà, ưu ma đà, a bà
ma la, người, chẳng phải người.v.v... đều chung đồng thanh xướng lên rằng
:
- Hay thay! Hay thay! Ðấng Vô Thượng
Thiên Tôn nhiều sự lợi ích!
Nói lời đó rồi, họ nhảy nhót vui mừng,
hoặc ca, hoặc múa, hoặc thân chuyển động... dùng đủ loại hoa tung lên đức
Phật và chúng Tăng. Những hoa đó là hoa Thiên Ưu bát la, hoa Câu vật đầu,
hoa Ba đầu ma, hoa Phân đà lợi, hoa Mạn đà la, hoa đại Mạn đà la, hoa Mạn
thù sa, hoa đại Mạn thù sa, hoa Tán đà na, hoa đại Tán đà na, hoa Lô chỉ
na, hoa đại Lô chỉ na, hoa Hương, hoa Ðại hương, hoa Thích ý, hoa Ðại
thích ý, hoa Ái kiến, hoa Ðại ái kiến, hoa Ðoan nghiêm, hoa Ðệ nhất đoan
nghiêm. Họ lại còn tung lên các thứ hương như hương trầm thủy đa dà lâu,
hương hòa hợp đủ thứ Chiên đàn uất kim, hương tụ bên bờ biển (long diên
hương)... Họ lại dùng tràng phan bảo cái trên trời, các kỹ nhạc nhà trời
như đàn tranh, sáo, sênh, đàn sắt, đàn không hầu... tấu thổi lên để cúng
dường đức Phật mà nói kệ rằng :
Con nay cúi lạy Ðại Tinh Tấn
Vô thượng Chánh Giác Lưỡng Túc Tôn
Trời, người, đại chúng đều chẳng biết
Chỉ có Cù Ðàm mới hiểu thông.
Thế Tôn vì con nên thuở trước
Tu khổ hạnh nhiều kiếp không lường
Mà sao một sớm bỏ bổn thệ
Liền bỏ mạng thân vào Niết Bàn
Tất cả chúng sinh chẳng thể thấy
Bí mật tạng của Phật Thế Tôn
Do nhân duyên này khó ra khỏi
Ðường ác và sinh tử chuyển vần.
Như lời Phật nói, A la hán
Tất cả đều phải đến Niết Bàn
Hành xử Phật thậm thâm như vậy
Phàm phu ngu, ai có thể thông
Cho các chúng sinh pháp cam lộ
Vì họ đoạn trừ các não phiền
Nếu có người uống cam lộ ấy
Thì sinh, già, bịnh, chết chẳng còn.
Như Lai Thế Tôn đã trị liệu
Trăm ngàn chúng sinh nhiều không lường.
Khiến những trọng bệnh sở hữu ấy
Tất cả tiêu diệt hết, không còn.
Ðã lâu Thế Tôn xả bệnh khổ
Nên được gọi đệ thất Thế Tôn (đệ thất
Phật)
Nguyện xin hôm nay mưa pháp vũ
Thấm nhuần giống công đức chúng con.
Các đại chúng và người, trời đó
Thỉnh như vậy rồi đứng mặc nhiên.
Khi nói bài kệ này thì tất cả các đức
Phật trong đài hoa sen từ cõi Diêm phù đề khắp đến cõi trời Tịnh Cư đều
nghe hết. Lúc bấy giờ, đức Phật bảo Bồ tát Ca Diếp rằng :
- Hay thay! Hay thay! Này thiện nam tử!
