KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
- Hán dịch: Căn
cứ bản dịch của Tam Tạng Pháp sư
Đàm Vô Sấm,
Sa môn Tuệ Nghiêm, Tuệ Quán, và Tạ
Linh Vân sửa lại
- Đời Tống
- Việt dịch:
Tuệ Khai cư sĩ -
Phan Rang
Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
---o0o---
Quyển thứ 34
PHẨM THỨ HAI MƯƠI
TƯ: BỒ TÁT CA DIẾP
Phần thứ IV:
-
Bồ
tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng:
- Thưa
đức Thế Tôn! Tất cả chúng sinh đều từ phiền não mà bị quả báo. Nói phiền
não thì tức là gọi cái ác. Việc sinh ra phiền não từ phiền não ác cũng gọi
là ác. Như vậy thì phiền não có hai thứ: Một là nhân, hai là quả. Nhân ác
nên quả ác, quả ác nên chủng tử ác. Như trái cây Nhiệm Bà, hạt của nó đắng
nên hoa, trái, thân, lá... tất cả đều đắng. Giống như cây độc thì hạt của
nó độc nên trái cũng là độc. Nhân cũng chúng sinh, quả cũng chúng sinh,
nhân cũng phiền não, quả cũng phiền não, nhân quả phiền não tức là chúng
sinh, chúng sinh tức là nhân quả phiền não. Nếu từ nghĩa này thì làm sao
đức Như Lai trước đây dụ rằng, núi Tuyết có cỏ độc cũng có vua thuốc vi
diệu ? Nếu nói rằng, phiền não tức là chúng sinh, chúng sinh tức là phiền
não thì làm sao mà nói rằng trong thân chúng sinh có vua thuốc vi diệu ?
Ðức Phật dạy rằng:
- Hay
thay! Hay thay! Này thiện nam tử! Có vô lượng chúng sinh đều đồng với
sự nghi ngờ này! Ông nay có thể vì họ trình bày và thỉnh cầu giảng giải!
Ta cũng có thể cắt đứt sự nghi ngờ ấy! Ông hãy lắng nghe! Lắng nghe!
Hãy suy nghĩ kỹ càng! Ta nay sẽ vì ông phân biệt giải nói! Này thiện nam
tử! Dụ núi Tuyết tức là chúng sinh. Nói cỏ độc thì tức là phiền não. Vua
thuốc vi diệu tức là phạm hạnh thanh tịnh. Này thiện nam tử! Nếu có chúng
sinh có thể tu phạm hạnh thanh tịnh như vậy thì đó gọi là trong thân có
vua thuốc vi diệu.
Ngài Ca Diếp bạch đức Phật rằng:
- Thưa
đức Thế Tôn! Sao gọi là chúng sinh có phạm hạnh thanh tịnh?
- Này
thiện nam tử! Giống như thế gian từ hạt sinh ra trái, và quả này có thứ
có thể cho hạt làm nhân hay có thứ chẳng thể cho. Có thứ có thể cho hạt
làm nhân thì đó gọi là hạt của quả. Nếu trái chẳng thể cho hạt làm nhân
thì chỉ được gọi là quả chẳng được gọi là hạt. Tất cả chúng sinh cũng lại
như vậy, đều có hai thứ: Một là có quả phiền não là nhân của phiền não.
Hai là có quả phiền não chẳng phải nhân của phiền não. Quả phiền não này
chẳng phải nhân của phiền não thì đó gọi là phạm hạnh thanh tịnh.
Này
thiện nam tử! Chúng sinh quan sát thọ biết được nhân gần của tất cả lậu
gọi chung là nội ngoại lậu. Vì thọ nhân duyên nên chẳng thể đoạn tuyệt tất
cả các lậu, cũng chẳng thể ra khỏi ngục tù ba cõi. Chúng sinh nhân thọ mà
chấp trước ngã và ngã sở rồi sinh ra tâm điên đảo, tưởng điên đảo, kiến
điên đảo. Vậy nên chúng sinh trước phải quan sát thọ. Như thọ này vì tất
cả ái mà tạo tác nhân gần. Vậy nên kẻ trí muốn đoạn tuyệt thì phải trước
quan sát thọ. Này thiện nam tử! Sở tác thiện ác của mười hai nhân duyên
của tất cả chúng sinh đều nhân lúc thọ. Vậy nên ta vì A Nan nói rằng:
“Này A Nan! Sở tác thiện ác của tất cả chúng sinh đều là khi thọ”. Vậy
nên kẻ trí trước phải quan sát thọ! Ðã quan sát thọ rồi lại phải quan sát
lại thọ như vậy là do nhân duyên nào sinh ra ? Nếu có nhân duyên sinh ra
thì nhân duyên như vậy lại từ đâu sinh ra ? Nếu không nhân sinh ra thì vì
sao chẳng sinh ra không thọ ? Lại quan sát thọ này chẳng nhân trời Tự Tại
sinh, chẳng nhân sĩ phu sinh, chẳng nhân vi trần sinh, chẳng phải thời
tiết sinh, chẳng nhân tưởng sinh, chẳng nhân tính sinh, chẳng từ tự sinh,
chẳng từ người khác sinh, chẳng phải mình và người khác sinh, chẳng phải
không nhân sinh. Thọ này đều từ duyên hợp mà sinh ra. Nhân duyên
thì tức là ái vậy. Trong sự hòa hợp này chẳng phải có thọ, chẳng phải
không thọ. Vậy nên ta phải cắt đứt sự hòa hợp này. Cắt đứt sự hòa hợp thì
chẳng sinh ra thọ.
Này
thiện nam tử! Người trí đã quan sát nhân rồi thì tiếp đến quan sát quả
báo. Chúng sinh nhân thọ mà thọ địa ngục, ngã quỉ, súc sinh cho đến vô
lượng khổ não của ba cõi. Nhân duyên thọ nên thọ niềm vui vô thường, nhân
duyên thọ nên cắt đứt căn lành, nhân duyên thọ nên chứng được giải thoát.
Khi tác khởi sự quan sát này thì chẳng tạo tác nhân của thọ. Sao gọi là
chẳng tạo tác nhân của thọ ? Nghĩa là phân biệt thọ: những thọ nào có thể
làm nhân của ái ? Những ái nào có thể làm nhân của thọ. Này
thiện nam tử! Chúng sinh nếu có thể quan sát sâu như vậy về nhân của ái
và nhân của thọ thì liền có thể đoạn tuyệt ngã và ngã sở. Này thiện nam tử! Nếu người có thể tác khởi những quan sát như vậy thì nên phân biệt ái
cùng thọ diệt tại chỗ nào ? Rồi liền thấy ái thọ có chỗ diệt ít thì phải
biết cũng nên có rốt ráo diệt. Bấy giờ liền đối với giải thoát sinh ra
tin. Sinh ra lòng tin rồi thì chỗ giải thoát này do đâu mà được ? Biết là
từ Bát chánh đạo thì tức thời liền tu tập. Sao gọi là Bát chánh đạo vậy ?
Ðạo này quan sát thọ có ba thứ tướng: Một là khổ, hai là lạc, ba là chẳng
khổ chẳng lạc. Ba thứ như vậy đều có thể tăng trưởng thân cùng với tâm.
Vì nhân duyên gì có thể tăng trưởng vậy ? Nhân duyên xúc vậy. Xúc này có
ba thứ: Một là vô minh xúc, hai là minh xúc, ba là chẳng phải minh và vô
minh xúc. Nói rằng Minh xúc thì tức là Bát chánh đạo. Hai xúc còn lại ấy
tăng trưởng thân tâm và ba thứ thọ. Vậy nên ta nên đoạn tuyệt nhân duyên
của hai xúc. Xúc đã cắt đứt thì chẳng sinh ra ba thọ. Này thiện nam tử!
Như vậy thọ cũng là nhân, cũng gọi là quả. Người trí phải quan sát là cũng
nhân, cũng quả. Sao gọi là nhân ? Nhân thọ mà sinh ra ái thì gọi đó là
nhân. Sao gọi là quả ? Nhân xúc mà sinh ra nên gọi đó là quả. Vậy nên thọ
này cũng là nhân, cũng là quả. Người trí quán thọ này như vậy rồi, tiếp
đến lại quan sát ái thọ quả báo nên gọi đó là ái. Người trí quan sát ái
lại có hai thứ: Một là tạp thực, hai là vô thực. Tạp thực ái là nhân sinh
ra già, bệnh chết và tất cả các hữu. Vô thực ái là đoạn tuyệt sinh già
bệnh chết và tất cả các hữu, tham đạo vô lậu. Người trí lại phải tác khởi
ý niệm như vầy: “Nếu ta sinh ra Tạp thực ái này thì chẳng thể đoạn tuyệt
sinh già bệnh chết. Ta nay tuy tham đạo vô lậu nhưng chẳng đoạn nhân của
thọ thì chẳng thể được đạo quả vô lậu. Vậy nên cần phải trước đoạn trừ xúc
này. Xúc đã đoạn rồi thì thọ tự diệt. Thọ đã diệt rồi thì ái cũng diệt
theo”. Ðó gọi là Bát Chánh đạo.
Này
thiện nam tử! Nếu có chúng sinh có thể quan sát như vậy thì tuy có thân
độc (hại) nhưng trong thân ấy có vua thuốc vi diệu, như trong núi Tuyết
tuy có cỏ độc nhưng cũng có diệu dược.
Này
thiện nam tử! Như vậy chúng sinh tuy từ phiền não mà được quả báo, nhưng
quả báo này chẳng lại vì phiền não làm nhân. Ðó gọi là phạm hạnh thanh
tịnh.