Ông đã đầy đủ trí tuệ vi diệu thậm thâm như vậy thì chẳng bị sự phá hoại
của những ma ngoại đạo. Này thiện nam tử! Ông đã an trụ chẳng bị sự khuynh
động của tất cả những cơn gió tà ác. Này thiện nam tử! Ông đã thành tựu
biện tài “lạc thuyết”, đã từng cúng dường vô lượng hằng hà sa số những đức
Phật Thế Tôn đời quá khứ. Vậy nên ông có thể hỏi Như Lai Chánh Giác về cái
nghĩa như vậy. Này thiện nam tử! Ta vào thuở xa xưa, vô lượng vô biên ức
na do tha trăm ngàn vạn kiếp đã trừ hết bệnh căn, vĩnh viễn lìa khỏi dựa,
nằm. Này Ca Diếp! Thuở quá khứ vô lượng atăngkỳ kiếp, có đức Phật ra đời,
hiệu là Vô Thượng Thắng Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri Minh Hành Túc
Thiện Thệ Thế Gian Giải Vô Thượng Sĩ Ðiều Ngự Trượng Phu Thiên Nhân Sư
Phật Thế Tôn. Ngài đã vì các Thanh Văn nói Kinh Ðại Thừa Ðại Niết Bàn này,
khai thị, phân biệt, hiển phát nghĩa của Kinh ấy. Ta vào lúc ấy cũng vì
đức Phật đó mà làm Thanh Văn, thọ trì Kinh điển Ðại Niết Bàn như vậy. Ta
đọc tụng thông lợi, ghi chép thành Kinh quyển, rộng vì người khác mà khai
thị, phân biệt, giải nói nghĩa của Kinh ấy, rồi đem thiện căn này hồi
hướng về Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Này thiện nam tử! Ta từ đó đến
nay chưa từng có nghiệp duyên phiền não ác đọa vào ác đạo, bài báng Chánh
pháp làm nhất xiển đề, thọ thân huỳnh môn, không có căn hay hai căn, phản
nghịch cha mẹ, giết A la hán, phá tháp, hoại Tăng, làm chảy máu thân Phật,
phạm bốn trọng cấm... Từ đó đến nay thân tâm ta yên ổn, không có các khổ
não. Này Ca Diếp! Ta nay quả thật không có tất cả bệnh tật. Sở dĩ vì sao?
Vì các đức Phật Thế Tôn xa lìa tất cả bệnh lâu rồi. Này Ca Diếp! Những
chúng sinh chẳng biết lời mật giáo của Ðại Thừa Phương Ðẳng liền cho là
Như Lai có bệnh chân thật.
Này Ca Diếp! Như nói rằng, Như Lai là sư
tử trong loài người mà Như Lai thì thật chẳng phải là sư tử. Lời nói như
vậy tức là lời dạy bí mật của Như Lai. Này Ca Diếp! Như nói rằng, Như Lai
là Ðại Long trong loài người, mà ta đã ở trong vô lượng kiếp đã lìa bỏ
nghiệp này. Này Ca Diếp! Như nói rằng, Như Lai là người, là trời, mà ta
chân thật chẳng phải là người, chẳng phải là trời, cũng chẳng phải là quỉ
thần, càn thát bà, a tu la, ca lâu la, khẩn na la, ma hầu la già, chẳng
phải là Ngã, chẳng phải là mạng, chẳng phải có thể nuôi dưỡng, chẳng phải
sĩ phu người, chẳng phải tác, chẳng phải bất tác, chẳng phải thọ, chẳng
phải chẳng thọ, chẳng phải là Thế Tôn, chẳng phải là Thanh Văn, chẳng phải
nói, chẳng phải chẳng nói... Những lời nói như vậy đều là lời dạy bí mật
của Như Lai.
Này Ca Diếp! Như nói rằng, Như Lai giống
như vua núi Tu Di, biển cả mà Như Lai thì thật chẳng phải vị mặn, đồng với
núi đá. Ông phải biết, lời nói đó cũng là lời dạy bí mật của Như Lai. Này
Ca Diếp! Như nói rằng, Như Lai như hoa Phân Ðà Lợi, mà ta thật chẳng phải
là hoa Phân Ðà Lợi. Lời nói như vậy tức là lời dạy bí mật của Như Lai. Này
Ca Diếp! Như nói rằng, Như Lai giống như cha mẹ, mà Như Lai thì thật chẳng
phải là cha mẹ. Lời nói như vậy cũng là lời dạy bí mật của Như Lai. Này Ca
Diếp! Như nói rằng, Như Lai là Ðại Thuyền Sư (người lái thuyền giỏi) mà
Như Lai thì thật chẳng phải là Thuyền sư. Lời nói như vậy cũng là lời dạy
bí mật của Như Lai. Này Ca Diếp! Như nói rằng, Như Lai giống như thương
chủ (người chủ buôn bán), mà Như Lai thì thật chẳng phải là thương chủ.