Lại nữa,
này thiện nam tử! Người trí phải quan sát hai việc thọ, ái do nhân duyên
gì sinh ra ? Biết là nhân tưởng sinh ra. Vì sao vậy ? Vì chúng sinh thấy
sắc cũng chẳng sinh tham và khi quan sát thọ cũng chẳng sinh ra tham. Nếu
ở trong sắc sinh ra điên đảo tưởng, gọi sắc tức là Thường Lạc Ngã Tịnh,
thọ là thường hằng không có biến dịch. Nhân điên đảo tưởng này sinh ra
tham, sân, si. Vậy nên người trí cần phải quan sát tưởng. Quan sát tưởng
như thế nào ? Phải tác khởi ý niệm này: “Tất cả chúng sinh chưa được
chính đạo đều có điên đảo tưởng. Ðiên đảo tưởng là sao ? Là ở trong cái
chẳng phải thường sinh ra thường tưởng, ở trong cái chẳng vui sinh ra lạc
tưởng, ở trong cái chẳng phải tịnh sinh ra tịnh tưởng, ở trong không pháp
sinh ra ngã tưởng, đối với chẳng phải trai gái, lớn nhỏ, ngày đêm, năm
tháng, y phục, phòng xá, ngọa cụ.... sinh ra tư tưởng về nam nữ... cho đến
ngọa cụ. Tưởng này có ba thứ, một là nhỏ, hai là lớn, ba là vô biên. Nhân
duyên nhỏ nên sinh ra tưởng nhỏ, nhân duyên lớn nên sinh ra tưởng lớn, vô
lượng nhân duyên nên sinh ra vô lượng tưởng. Lại có tiểu tưởng gọi là chưa
vào định. Lại có đại tưởng gọi là đã vào định. Lại có vô lượng tưởng gọi
là mười tất cả nhập. Lại có tiểu tưởng là gọi tất cả tưởng của Dục giới.
Lại có đại tưởng là gọi tất cả tưởng của Sắc giới. Lại có vô lượng tưỏng
là gọi tất cả tưởng của Vô sắc giới. Ba tưởng diệt thì thọ tự diệt. Tưởng,
thọ diệt thì gọi là giải thoát.
Bồ tát Ca Diếp bạch rằng:
- Thưa
đức Thế Tôn! Diệt tất cả pháp gọi là giải thoát, đức Như Lai làm sao nói
tưởng, thọ diệt gọi là giải thoát vậy ?
Ðức Phật dạy rằng:
- Này
thiện nam tử! Như Lai, hoặc khi nhân chúng sinh nói mà người nghe hiểu
được pháp, hoặc khi nhân pháp nói với chúng sinh mà người nghe cũng giải
nói cho chúng sinh. Sao gọi là nhân chúng sinh nói mà người nghe hiểu pháp
? Như ta trước vì ông Ca Diếp nói: “Này Ca Diếp! Khi chúng sinh diệt thì
thiện pháp diệt. Ðó gọi là nhân chúng sinh nói, người nghe hiểu pháp. Sao
gọi là nhân pháp nói với chúng sinh mà người nghe cũng giải nói với chúng
sinh ? Như ta trước vì ông A Nan nói rằng: “Ta cũng chẳng nói thân cận
tất cả pháp, cũng lại chẳng nói chẳng thân cận tất cả pháp. Nếu pháp gần
rồi thì thiện pháp suy yếu, bất thiện pháp hưng thịnh. Pháp như vậy thì
chẳng nên thân cận. Nếu pháp gần rồi thì bất thiện suy yếu, thiện pháp
tăng trưởng. Pháp như vậy thì nên thân cận”. Ðó gọi là nhân pháp nói với
chúng sinh mà người nghe cũng giải nói với chúng sinh. Này thiện nam tử!
Như Lai tuy nói tưởng, thọ cả hai diệt thì đã nói thâu tóm tất cả có thể
đoạn trừ. Người trí đã quan sát tưởng như vậy rồi tiếp đến quan sát tưởng
căn. Vô lượng tưởng này nhân đâu mà sinh ra ? Biết là nhân xúc sinh ra.
Xúc này có hai thứ: Một là nhân phiền não xúc, hai là nhân giải thoát
xúc. Nhân vô minh sinh ra gọi là phiền não xúc. Nhân minh sinh ra thì gọi
là giải thoát xúc. Nhân phiền não xúc sinh ra điên đảo tưởng. Nhân giải
thoát xúc sinh ra bất đảo tưởng. Quan sát nhân của tưởng rồi, tiếp đến
quan sát quả báo.
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng:
- Thưa
đức Thế Tôn! Nếu do nhân vào phiền não tưởng này sinh ra điên đảo tưởng
thì tất cả Thánh nhân thật có điên đảo tưởng mà không có phiền não thì
nghĩa này ra sao ?
Ðức Phật dạy rằng:
- Này
thiện nam tử! Làm sao Thánh nhân mà có điên đảo tưởng?
Bồ tát Ca Diếp bạch rằng:
- Thưa
đức Thế Tôn! Tất cả Thánh nhân thì đối với trâu tác khởi ngưu tưởng và
cũng nói là trâu, với ngựa tác khởi mã tưởng và cũng nói là ngựa, trai
gái, lớn nhỏ, nhà cửa, xe cộ, đi lại cũng vậy. Ðó gọi là điên đảo tưởng!
- Này
thiện nam tử! Tất cả phàm phu có hai thứ tưởng: Một là thế lưu bố tưởng,
hai là trước tưởng. Tất cả Thánh nhân chỉ có Thế lưu bố tưởng (cái tưởng
phổ biến ở thế gian) mà không có Trước tưởng (tưởng chấp trước). Tất cả
phàm phu do giác quán ác nên đối với thế lưu bố tưởng sinh ra trước tưởng.
Tất cả Thánh nhân do giác quán thiện nên đối với Thế lưu bố tưởng chẳng
sinh ra Trước tưởng. Vậy nên phàm phu gọi là điên đảo tưởng. Bậc Thánh
nhân tuy biết nhưng chẳng gọi là điên đảo tưởng. Người trí quan sát nhân
của tưởng như vậy rồi tiếp đến quan sát quả báo. Quả báo ác tưởng này thọ
ở tại trong địa ngục, ngã quỉ, súc sinh, người, trời. Như ta nhân cắt đứt
giác quán ác nên vô minh xúc đoạn trừ. Vậy nên tưởng đoạn diệt. Nhân tưởng
đoạn trừ nên quả báo cũng đoạn diệt. Kẻ trí vì đoạn trừ nhân của tưởng như
vậy mà tu Bát Chánh đạo. Này thiện nam tử! Nếu có thể tác khởi sự quan
sát như vậy thì được gọi là Phạm hạnh thanh tịnh. Này thiện nam tử! Trong
thân độc của chúng sinh có vua thuốc vi diệu như trong núi Tuyết tuy có cỏ
độc nhưng cũng có diệu dược.
Lại nữa,
này thiện nam tử! Người trí quan sát dục mà dục thì tức là sắc, thanh,
hương, vị, xúc. Này thiện nam tử! Tức là Như Lai, trong nhân nói quả, từ
năm việc này sinh ra dục chứ thật chẳng phải dục vậy. Này thiện nam tử!
Người ngu si tham cầu thọ dục đó. Ở trong sắc này sinh ra điên đảo
tưởng... cho đến ở trong thức cũng sinh ra điên đảo tưởng. Nhân duyên điên
đảo tưởng liền sinh ra thọ. Vậy nên thế gian nói, nhân điên đảo tưởng sinh
ra mười thứ tưởng. Nhân duyên của dục nên ở tại thế gian thọ quả báo ác,
dùng ác thêm với cha mẹ, sa môn, bà la môn.v.v... Việc chẳng nên làm mà
làm chẳng tiếc thân mạng. Vậy nên kẻ trí quan sát nhân duyên ác tưởng này
nên sinh ra dục tâm. Kẻ trí quan sát nhân của dục như vậy rồi tiếp đến
quan sát quả báo. Dục này có nhiều những quả báo ác như là địa ngục, ngã
quỉ, súc sinh, trong loài người, trên cõi trời. Ðó gọi là quan sát quả
báo. Nếu tưởng ác đó được trừ diệt thì nhất định chẳng sinh ra lòng dục
này. Không lòng dục nên chẳng thọ ác thọ. Không ác thọ thì không ác quả.
Vậy nên ta nên trước đoạn trừ ác tưởng. Ðoạn ác tưởng rồi thì những pháp
như vậy tự nhiên mà diệt. Vậy nên kẻ trí vì diệt ác tưởng nên tu Bát Chánh
đạo. Ðó gọi là Phạm hạnh thanh tịnh. Ðó gọi là trong thân tộc của chúng
sinh có vua diệu dược như trong núi Tuyết tuy có cỏ độc nhưng cũng có diệu
dược.
Lại nữa,
này thiện nam tử! Kẻ trí quan sát dục đó như vậy rồi tiếp đến phải quan
sát nghiệp. Vì sao vậy ? Vì người có trí phải tác khởi ý niệm này: “Thọ,
tưởng, xúc, dục tức là phiền não mà phiền não này có thể tạo tác sinh
nghiệp, chẳng tạo tác thọ nghiệp. Như vậy phiền não cùng với nghiệp chung
hành động thì có hai thứ: Một là tạo tác sinh nghiệp, hai là tạo tác thọ
nghiệp. Vậy nên kẻ trí phải quan sát đến nghiệp. Nghiệp này có ba thứ là
thân, miệng, ý. Này thiện nam tử! Thân, miệng hai nghiệp cũng gọi là
nghiệp cũng gọi là nghiệp quả, còn ý chỉ gọi là nghiệp, chẳng gọi là
nghiệp quả. Vì nhân của nghiệp nên gọi là nghiệp. Này thiện nam tử! Hai
nghiệp thân và miệng gọi là ngoại nghiệp (nghiệp bên ngoài). Ý nghiệp gọi
là nội nghiệp. Ba thứ nghiệp này chung với phiền não hành động nên tạo ra
hai thứ nghiệp: Một là sinh nghiệp, hai là thọ nghiệp. Này thiện nam tử!
Chính nghiệp tức là ý nghiệp. Kỳ nghiệp (nghiệp có kỳ hẹn) là gọi nghiệp
thân và miệng. Phát ra trước nên gọi là ý nghiệp. Từ ý nghiệp sinh ra gọi
là nghiệp thân và miệng. Vậy nên ý nghiệp được gọi là chính. Kẻ trí quan
sát nghiệp rồi tiếp đến quan sát nhân của nghiệp. Nhân của nghiệp thì tức
là vô minh xúc. Nhân vô minh xúc chúng sinh cầu có mà nhân duyên của cầu
có tức là ái vậy. Ái nhân duyên nên tạo tác ba thứ nghiệp thân, miệng, ý.
Này thiện nam tử! Kẻ trí quan sát nhân của nghiệp như vậy rồi, tiếp đến
quan sát quả báo. Quả báo có bốn thứ: Một là đen thì quả báo đen, hai là
trắng thì quả báo trắng, ba là tạp thì quả báo tạp, bốn là chẳng đen chẳng
trắng thì quả báo chẳng đen chẳng trắng. Ðen quả báo đen là khi tạo tác
nghiệp cấu bẩn thì quả báo cũng cấu bẩn. Trắng quả báo trắng là khi tạo
tác nghiệp sạch thì quả báo cũng sạch. Tạp quả báo tạp là khi tạo tác
nghiệp tạp thì quả báo cũng tạp. Chẳng trắng chẳng đen quả báo cũng chẳng
trắng chẳng đen là gọi nghiệp vô lậu.
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng:
- Thưa
đức Thế Tôn! Trước nói vô lậu không có quả báo, nay sao nói rằng có quả
báo chẳng trắng chẳng đen vậy ?
Ðức Phật dạy rằng:
- Này
thiện nam tử! Nghĩa này có hai: Một là cũng quả cũng báo, hai là chỉ là
quả chẳng phải là báo. Ðen thì quả báo đen cũng gọi là quả, cũng gọi là
báo. Nhân của đen sinh ra nên được gọi là quả mà quả này có thể làm nhân
nên lại gọi là báo. Tịnh, tạp cũng vậy. Quả vô lậu là nhân hữu lậu sinh ra
nên gọi là quả mà chẳng làm nhân cho cái khác nên chẳng gọi là báo. Vậy
nên gọi là quả mà chẳng gọi là báo.
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng:
- Thưa
đức Thế Tôn! Nghiệp vô lậu này chẳng phải là hắc pháp thì vì nhân duyên
gì chẳng gọi là bạch (trắng).
- Này
thiện nam tử! Không có báo nên chẳng gọi là bạch. Ðối trị với hắc nên gọi
là bạch. Ta nay nếu nói thọ quả báo thì gọi hắc là đối với bạch. Nghiệp vô
lậu này chẳng thọ báo nên chẳng gọi là bạch mà gọi là Tịch tịnh. Như vậy
nghiệp là có quyết định chỗ thọ báo. Như mười ác pháp quyết định tại địa
ngục, ngã quỉ, súc sinh; nghiệp mười thiện thì quyết định tại người và
trời. Mười pháp bất thiện có thượng, trung, hạ. Nhân duyên thượng nên thọ
thân địa ngục. Nhân duyên trung nên thọ thân súc sinh. Nhân duyên hạ nên
thọ thân ngã quỉ. Nghiệp con người về mười thiện lại có bốn thứ: Một là
hạ, hai là trung, ba là thượng, bốn là thượng thượng. Nhân duyên hạ nên
sinh ra ở Uất Ðan Việt. Nhân duyên trung nên sinh ra ở Phất Bà Ðề. Nhân
duyên thượng nên sinh ra ở Cù Ðà Ni. Nhân duyên thượng thượng nên sinh ra
ở Diêm Phù Ðề. Người có trí tác khởi sự quan sát này rồi liền khởi ý niệm
này: “Ta phải làm sao đoạn trừ quả báo này!” Lại tác khởi ý niệm này:
“Nghiệp đó nhân duyên vô minh xúc sinh ra, ta nếu đoạn trừ vô minh cùng
xúc thì như vậy nghiệp quả diệt, chẳng sinh ra!” Vậy nên kẻ trí vì đoạn
trừ nhân duyên vô minh, xúc nên tu Bát Chánh đạo. Ðó thì gọi là Phạm hạnh
thanh tịnh. Này thiện nam tử! Ðó gọi là trong thân độc của chúng sinh có
vua diệu dược như trong núi Tuyết tuy có cỏ độc nhưng cũng có diệu dược.
Lại nữa,
này thiện nam tử! Người trí quan sát nghiệp, quan sát phiền não rồi, tiếp
đến quan sát hai quả báo sở đắc này. Hai quả báo này tức là khổ. Ðã biết
là khổ thì có thể lìa bỏ tất cả thọ sinh. Người trí lại quan sát nhân
duyên phiền não sinh ra phiền não, nhân duyên nghiệp cũng sinh ra phiền
não, nhân duyên phiền não lại sinh ra nghiệp, nhân duyên nghiệp sinh ra
khổ, nhân duyên khổ nên sinh ra phiền não, nhân duyên phiền não sinh ra
hữu (có), nhân duyên hữu sinh ra khổ, nhân duyên hữu sinh ra hữu, nhân
duyên hữu sinh ra nghiệp, nhân duyên nghiệp sinh ra phiền não, nhân duyên
phiền não sinh ra khổ, nhân duyên khổ sinh ra khổ. Này thiện nam tử! Kẻ
trí nếu có thể tác khởi sự quan sát như vậy thì phải biết người đó có thể
quan sát nghiệp khổ. Vì sao vậy ? Vì sự quan sát như trên tức là sinh tử
mười hai nhân duyên. Nếu người có thể quan sát sinh tử mười hai nhân duyên
như vậy thì phải biết người đó chẳng tạo ra nghiệp mới, có thể phá hoại
nghiệp cũ. Này thiện nam tử! Người có trí quan sát khổ của địa ngục. Quan
sát từ một địa ngục cho đến một trăm ba mươi sáu chỗ. Mỗi một địa ngục có
đủ thứ khổ mà đều là nhân duyên nghiệp phiền não sinh ra. Quan sát địa
ngục rồi, tiếp đến quan sát khổ của ngã quỉ và súc sinh.v.v... Tác khởi sự
quan sát này rồi, lại quan sát những khổ sở hữu của người và trời. Như vậy
mọi thứ khổ đều từ nhân duyên nghiệp phiền não sinh ra. Này thiện nam tử!
Trên trời tuy không có việc khổ não lớn nhưng thân thể mềm mại mịn màng
ấy, khi thấy năm tướng suy xuất hiện thì chịu đựng khổ lớn như khổ địa
ngục, không sai khác. Này thiện nam tử! Kẻ trí quan sát sâu những khổ của
ba cõi đều từ nhân duyên nghiệp phiền não sinh ra. Này thiện nam tử! Ví
như đồ vật bằng đất thô tức là dễ phá vỡ. Chúng sinh thọ thân cũng lại như
vậy. Ðã thọ thân rồi tức là đồ chứa mọi khổ, ví như cây lớn hoa trái sum
suê mà mọi loài chim có thể phá hoại, như cỏ khô lâu ngày thì chút lửa nhỏ
có thể đốt cháy. Chúng sinh thọ thân bị sự phá hoại của khổ cũng lại như
vậy. Này thiện nam tử! Kẻ trí nếu có thể quan sát khổ tám thứ như trong
hạnh Thánh thì phải biết người đó có thể đoạn trừ mọi khổ.
Này
thiện nam tử! Kẻ trí quan sát sâu tám khổ này, rồi tiếp đến quan sát nhân
của khổ. Nhân của khổ tức là ái vô minh. Ái vô minh này thì có hai thứ:
Một là cầu thân mạng, hai là cầu của cải. Cầu thân, cầu tài cả hai đều là
khổ. Vậy nên phải biết ái vô minh, tức là nhân của khổ.
Này
thiện nam tử! Ái vô minh này thì có hai thứ: Một là nội, hai là ngoại.
Nội thì có thể tạo tác nghiệp, ngoại thì có thể làm tăng trưởng. Lại nữa,
nội có thể tạo tác nghiệp, ngoại có thể tạo tác quả của nghiệp. Ðoạn nội
ái rồi thì nghiệp được đoạn, đoạn ngoại ái rồi thì quả được đoạn. Nội ái
có thể sinh ra khổ của đời vị lai. Ngoại ái có thể sinh ra khổ đời hiện
tại. Kẻ trí quan sát ái tức là nhân của khổ. Ðã quan sát nhân của khổ rồi,
tiếp đến quan sát quả báo của khổ. Quả báo của khổ tức là thủ, quả báo của
ái gọi là thủ. Nhân duyên thủ này là nội ngoại ái mà ái thì có ái khổ.
Này
thiện nam tử! Kẻ trí phải quan sát ái nhân duyên thủ, thủ nhân duyên ái.