Lời nói như vậy cũng là lời dạy bí mật của Như Lai. Này Ca Diếp! Như nói
rằng, Như Lai có thể tiêu diệt, hàng phục ma, mà Như Lai thì thật không có
ác tâm muốn khiến cho người khác phục. Lời nói như vậy đều là lời dạy bí
mật của Như Lai. Này Ca Diếp! Như nói rằng, Như Lai có thể trị ung thư,
ghẻ lớn, mà ta thật chẳng phải là thầy trị ung thư, ghẻ lở. Lời nói như
vậy cũng là lời dạy bí mật của Như Lai. Này Ca Diếp! Như lời nói trước đây
của ta, nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân giỏi có thể sửa trị nghiệp của
thân, miệng, ý thì khi bỏ mạng, tuy có thân tộc thủ lấy thi hài của mình
hoặc dùng lửa đốt, hoặc ném vào nước lớn, hoặc bỏ vào nghĩa địa.... chồn,
sói, cầm thú tranh nhau ăn nuốt, nhưng tâm ý thức liền sinh vào đường
thiện. Tâm pháp đó thật không đi, lại, cũng không chỗ đến, những là trước
sau tương tợ, nối tiếp nhau, hình mạo như nhau chẳng khác. Lời nói như vậy
tức là lời dạy bí mật của Như Lai. Này Ca Diếp! Hôm nay ta nói bệnh cũng
lại như vậy, cũng là lời dạy bí mật của Như Lai. Vậy nên, việc ta bảo với
Văn Thù Sư Lợi, ta nay đau lưng, các ông hãy vì bốn chúng nói pháp, này Ca
Diếp! Như Lai Chánh Giác thật không có bệnh, nghiêng hông phải mà nằm,
cũng chẳng rốt cùng vào Niết Bàn. Này Ca Diếp! Ðại Niết Bàn này tức là
Thiền định thậm thâm của chư Phật. Thiền định như vậy chẳng phải là hành
xử của hàng Thanh Văn, Duyên Giác. Này Ca Diếp! Vấn đề ông hỏi ở trước là,
vì sao đức Như Lai dựa nằm, chẳng dậy, chẳng đòi ăn uống, răn bảo gia
thuộc sửa trị sản nghiệp? Này Ca Diếp! Tính của hư không cũng không ngồi
dậy, tìm đòi ăn uống, dạy bảo gia thuộc sửa trị sản nghiệp, cũng không đi,
lại, sinh-diệt, lão-tráng, hiện ra - mất đi, thương - phá, giải thoát -
trói buộc, cũng chẳng tự nói, cũng chẳng nói người khác, cũng chẳng tự mở,
cũng chẳng mở cho người khác, chẳng phải an, chẳng phải bệnh... Này thiện
nam tử! Các đức Phật Thế Tôn cũng lại như vậy, giống như hư không thì làm
sao sẽ có những bệnh khổ vậy?
Này Ca Diếp! Người đời có ba bệnh khó
trị, một là bài báng Ðại Thừa, hai là tội ngũ nghịch, ba là nhất xiển đề.
Trong đời, ba thứ bệnh như vậy rất nặng mà chẳng phải Thanh Văn, Duyên
Giác có thể trị liệu được. Này thiện nam tử! Ví như có thứ bệnh nhất định
chết không trị được, hoặc có xem bệnh tùy ý cho thuốc trị bệnh, hoặc không
xem bệnh tùy ý cho thuốc trị bệnh như vậy nhất định chẳng thể chữa trị.