Nếu ta có thể cắt đứt hai việc ái và thủ thì chẳng tạo nghiệp mà thọ mọi
sự khổ. Vậy nên kẻ trí vì đoạn thọ khổ nên tu Bát Chánh đạo. Này thiện nam
tử! Nếu có người có thể quan sát như vậy thì đó gọi là Phạm hạnh thanh
tịnh. Ðó gọi là trong thân độc của chúng sinh có vua thuốc vi diệu như
trong núi Tuyết tuy có cỏ độc nhưng cũng có diệu dược.
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng:
- Thưa
đức Thế Tôn! Sao gọi là Phạm hạnh thanh tịnh ?
Ðức Phật dạy rằng:
- Này
thiện nam tử! Tất cả pháp đó!
Bồ tát Ca Diếp bạch rằng:
- Thưa
đức Thế Tôn! Tất cả pháp thì nghĩa chẳng quyết định. Vì sao vậy ? Vì đức
Như Lai, hoặc nói là thiện hay chẳng thiện, hoặc khi nói là bốn niệm xứ
quán, hoặc nói là mười hai nhập, hoặc nói là thiện tri thức, hoặc nói là
mười hai nhân duyên, hoặc nói là chúng sinh, hoặc nói là chính kiến hay tà
kiến, hoặc nói là mười hai bộ kinh, hoặc nói là nhị đế... hôm nay đức Như
Lai mới nói tất cả pháp là Phạm hạnh thanh tịnh thì cái gì đều là tất cả
pháp vậy ?
Ðức Phật dạy rằng:
- Hay
thay! Hay thay! Này thiện nam tử! Như vậy Kinh Ðại Niết Bàn vi diệu mới
chính là Bảo tàng của tất cả thiện pháp. Ví như biển lớn chính kho tàng
của mọi báu, kinh Niết Bàn này cũng lại như vậy, tức là kho tàng bí mật
của tất cả chữ nghĩa.
Này
thiện nam tử! Như núi Tu Di là căn bản của mọi thứ thuốc, kinh Niết Bàn
này cũng vậy, tức là căn bản của giới (cấm) Bồ tát. Này thiện nam tử! Ví
như hư không là chỗ trụ xứ của tất cả vật, kinh này cũng vậy, tức là trụ
xứ của tất cả thiện pháp. Này thiện nam tử! Ví như gió mạnh không thể
trói buộc mà hạnh của tất cả Bồ tát chính là Kinh thì cũng lại như vậy,
chẳng bị sự trói buộc của tất cả pháp ác phiền não .Này thiện nam tử! Ví
như Kim Cương không thể phá vỡ, Kinh này cũngvậy, tuy có người tà ác ngoại
đạo nhưng chẳng thể phá hoại. Này thiện nam tử! Như cát của sông Hằng
không thể tính thì nghĩa của Kinh này cũng lại như vậy, không thể tính.
Này
thiện nam tử! Kinh điển này vì các Bồ tát mà làm pháp tràng như Ðế Thích
tràng.
Này
thiện nam tử! Kinh này tức là thương chủ đi đến thành Niết Bàn như vị
thầy dẫn đường lớn dẫn các thương nhân đi về biển cả.
Này
thiện nam tử! Kinh này có thể vì các Bồ tát.v.v... làm ánh sáng pháp như
mặt trời mặt trăng của thế gian có thể phá các tối tăm.
Này
thiện nam tử! Kinh này có thể vì chúng sinh bệnh khổ làm đại lương dược
như vua thuốc vi diệu trong núi Hương có thể trị mọi bệnh.
Này
thiện nam tử! Kinh này có thể là cây gậy của nhất xiển đề giống như người
yếu nhờ gậy được đứng lên.
Này
thiện nam tử! Kinh này có thể vì tất cả người ác mà làm cây cầu giống như
cây cầu của đời có thể đi qua tất cả.
Này
thiện nam tử! Kinh này có thể vì người đi trong ba cõi gặp phiền não
nhiệt mà làm sự che mát như cái dù của thế gian ngăn che sức nóng của mặt
trời.
Này
thiện nam tử! Kinh này tức là vua đạo vô úy có thể hủy hoại của tất cả ma
ác phiền não, như vua sư tử hàng phục mọi loài thú.
Này
thiện nam tử! Kinh này tức là thầy đại thần chú có thể hoại tất cả ma quỉ
phiền não như thầy thần chú của đời có thể trừ khử yêu quái. Này thiện
nam tử! Kinh này tức là mưa đá vô thường có thể hoại tất cả quả báo sinh
tử như mưa đá của đời phá hoại cây trái.
Này
thiện nam tử! Kinh này có thể vì người hư con mắt giới (cấm) làm đại
lương dược giống như thuốc An xà đà của thế gian trị lành bệnh đau mắt.
Này
thiện nam tử! Kinh này có thể trụ tất cả thiện pháp như đất thế gian có
thể trụ mọi vật.
Này
thiện nam tử! Kinh này tức là gương sáng của chúng sinh hủy giới như
gương soi của thế gian nhìn thấy các sắc tượng.
Này
thiện nam tử! Kinh này có thể vì người không tàm quí mà làm y phục như áo
quần của đời che đậy hình thể.
Này
thiện nam tử! Kinh này có thể vì người nghèo thiện pháp làm của báu lớn
như vị trời Công Ðức Lợi cho người nghèo.
Này
thiện nam tử! Kinh này có thể vì chúng sinh khao khát pháp làm nước uống
cam lồ như nước tám vị làm sung túc người khát.
Này
thiện nam tử! Kinh này có thể vì người phiền não mà làm giường pháp, như
người đời gặp được giường yên ổn.
Này
thiện nam tử! Kinh này có thể vì Bồ tát sơ địa đến Bồ tát thập địa mà làm
chuỗi ngọc, hương hoa, hương bột, hương đốt... chiếc xe đầy đủ chủng tính
thanh tịnh hơn tất cả chỗ thọ diệu lạc của sáu Ba la mật như cây cây Ba
Lợi Chất Ða của trời Ðao Lợi.
Này
thiện nam tử! Kinh này tức là búa bén Kim Cương có thể chặt tất cả cây
lớn phiền não, tức là dao bén có thể cắt đứt tập khí, tức là sức mạnh có
thể tiêu diệt ma oán, tức là lửa trí đốt cháy củi phiền não, tức là kho
nhân duyên tạo ra Phật Bích Chi, tức là Thanh Văn tạng sinh ra người Thanh
Văn, tức là mắt của tất cả chư thiên, tức là chính đạo của tất cả mọi
người, tức là chỗ nương cậy của tất cả loài súc sinh, tức là chỗ giải
thoát của loài ngã quỉ, tức là đấng Vô Thượng Tôn của địa ngục, tức là vô
thượng khí của tất cả chúng sinh trong mười phương, tức là cha mẹ của các
đức Phật quá khứ, vị lai, hiện tại trong mười phương vậy.
Này
thiện nam tử! Vậy nên kinh này nhiếp lấy tất cả pháp. Như lời ta trước đã
nói, Kinh này tuy nhiếp lấy tất cả các pháp, nhưng ta nói, Phạm hạnh tức
là ba mươi bảy pháp trợ đạo.
Này
thiện nam tử! Như vậy nếu lìa ba mươi bảy phẩm thì nhất định chẳng thể
được chính quả Thanh Văn... cho đến quả Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác,
chẳng thấy Phật tính và quả của Phật tính. Do nhân duyên này nên Phạm hạnh
tức là ba mươi bảy phẩm. Vì sao vậy ? Vì tính của ba mươi bảy phẩm chẳng
phải điên đảo mà có thể hủy hoại điên đảo. Tính ấy chẳng phải ác kiến mà
có thể hủy hoại ác kiến. Tính ấy chẳng phải bố úy mà có thể hủy hoại bố
úy. Tính ấy chính là tịnh hạnh có thể khiến cho chúng sinh rốt ráo tạo tác
Phạm hạnh thanh tịnh.
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng:
- Thưa
đức Thế Tôn! Pháp hữu lậu cũng lại có thể làm nhân của pháp vô lậu thì
đức Như Lai vì sao chẳng nói hữu lậu là Phạm hạnh thanh tịnh. Này thiện
nam tử! Tất cả hữu lậu tức là điên đảo. Vậy nên hữu lậu chẳng được gọi là
Phạm hạnh thanh tịnh.
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng:
- Thưa
đức Thế Tôn! Ðệ nhất pháp thế gian chính là hữu lậu hay là vô lậu vậy ?
Ðức Phật dạy rằng:
- Này
thiện nam tử! Chính là hữu lậu vậy!
- Thưa
đức Thế Tôn! Tuy là hữu lậu nhưng tính chẳng phải điên đảo mà vì sao
chẳng gọi là Phạm hạnh thanh tịnh ?
- Này
thiện nam tử! Ðệ nhất pháp thế gian là nhân của vô lậu nên tựa như vô
lậu, hướng về vô lậu nên chẳng gọi là điên đảo. Này thiện nam tử! Phạm
hạnh thanh tịnh phát tâm nối tiếp nhau cho đến rốt ráo còn Ðệ nhất pháp
của thế gian chỉ là một niệm. Vậy nên chẳng được gọi là Phạm hạnh thanh
tịnh.
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng:
- Thưa
đức Thế Tôn! Năm thức của chúng sinh cũng là hữu lậu, chẳng phải là điên
đảo, lại chẳng phải một niệm thì vì sao chẳng gọi là Phạm hạnh thanh tịnh
?
- Này
thiện nam tử! Năm thức của chúng sinh tuy chẳng phải là một niệm nhưng là
hữu lậu, lại là điên đảo, làm tăng thêm các lậu nên gọi là hữu lậu. Thể
của nó chẳng phải chân thật, chấp trước tưởng nên điên đảo. Thế nào gọi là
thể chẳng phải chân thật, chấp trước nên sanh điên đảo. Trong chẳng phải
nam nữ sinh ra nam nữ tưởng... cho đến nhà cửa, xe cộ, cái bình, quần áo
cũng lại như vậy. Ðó gọi là điên đảo. Này thiện nam tử! Tính của ba mươi
bảy phẩm không điên đảo. Vậy nên được gọi là Phạm hạnh thanh tịnh. Này
thiện nam tử! Nếu có Bồ tát đối với ba mươi bảy phẩm mà biết căn, biết
nhân, biết nhiếp lấy, biết tăng thêm, biết chủ, biết đạo (dẫn đường), biết
thắng, biết thật, biết rốt ráo thì như vậy Bồ tát được gọi là Phạm hạnh
thanh tịnh.
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng:
- Thưa
đức Thế Tôn! Sao gọi là biết căn... cho đến biết rốt ráo ?
Ðức Phật dạy rằng:
- Này
thiện nam tử! Hay thay! Hay thay! Bồ tát phát vấn vì hai việc: Một là
vì sự hiểu biết của mình, hai là vì sự hiểu biết của người khác. Ông nay
đã biết rồi, chỉ vì vô lượng chúng sinh chưa hiểu biết mà thỉnh ta bày tỏ
việc này. Vậy nên ta nay một lần nữa khen ngợi ông! Hay thay! Hay thay!
Này thiện nam tử! Căn bản của ba mươi bảy phẩm chính là Dục mà nhân gọi
là minh xúc, nhiếp lấy gọi là thọ, tăng thêm gọi là thiện tư, chủ gọi là
niệm, đạo gọi là định, thắng gọi là trí tuệ, thật gọi là giải thoát, rốt
ráo gọi là Ðại Bát Niết Bàn. Này thiện nam tử! Thiện dục tức là bắt đầu
phát tâm đạo cho đến căn bản của Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Vậy nên
ta nói dục là căn bản.
Này
thiện nam tử! Như thế gian nói, tất cả khổ não thì ái là căn bản, tất cả
bệnh tật thì ăn chính là căn bản, tất cả đoán sự thì đấu tranh là gốc, tất
cả việc ác thì hư vọng là gốc.
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng:
- Thưa
đức Thế Tôn! Ðức Như Lai trước ở trong kinh này đã nói rằng, tất cả thiện
pháp thì chẳng phóng dật là gốc, đến nay mới nói tới Dục là nghĩa làm sao
?
Ðức Phật dạy rằng:
- Này
thiện nam tử! Nếu nói “sinh nhân” thì tức là thiện dục đó! Nếu nói “Liễu
nhân” thì tức là chẳng phóng dật đó! Như thế gian nói tất cả quả thì hạt
là nhân của quả ấy. Hoặc lại có nói hạt là sinh nhân, đất là liễu nhân.
Nghĩa này cũng vậy.
Bồ tát Ca Diếp bạch rằng:
- Thưa
đức Thế Tôn! Ðức Như Lai, trước ở trong kinh khác nói ba mươi bảy phẩm
thì Phật là căn bản là nghĩa làm sao ?
- Này
thiện nam tử! Như Lai trước nói chúng sinh bắt đầu biết ba mươi bảy phẩm
thì Phật chính là căn bản. Nếu tự chứng được thì dục là căn bản!
- Thưa
đức Thế Tôn! Sao minh xúc gọi dục là nhân ?
- Này
thiện nam tử! Như Lai hoặc khi nói minh là tuệ hoặc nói là tín. Này thiện
nam tử! Nhân duyên tín nên gần gũi bạn lành thì đó gọi là xúc. Nhân duyên
gần gũi được nghe chính pháp thì đó gọi là xúc. Nhân nghe chính pháp mà
thân miệng ý thanh tịnh thì đó gọi là xúc. Nhân ba nghiệp thanh tịnh nên
thu hoạch được chánh mạng thì đó gọi là xúc. Nhân chánh mạng nên được căn
giới thanh tịnh. Nhân tịnh căn giới nên ưa chỗ tịch tịnh. Nhân ưa tịch
tịnh nên có thể thiện tư duy. Nhân thiện tư duy nên được đúng như pháp
trụ. Nhân đúng như pháp trụ nên được ba mươi bảy phẩm, có thể hoại phá vô
lượng những phiền não ác. Ðó gọi là xúc. Này thiện nam tử! Thọ gọi là
nhiếp lấy. Khi chúng sinh thọ thì có thể tạo tác thiện hay ác. Vậy nên gọi
thọ là nhiếp lấy vậy. Này thiện nam tử! Nhân duyên thọ nên sinh ra các
phiền não mà ba mươi bảy phẩm có thể phá hoại. Vậy nên gọi thọ là nhiếp
lấy. Nhân thiện tư duy có thể phá phiền não. Vậy nên gọi là tăng thêm. Vì
sao vậy ? Vì siêng tu tập nên được ba mươi bảy phẩm như vậy.v.v... Nếu
quán có thể phá các phiền não ác thì cần nhờ vào chuyên niệm. Vậy nên lấy
niệm làm chủ. Như trong thế gian, tất cả bốn binh chủng đều theo ý của chủ
tướng. Ba mươi bảy phẩm cũng lại như vậy, đều theo niệm chủ.
Này
thiện nam tử! Ðã vào định rồi, ba mươi bảy phẩm có thể giỏi phân biệt tất
cả pháp tướng. Vậy nên lấy định làm dẫn đường. Ba mươi bảy phẩm này phân
biệt pháp tướng thì trí là tối thắng. Vậy nên lấy tuệ làm thắng. Như vậy
trí tuệ biết phiền não rồi thì nhờ lực trí tuệ nên phiền não tiêu diệt.
Như trong thế gian, bốn binh phá hoại oán tặc, hoặc một, hoặc hai người
dũng kiện có thể phá. Ba mươi bảy phẩm cũng lại như vậy, lực trí tuệ có
thể phá hoại phiền não. Vậy nên dùng tuệ làm thắng.
Này
thiện nam tử! Tuy nhân tu tập ba mươi bảy phẩm chứng được tứ thiền thần
thông an lạc nhưng cũng chẳng gọi là Thật. Nếu khi phá hoại phiền não
chứng được giải thoát thì mới gọi là Thật. Nhân ba mươi bảy phẩm này phát
tâm tu đạo tuy dược thế lạc và xuất thế lạc, bốn quả Sa môn và cả Giải
thoát nhưng cũng chẳng được gọi là rốt ráo. Nếu có thể đoạn trừ việc sở
hành của ba mươi bảy phẩm thì đó gọi là Niết Bàn. Vậy nên ta nói rằng rốt
ráo thì tức là Ðại Niết Bàn.
Lại nữa,
này thiện nam tử! Lòng ái niệm thiện tức là dục vậy. Nhân ái niệm thiện
mà gần gũi bạn lành nên gọi là xúc. Ðó gọi là nhân. Nhân gần gũi bạn lành
nên gọi là thọ. Ðó gọi là nhiếp lấy. Nhân gần gũi bạn lành có thể thiện tư
duy nên gọi là tăng thêm. Nhân bốn pháp này có thể sinh trưởng đạo như là
dục, niệm, định trí. Ðó tức gọi là chủ, đạo, thắng vậy. Nhân ba pháp này
được hai giải thoát, đoạn trừ ái nên được tâm giải thoát, cắt đứt vô minh
nên được tuệ giải thoát. Ðó gọi là thật. Như vậy tám pháp rốt ráo được quả
gọi là Niết Bàn nên gọi là rốt ráo.
Lại nữa,
này thiện nam tử! Dục tức là phát tâm xuất gia, Xúc tức là bạch bốn yết
ma. Ðó gọi là nhân. Nhiếp tức là thọ hai thứ giới: Một là Ba la đề mộc
xoa giới, hai là tịnh căn giới. Ðó gọi là thọ. Ðó gọi là nhiếp lấy. Tăng
thêm tức là tu tập bốn thiền, chủ tức là quả Tu đà hoàn, quả Tư đà hàm,
đạo tức là quả A na hàm, thắng tức là quả A la hán, thật tức là quả Bích
Chi Phật, rốt ráo tức là quả Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.
Lại nữa,
này thiện nam tử! Dục gọi là thức, xúc gọi là lục nhập, nhiếp gọi là thọ,
tăng thêm gọi là vô minh, chủ gọi là danh sắc, đạo gọi là ái, thắng gọi
là thủ, thật gọi là hữu, rốt ráo gọi là sinh già bệnh chết.
Bồ tát Ca Diếp bạch rằng:
- Thưa
đức Thế Tôn! Căn bản nhân, tăng thêm ba pháp như vậy làm sao có khác ?
Này thiện nam tử! Cái gọi là căn tức là mới phát, nhân tức là tương tợ
chẳng đoạn, tăng thêm tức là diệt tướng tợ rồi có thể sinh ra tương tợ.
Lại nữa,
này thiện nam tử! Căn tức là tác, nhân tức là quả, tăng thêm tức là có
thể dùng. Này thiện nam tử! Ðời vị lai tuy có quả báo nhưng do chưa thọ
nên gọi là nhân và khi thọ quả ấy thì đó gọi là tăng thêm.