Ông phải biết, người đó nhất định chết, chẳng nghi ngờ gì. Này thiện nam
tử! Ba thứ người này cũng lại như vậy, nếu có Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ
tát hoặc thuyết pháp, hoặc chẳng thuyết pháp thì cũng chẳng thể khiến cho
những người ấy phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Này Ca Diếp! Ví
như người bệnh, nếu có xem bệnh theo ý cho thuốc trị bệnh thì có thể khiến
hết bệnh còn nếu không thì người này chẳng thể hết bệnh. Thanh Văn, Duyên
Giác cũng lại như vậy, theo Phật, Bồ tát được nghe pháp rồi liền có thể
phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Nếu họ chẳng nghe pháp thì chẳng
thể phát tâm vậy. Này Ca Diếp! Ví như người bệnh, nếu có xem bệnh theo ý
cho thuốc trị bệnh, hoặc không xem bệnh theo ý cho thuốc trị bệnh đều có
thể hết bệnh. Có một thứ người cũng lại như vậy, hoặc gặp Thanh Văn hay
chẳng gặp Thanh Văn, hoặc gặp Duyên Giác hay chẳng gặp Duyên Giác, hoặc
gặp Bồ tát hay chẳng gặp Bồ tát, hoặc gặp Như Lai hay chẳng gặp Như Lai
hoặc được nghe pháp hay chẳng được nghe pháp mà tự nhiên được thành Vô
Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Ðó là có người hoặc vì tự thân, hoặc vì thân
người khác, hoặc vì bố úy (kinh sợ), hoặc vì lợi dưỡng, hoặc vì dua nịnh,
hoặc vì lừa dối người khác mà ghi chép Kinh Ðại Niết Bàn như vậy rồi thọ
trì, đọc tụng, cúng dường, cung kính vì người khác diễn nói.
Này Ca Diếp! Có năm thứ người có bệnh
hành xử đối với Kinh điển Ðại Thừa Ðại Niết Bàn này mà chẳng phải là Như
Lai. Những ai là năm? Một là người đoạn được ba kết sử chứng quả Tu Ðà
Hoàn, chẳng còn đọa vào địa ngục, súc sinh, ngã quỉ, trở lại cõi người,
trời bảy lần rồi đoạn trừ vĩnh viễn các khổ mà vào với Niết Bàn. Này Ca
Diếp! Ðó gọi là người thứ nhất có bệnh hành xử. Người này đời vị lai qua
tám vạn kiếp sẽ được thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Này Ca Diếp!
Người thứ hai là người đoạn dứt ba kết sử, giảm bớt tham, sân, si, chứng
quả Tư Ðà Hàm, một lần trở lại cõi người, trời rồi đoạn dứt các khổ mà vào
với Niết Bàn. Này Ca Diếp! Ðó gọi là người thứ hai có bệnh hành xử. Người
này vào đời vị lai qua sáu vạn kiếp sẽ được thành Vô Thượng Chánh Ðẳng
Chánh Giác. Người thứ ba là người đoạn dứt năm hạ kết, chứng quả A Na Hàm,
chẳng trở lại cõi này, đoạn trừ vĩnh viễn các khổ, vào với Niết Bàn. Ðó
gọi là người thứ ba có bệnh hành xử. Người này vào đời vị lai, qua bốn vạn
kiếp, sẽ được thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Này Ca Diếp! Người
thứ tư là người đoạn trừ vĩnh viễn tham dục, sân nhuế, ngu si, chứng quả A
La Hán, phiền não không còn, vào với Niết Bàn, cũng chẳng phải là hạnh Kỳ
lân độc nhất. Ðó gọi là người thứ tư có bệnh hành xử. Người này vào đời vị
lai, qua hai vạn kiếp sẽ được thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Này
Ca Diếp! Người thứ năm là người đoạn trừ vĩnh viễn tham dục, sân nhuế, ngu
si, chứng được đạo Bích Chi Phật, phiền não không còn, vào với Niết Bàn,
thật sự là hạnh Kỳ lân độc nhất. Ðó là người thứ năm có bệnh hành xử.
Người này, vào đời vị lai, qua mười ngàn kiếp sẽ được thành Vô Thượng
Chánh Ðẳng Chánh Giác. Này Ca Diếp! Ðó gọi là người thứ năm có bệnh hành
xử, chẳng phải là Như Lai vậy.
KINH ÐẠI BÁT NIẾT BÀN
- Quyển thứ mười hết -
--- o0o ---
Mục Lục
01 |
02 |
03 | 04 |
05 |
06 | 07 |
08 |
09 | 10 |
11 |
12
13 |
14 | 15 |
16 |
17 | 18 |
19 |
20 | 21 |
22 |
23 | 24
25 |
26 | 27 |
28 |
29 | 30 |
31 | 32 |
33 |
34 | 35 |
36
--- o0o ---
|
Thư
Mục Tác Giả |
--- o0o ---
Vi tính: Thọ Huệ
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày:
01-2-2003