Lại nữa,
này thiện nam tử! Căn tức là cầu, được tức là nhân, dùng tức là tăng
thêm. Này thiện nam tử! Trong Kinh này thì căn tức là thấy đạo, nhân tức
là tu đạo, tăng thêm tức là đạo vô học.
Lại nữa,
này thiện nam tử! Căn tức là chánh nhân, nhân tức là phương tiện nhân. Từ
hai nhân này thu hoạch được quả báo gọi là tăng trưởng.
Bồ tát Ca Diếp bạch rằng:
- Thưa
đức Thế Tôn! Như lời đức Phật nói, rốt ráo tức là Niết Bàn. Như vậy Niết
Bàn làm sao có thể được ?
- Này
thiện nam tử! Nếu Ðại Bồ tát, Tỳkheo, Tỳkheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di có
thể tu mười tưởng thì phải biết người đó có thể được Niết Bàn. Những gì là
mười tưởng ? Một là vô thường tưởng. Hai là khổ tưởng. Ba là vô ngã
tưởng.Bốn là yểm ly thực tưởng. Năm là tưởng tất cả thế gian chẳng thể
vui. Sáu là tử (chết) tưởng. Bảy là tưởng nhiều tội lỗi. Tám là ly (lìa)
tưởng. Chín là diệt tưởng. Mười là vô ái tưởng. Này thiện nam tử! Ðại Bồ
tát, Tỳkheo, Tỳkheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di tu tập mười thứ tưởng như vậy
thì người đó rốt ráo quyết định được Niết Bàn, chẳng theo lòng người khác
mà tự có thể phân biệt thiện hay bất thiện.v.v... Ðó gọi là chân thật xứng
với nghĩa của Tỳkheo... cho đến được xứng với nghĩa của Ưu bà di.
Bồ tát Ca Diếp bạch rằng:
- Thưa
đức Thế Tôn! Sao gọi là Bồ tát ... cho đến Ưu bà di.v.v... tu vô thường
tưởng ?
Này
thiện nam tử! Bồ tát có hai thứ: Một là mới phát tâm, hai là đã hành
đạo. Vô thưởng tưởng cũng lại có hai thứ: Một là thô, hai là tế (nhỏ). Bồ
tát mới phát tâm khi quan sát được vô thường tưởng tác khởi suy nghĩ này:
“Vật của thế gian có hai thứ, một là nội, hai là ngoại. Như vậy nội vật vô
thường biến dị. Ta thấy lúc sinh, lúc nhỏ, lúc lớn, lúc trai trẻ, lúc già
lão, lúc chết... những thời tiết này mỗi mỗi đều chẳng đồng. Vậy nên phải
biết nội vật vô thường”. Bồ tát lại khởi ý niệm này: “Ta thấy chúng sinh,
hoặc có người béo tốt, đầy đủ sắc lực, đi lại tiến dừng tự tại không trở
ngại. Hoặc thấy bệnh khổ, sắc lực tiều tụy, nhan mạo hao tổn, chẳng được
tự tại. Hoặc thấy của cải giàu có, kho tàng đầy ắp. Hoặc thấy nghèo cùng,
đụng việc thì thiếu thốn. Hoặc thấy thành tựu vô lượng công đức. Hoặc thấy
đầy đủ vô lượng pháp ác.... Vậy nên quyết định biết nội pháp vô thường”.
Bồ tát lại quan sát ngoại pháp: Khi hạt, khi mầm, khi thân, khi lá, khi
hoa, khi quả... như vậy những thời tiết mỗi mỗi đều chẳng đồng. Như vậy
ngoại pháp hoặc có đầy đủ, hoặc chẳng đầy đủ. Vậy nên phải biết tất cả
ngoại vật quyết định là vô thường. Ðã quan sát thấy pháp là vô thường rồi
thì lại quan sát pháp nghe: Ta nghe chư thiên thành tựu đầy đủ khoái lạc
cực diệu, thần thông tự tại mà cũng có năm tướng. Vậy nên phải biết tức là
vô thường. Lại nghe kiếp ban đầu có các chúng sinh, mỗi mỗi đều đầy đủ
công đức thượng diệu, ánh sáng thân tự chiếu soi chẳng nhờ mặt trời, mặt
trăng. Nhưng do lúc vô thường nên ánh sáng diệt, đức tổn. Lại nghe: Ngày
xưa có vị Chuyển Luân Thánh Vương thống lĩnh bốn thiên hạ, thành tựu bảy
báu, được đại tự tại nhưng mà chẳng thể phá hoại tướng vô thường. Bồ tát
lại quan sát đại địa: Thuở xưa, là chỗ yên, bố trí vô lượng chúng sinh,
vùng không chỗ trống như vừng bánh xe, sinh trưởng đầy đủ tất cả diệu
dược, rừng rậm, cây cối hoa trái sum suê. Nhưng chúng sinh bạc phước khiến
cho đại địa này không còn thế lực, vật sở sinh trở nên hư hao. Vậy nên
phải biết pháp trong ngoài, tất cả vô thường. Ðó thì gọi là thô vô thường
vậy. Ðã quan sát thô rồi thì Bồ tát tiếp đến quan sát tế. Sao gọi tế ?
Ðại Bồ tát quan sát tất cả vật nội ngoại cho đến vi trần ở tại thời vị lai
đã là vô thường. Vì sao vậy ? Vì thành tựu đầy đủ tướng phá hoại. Nếu sắc
vị lai vô thường thì chẳng được nói rằng, sắc có mười thời sai khác. Nhnữg
gì là mười ? Một là mô thời, hai là bào thời, ba là bào thai thời, bốn là
nhục đoàn thời, năm là chi thời, sáu là anh hài thời, bảy là đồng tử thời,
tám là thiếu niên thời, chín là thạnh tráng thời, mười là suy lão thời. Bồ
tát quan sát mô, nếu chẳng phải vô thường thì chẳng nên đến bào... cho đến
thạnh tráng nên chẳng phải vô thường thì nhất định chẳng đến lão. Nếu
những thời đó chẳng phải từng niệm từng niệm diệt thì nhất định chẳng lớn
dần mà nên phải một lúc trở thành lớn đầy đủ. Do việc này vậy nên phải
biết là quyết định có từng niệm từng niệm vi tế vô thường. Lại thấy có
người với các căn đầy đủ, nhan mạo rực rỡ mà về sau thấy khô khốc tiều
tụy, lại tác khởi ý niệm này: “Người đó quyết định có từng niệm từng niệm
vô thường”. Lại quan sát bốn đại và bốn oai nghi, lại quan sát trong ngoài
đều có hai nhân của khổ là đói khát, nóng lạnh, lại quan sát là bốn. Nếu
không niệm vi tế vô thường thì cũng chẳng thể được nói bốn khổ như vậy.
Nếu có Bồ tát có thể tác khởi ý niệm này thì đó gọi là Bồ tát quan sát tế
vô thường. Như nội ngoại sắc, tâm pháp cũng vậy. Vì sao vậy ? Vì hành lục
xứ. Khi hành lục xứ thì hoặc sinh ra hỷ tâm, hoặc sinh ra sân tâm, hoặc
sinh ra ái tâm, hoặc sinh ra tham tâm...lần lượt sinh ra khác , chẳng được
một thứ. Vậy nên phải biết, tất cả sắc pháp và chẳng phải sắc pháp đều là
vô thường. Này thiện nam tử! Bồ tát nếu có thể ở trong một niệm thấy tất
cả pháp sinh diệt vô thường thì đó gọi là Bồ tát đủ vô thường tưởng. Này
thiện nam tử! Kẻ trí tu tập vô thường tưởng rồi thì xa lìa thường mạn,
thường đảo, tưởng đảo.
Tiếp đến
tu khổ tướng. Vì nhân duyên gì nên có khổ như vậy ? Biết sâu khổ này nhân
ở vô thường. Nhân vô thường nên thọ sinh, già, bệnh, chết. Sinh già bệnh
chết nhân duyên nên gọi là vô thường. Vô thường nhân duyên nên thọ nội
ngoại khổ. Ðói khát, nóng lạnh, đánh đập, nhục mạ.v.v.... những khổ như
vậy đều nhân vô thường. Lại nữa, kẻ trí quan sát sâu thân này tức là đồ
đựng vô thường. Ðồ đựng vô thường tức là khổ. Do đồ đựng khổ nên pháp được
chứa đựng cũng lại là khổ. Này thiện nam tử! Kẻ trí lại quan sát, sinh
tức là khổ, diệt tức là khổ. Khổ sinh diệt nên tức là vô thường, chẳng
phải ngã và ngã sở, tu vô ngã tưởng. Kẻ trí lại quan sát khổ tức là vô
thường, vô thường tức là khổ. Nếu khổ vô thường thì người trí làm sao nói
rằng, có ngã ? Khổ chẳng phải là ngã,vô thường cũng vậy. Như vậy năm ấm
cũng khổ vô thường thì chúng sinh làm sao nói rằng có ngã ? Lại nữa, quan
sát tất cả pháp có hòa hợp khác, chẳng từ một hòa hợp sinh ra tất cả pháp,
cũng chẳng phải một pháp là quả của tất cả hòa hợp. Tất cả hòa hợp đều
không tự tính, cũng không một tính, cũng không tính khác, cũng không tính
của vật, cũng không tự tại. Các pháp nếu có những tưởng như vậy thì người
trí làm sao nói rằng có ngã. Lại tác khởi ý niệm này: Trong tất cả pháp
không có một pháp có thể làm tác giả. Nếu giả sử một pháp chẳng thể làm
thì mọi pháp hòa hợp cũng chẳng thể làm. Tính của tất cả các pháp nhất
định chẳng thể một mình sinh một mình diệt mà hòa hợp nên diệt, hòa hợp
nên sinh. Pháp này sinh ra rồi thì chúng sinh điên đảo tưởng nói rằng, hòa
hợp này từ hòa hợp sinh ra. Tưởng của chúng sinh điên đảo, không có chân
thật thì làm sao mà có ngã chân thật được ? Vậy nên kẻ trí quan sát vô
ngã. Lại nữa, quan sát kỹ càng vì nhân duyên gì mà chúng sinh nói có ngã ?
Ngã này nếu có thì nên một hay nên nhiều ? Ngã nếu một thì làm sao mà có
Sát lợi, Bà la môn, Tỳ xá, Thủ đà, người, trời, địa ngục, ngã quỉ, súc
sinh, lớn nhỏ, già trẻ.... vậy nên biết ngã chẳng phải là một. Ngã nếu
nhiều thì làm sao nói rằng, ngã của chúng sinh là một, là khắp cùng, không
có bờ cõi. Hoặc một, hoặc nhiều cả hai đều không có ngã.
Người
trí quan sát vô ngã như vậy rồi, tiếp đến lại quan sát yếm ly thực tưởng,
Bồ tát khởi ý niệm rằng: “Nếu tất cả pháp vô thường, khổ, không, vô ngã
thì làm sao thực (ăn) khởi lên ba thứ nghiệp ác của thân miệng ý ? Nếu có
chúng sinh vì tham ăn nên khởi lên ba thứ nghiệp ác của thân miệng ý thì
việc được của cải mọi người đều chung được đó, nhưng về sau chịu quả báo
khổ thì không chung phần”. Này thiện nam tử! Kẻ trí lại quan sát tất cả
chúng sinh vì ăn uống nên thân tâm chịu khổ. Nếu từ mọi khổ mà được ăn thì
ta phải làm sao ở trong ăn này mà sinh ra tham trước? Vậy nên đối với cái
ăn chẳng sinh ra lòng tham. Lại nữa, kẻ trí phải quan sát, nhân ăn uống mà
thân được tăng trưởng, ta nay xuất gia, thọ giới, tu đạo vì muốn xả thân,
nhưng nay tham cái ăn này thì làm sao sẽ được xả thân này vậy? Quán như
vậy rồi, tuy lại thọ ăn giống như quỉ Khoáng Dã ăn thịt của con mình,
nhưng lòng người ấy chán ghét đều thấy chẳng ngon lành. Quan sát sâu đoàn
thực có lỗi như vậy. Tiếp đến quan sát xúc thực như trâu bị mỗ bị vô lượng
trùng bu ăn. Tiếp đến quan sát tư thực như đám lửa lớn, thức thực giống
như ba trăm cái dùi, cái mâu. Này thiện nam tử! Người trí quan sát bốn
thứ ăn như vậy rồi thì đối với ăn nhất định chẳng sinh tham lạc tưởng. Nếu
còn sinh tham thì phải quán bất tịnh. Vì sao vậy? Vì lìa khỏi tham ái nên
đối với tất cả loại ăn giỏi có thể phân biệt tưởng bất tịnh, tùy theo các
bất tịnh mà khiến cho cùng tương tợ. Quán như vậy rồi, nếu được đồ ăn ngon
và cả đồ ăn dở thì khi thọ giống như bôi thuốc lên ung nhọt, nhất định
chẳng sinh ra lòng tham ái. Này thiện nam tử! Kẻ trí nếu có thể quan sát
như vậy thì đó gọi là thành tựu được yếm ly thực tưởng.
Bồ tát Ca Diếp bạch rằng:
- Thưa
đức Thế Tôn! Kẻ trí quan sát ăn tạo tác bất tịnh tưởng là chính là quán
chân thật hay quán hư giải vậy ? Nếu chính là quan sát chân thật thì cái
ăn được quan sát thật chẳng phải bất tịnh. Nếu chính là hư giải thì pháp
đó sao gọi là thiện tưởng.
Ðức Phật dạy rằng:
- Này
thiện nam tử! Người quan sát như vậy cũng là thực quán, cũg là hư giải.
Có thể phá hoại được lòng tham ăn nên gọi là thật. Chẳng phải là trùng mà
thấy trùng nên gọi là hư giải. Này thiện nam tử! Tất cả hữu lậu đều gọi
là hư mà cũng có thể được thật. Này thiện nam tử! Nếu có Tỳkheo phát tâm
xin ăn mà tác khởi ý niệm rằng: “Ta sẽ xin ăn, nguyện được của ngon, chớ
được đồ thô ác! Nguyện ắt được nhiều, chứ khiến cho ít quá! Cũng nguyện
cho mau được chớ khiến cho chậm trễ!” Tỳkheo như vậy chẳng gọi là đối với
ăn được tư tưởng chán lìa mà việc tu tập pháp thiện ngày đêm hao suy, pháp
bất thiện sẽ tăng trưởng dần.
Này
thiện nam tử! Nếu có Tỳkheo khi muốn xin ăn thì trước phải nguyện rằng:
“Nguyện cho những người xin ăn đều được no đủ và người cho đồ ăn kia được
phước không lường. Ta nếu được ăn là để trị liệu thân độc hại, tu tập pháp
lành, lợi ích cho thí chủ”. Khi tác khởi nguyện này thì sự tu hành thiện
pháp ngày đêm tăng trưởng, pháp bất thiện sẽ tiêu diệt dần.
Này thiện nam tử! Nếu có Tỳkheo có thể tu như vậy thì phải biết người đó
chẳng ăn của luống dối đối với tín thí nơi trung tâm quốc gia.
Này
thiện nam tử! Kẻ trí đầy đủ bốn tưởng như vậy thì có thể tu thế gian bất
khả lạc tưởng (tư tưởng thế gian chẳng thể vui). Kẻ trí tác khởi ý niệm
này: “Tất cả thế gian không chỗ nào chẳng có sinh, lão, bệnh, tử, mà thân
người của ta không chỗ nào chẳng sinh ra. Nếu trong thế gian không có một
chỗ sẽ được lìa khỏi sinh già bệnh chết thì ta sẽ làm sao mà vui với thế
gian. Tất cả thế gian không có gì tiến được mà chẳng lùi mất. Vậy nên thế
gian quyết định vô thường. Nếu là vô thường thì làm sao mà kẻ trí vui với
đời được ? Mỗi một chúng sinh trải qua cùng khắp tất cả thế gian thọ đủ
khổ vui. Tuy lại được thọ thân Phạm thiên cho đến trời Phi Tưởng Phi Phi
Tưởng, nhưng mạng chung rồi trở lại rơi vào trong ba đường ác. Tuy làm
thân Tứ Thiên Vương cho đến thân trời Tha Hóa Tự Tại, nhưng khi mạng chung
rồi sinh ra trong đường súc sinh, hoặc làm sư tử, hổ báo, sài lang, voi
ngựa, trâu lừa. Tiếp đến Bồ tát quan sát thân của Chuyển Luân Thánh Vương,
thống lĩnh bốn thiên hạ, giàu sang tự tại, nhưng khi phước hết nghèo cùng
khốn khó, ăn mặc chẳng cung cấp đủ. Người trí quan sát sâu những việc như
vậy rồi thì thấy sinh ra ở thế gian chẳng thể lạc tưởng. Kẻ trí quan sát
hữu pháp của thế gian như là nhà cửa, quần áo, ăn uống, ngọa cụ, thuốc
thang, hương hoa, chuỗi ngọc, đủ thứ kỹ nhạc, của cải, vật báu... Những
việc như vậy đều vì để lìa khỏi khổ mà những vật thể đó tức là khổ thì làm
sao dùng khổ mà muốn lìa khỏi khổ ?
Này
thiện nam tử! Người trí quan sát như vậy rồi thì đối với vật của thế gian
chẳng sinh ra ái lạc mà tạo tác lạc tưởng.
Này
thiện nam tử! Ví như có người thân mắc bệnh nặng, tuy có đủ thứ âm nhạc,
xướng kỹ, hương hoa, chuỗi ngọc... nhưng nhất định không đối với những vật
ấy sinh ra tham ái lạc. Người trí quan sát rồi cũng lại như vậy.
Này
thiện nam tử! Người trí quan sát sâu, tất cả thế gian chẳng phải chỗ qui
y, chẳng phải chỗ giải thoát, chẳng phải chỗ tịch tịnh, chẳng phải chỗ khả
ái, chẳng phải chỗ bờ kia, chẳng phải pháp Thường Lạc Ngã Tịnh.... Nếu ta
tham lạc thế gian như vậy thì ta làm sao được lìa khỏi pháp đó. Như người
chẳng ưa chỗ tối tăm mà cầu ánh sáng, lại trở lại về với tối tăm. Tối tăm
tức là thế gian, ánh sáng tức là xuất thế gian. Nếu ta ưa thế gian thì
tăng trưởng tối tăm, xa lìa ánh sáng. Tối tức là vô minh, ánh sáng tức là
trí minh (trí sáng). Nhân của trí minh này tức là thế gian bất khả lạc
tưởng. Tất cả tham kết tuy là ràng buộc nhưng hôm nay tham đối với trí
minh thì chẳng tham thế gian. Kẻ trí quan sát sâu pháp như vậy rồi thì đầy
đủ thế gian bất khả lạc tưởng.
Này
thiện nam tử! Người có trí đã tu tập Thế gian bất khả lạc tưởng rồi, tiếp
đến tu tử tưởng (tư tưởng chết). Quan sát thọ mạng này thường bị sự nhiễu
hại của vô lượng oán thù, từng niệm từng niệm tổn giảm, không có tăng
trưởng giống như nước chảy xiết từ núi xuống chẳng được trụ dừng, cũng như
móc buổi sớm thế chẳng dừng lâu, như người tù dẫn đến chợ mỗi bước mỗi
bước gần với cái chết, như dắt trâu, dê đi đến chỗ giết thịt.
Bồ tát Ca Diếp bạch rằng:
- Thưa
đức Thế Tôn! Làm sao kẻ trí quan sát từng niệm từng niệm diệt ?
- Này
thiện nam tử! Ví như bốn người đều giỏi thuật bắn tên tụ lại ở một chỗ,
đều bắn về một phương, đều tác khởi ý niệm này: “Bốn người chúng ta đều
phát ra, đều rơi xuống!” Lại có một người tác khởi ý niệm rằng: “Như vậy
bốn mũi tên kịp khi chúng chưa rơi xuống, ta có thể cùng một lúc dùng tay
bắt lấy hết!” Này thiện nam tử! Người như vậy có thể nói là nhanh không
?
Bồ tát Ca Diếp bạch rằng:
- Ðúng
vậy! Thưa đức Thế Tôn!
Ðức Phật dạy rằng:
- Này
thiện nam tử! Quỉ địa hành nhanh lại là nhanh hơn người, có quỉ phi hành
lại nhanh hơn quỉ địa hành, nhanh của Tứ Thiên Vương lại nhanh hơi quỉ phi
hành, thiên thần mặt trời mặt trăng lại nhanh hơn bốn vua trời, Hành Kiên
thiên lại nhanh hơn mặt trời mặt trăng. Thọ mạng của chúng sinh lại nhanh
hơn trời Kiên Tật. Này thiện nam tử! Một hơi thở, một nháy mắt mà thọ
mạng của chúng sinh bốn trăm lần sinh diệt. Kẻ trí nếu có thể quan sát
mạng như vậy thì đó gọi là có thể quan sát niệm niệm sinh diệt vậy. Này
thiện nam tử! Kẻ trí quan sát mạng hệ thuộc tử vương (vua thần chết): Ta
nếu có thể lìa khỏi tử vương như vậy thì được vĩnh viễn đoạn trừ thọ mạng
vô thường. Lại nữa, kẻ trí quan sát thọ mạng này giống như bờ sông đến cây
lớn cao vút, cũng như có người tạo tội đại nghịch và người ấy chịu tội
chết không ai thương tiếc, như khi vua sư tử đói khát cùng khốn, cũng như
khi độc xà hút gió lửa, giống như con ngựa khát hộ tiếc nước, như con ác
quỉ lớn khi sân nhuế phát khởi, vua chết của chúng sinh cũng lại như vậy.
Này thiện nam tử! Kẻ trí nếu có thể tạo tác sự quan sát như vậy thì đó
gọi là tu tập tử tưởng. Này thiện nam tử! Kẻ trí lại quan sát: Ta nay
xuất gia, giả sử được thọ mạng, bảy ngày bảy đêm thì ta sẽ ở trong thời
gian đó, tinh cần tu đạo, hộ trì cấm giới, nói pháp giáo hóa lợi ích cho
chúng sinh. Ðó gọi là kẻ trí tu tử tưởng. Lại cho dùng bảy ngày bảy đêm là
nhiều thì nếu được sáu ngày, năm ngày, bốn ngày, ba ngày, hai ngày, một
ngày, một giờ... cho đến khoảnh khắc thở hít vào... ta cũng sẽ ở trong
thời gian đó tinh cần tu đạo, hộ trì cấm giới, nói pháp giáo hóa lợi ích
chúng sinh. Ðó gọi là kẻ trí giỏi tu tử tưởng. Kẻ trí đầy đủ sáu tưởng như
trên thì liền được bảy tưởng nhân. Những gì là bảy ? Một là thường tu
tưởng. Hai là ưa tu tưởng. Ba là vô sân tưởng. Bốn là vô tật đố tưởng. Năm
là thiện nguyện tưởng. Sáu là vô mạn tưởng. Bảy là Tam muội tự tại tưởng.
Này thiện nam tử! Nếu có Tỳkheo đầy đủ bảy tưởng thì đó gọi là Sa môn,
gọi là Bà la môn, đó gọi là tịch tịnh, đó gọi là tịnh khiết, đó gọi là
giải thoát, đó gọi là người trí, đó gọi là chính kiến, gọi là đến bờ kia,
gọi là Ðại y vương, đó là đại thương chủ, đó gọi là giỏi hiểu bí mật của
Như Lai. Tỳkheo này cũng biết bảy thứ lời nói của chư Phật, gọi là chánh
kiến, biết đoạn trừ lưới nghi sở sinh trong bảy thứ lời nói. Này thiện nam
tử! Nếu người đầy đủ sáu tưởng như trên thì phải biết là người đó có thể
quở trách ba cõi, xa lìa ba cõi, diệt trừ ba cõi, ở trong ba cõi mà chẳng
sinh ra ái trước. Ðó gọi là kẻ trí đầy đủ mười tưởng. Nếu có vị Tỳkheo đầy
đủ mười tưởng thì liền được xứng đáng tướng Sa môn.
Lúc bấy giờ, Bồ tát Ca Diếp liền ở trước đức Phật, dùng kệ khen ngợi đức
Phật rằng:
Ðại Y vương thương xót thế gian
Thân và trí tuệ đều tịch tịnh
Trong pháp vô ngã có pháp chân
Vậy nên kính lễ đấng Vô Thượng!
Phát tâm “hai chẳng biệt” rốt cùng
Như vậy hai tâm, tâm trước khó
Tự chưa được độ, độ người tiên (trước)
Nên con lễ đấng lòng mới phát!
Mới phát rồi làm thầy nhân thiên
Thắng hơn Thanh Văn và Duyên Giác
Hơn ba cõi như vậy phát tâm
Vậy nên được gọi Tối Vô Thượng!
Cứu thế yêu cầu, sau được thành
Như Lai không thỉnh, làm thầy dẫn
Phật như con nghé theo thế gian
Vậy nên được gọi Ngưu Bi (trâu từ bi) lớn
Như Lai công đức đầy mười phương
Phàm phu vô trí chẳng khen ngợi
Con nay tán thán Từ Bi tâm
Ví báo thân miệng hai thứ nghiệp.
Tự lợi ích, thường lạc thế gian
Như Lai trọn chẳng làm việc đó
Hay đoạn (quả) báo thế giới chúng sinh
Nên con lễ đấng Tự Tha Lợi!
Làm ích dày, người đời theo thân (thân tình)
Như Lai lợi ích không thân, oán
Phật không tưởng này như thế nhân
Nên tâm Phật không hai, bình đẳng
Nói khác làm khác là thế gian
Như Lai nói như làm không khác
Phàm tu là đoạn các hạnh liền
Trước đã biết rõ lỗi phiền não
Thị hiện khắp nơi vì chúng sinh
Nên được gọi là Như Lai vậy.
Giải thoát rồi, ở mãi thế gian
Vì từ bi ưa ở sinh tử
Tuy hiện thiên thân và nhân thân
Từ bi theo đuổi như trâu nghé!
Như lai tức là mẹ chúng sinh
Lòng từ tín là trâu nghé vậy
Tự thọ mọi khổ vì chúng sinh
Khi niệm mẫn bi lòng chẳng hối
Chẳng biết khổ, lân mẫn đầy lòng
Nên con cúi lạy đấng Bạt Khổ!
Như Lai tuy làm phước không lường
Nghiệp thân miệng ý hằng thanh tịnh
Thường vì chúng sinh, chẳng vì mình
Nên con lễ đấng Thanh Tịnh Nghiệp!
Như Lai thọ khổ, khổ chẳng màng
Thấy chúng sinh khổ như mình khổ
Tuy ở địa ngục vì chúng sinh
Chẳng sinh tưởng khổ và lòng hối.
Thọ khác khổ của mọi chúng sinh
Ðều chính Như Lai, một người khổ
Biết rồi lòng ấy chuyển vững bền
Nên hay siêng tu đạo Vô Thượng.
Phật đủ một vị (mùi vị) đại từ tâm
Thương nghĩ chúng sinh như tử tưởng (tưởng con)
Chúng sinh chẳng biết Phật cứu mình
Nên bài báng Phật, Pháp, Tăng bảo.
Thế gian tuy đủ mọi não phiền
Cũng có vô lượng những lỗi ác
Như vậy mọi kết và tội khiên
Mới phát tâm Phật đã hay hoại.
Chỉ có chư Phật khen Thế Tôn (Phật)
Trừ Phật không ai hay khen ngợi
Con nay chỉ dùng một pháp khen
Là lòng từ đi khắp cõi thế.
Từ là đại pháp của Thế Tôn
Từ này cũng hay độ sinh chúng
Là Vô Thượng Giải thoát thật chân
Giải thoát tức là Ðại Niết Bàn.
KINH ÐẠI BÁT NIẾT BÀN
-
Quyển thứ ba mươi tư hết -
--- o0o ---
Mục Lục
01 |
02 |
03 | 04 |
05 |
06 | 07 |
08 |
09 | 10 |
11 |
12
13 |
14 | 15 |
16 |
17 | 18 |
19 |
20 | 21 |
22 |
23 | 24
25 |
26 | 27 |
28 |
29 | 30 |
31 | 32 |
33 |
34 | 35 |
36
--- o0o ---
|
Thư
Mục Tác Giả |
--- o0o ---
Vi tính: Thọ Huệ
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày:
01-2-2003