KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
- Hán dịch: Căn
cứ bản dịch của Tam Tạng Pháp sư
Đàm Vô Sấm,
Sa môn Tuệ Nghiêm, Tuệ Quán, và Tạ
Linh Vân sửa lại
- Đời Tống
- Việt dịch:
Tuệ Khai cư sĩ -
Phan Rang
Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
---o0o---
Quyển thứ bảy
PHẨM
THỨ CHÍN: TÀ CHÁNH
PHẦN IX:
-
Lúc bấy giờ, ngài Ca Diếp bạch đức
Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Bốn thứ người như đã
nói trên cần phải y chỉ sao?
Ðức Phật dạy rằng :
- Ðúng vậy ! Ðúng vậy ! Này thiện nam tử !
Ðúng như ta đã nói, cần phải y chỉ ! Vì sao vậy ? Vì có bốn loại ma. Những
gì là bốn ? Ðúng như lời nói của ma, các Kinh luật khác có thể thọ trì.
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Như đức Phật đã nói,
có bốn thứ ma thì như lời nói của ma và lời nói của đức Phật con làm sao
mà phân biệt được ? Có những chúng sinh theo đuổi ma hạnh, lại có chúng
sinh thuận theo lời dạy của đức Phật. Những bọn như vậy lại làm sao biết
được ?
Ðức Phật dạy rằng :
- Này Ca Diếp ! Sau khi ta vào Niết Bàn bảy
trăm năm thì ma ba Tuần này dẫn dần sẽ hủy hoại, nhiễu loạn chánh pháp của
ta. Ví như người thợ săn thân mặc pháp phục, Ma vương Ba Tuần cũng lại như
vậy, hóa làm hình dáng Tỳ kheo, hình dáng Tỳ kheo ni, hình dáng Ưu bà tắc,
hình dáng Ưu bà di. Vua ma cũng lại hóa làm thân Tu đà hoàn... cho đến hóa
làm thân A la hán và sắc thân của đức Phật. Ma vương dùng hình tướng hữu
lậu này hóa làm thân vô lậu mà hủy hoại chánh pháp của ta. Khi ma Ba Tuần
này hủy hoại Chánh pháp thì sẽ nói lên rằng : “Ðức Bồ tát khi xưa ở trên
cõi trời Ðâu Suất mất đi, hiện đến cung vua Bạch Tịnh tại thành Ca Tỳ La
này, nương vào cái nhân ái dục hòa hợp của cha mẹ mà sinh ra, nuôi lớn
thân này. Nếu nói rằng, có người sinh ra trong loài người mà được sự cung
kính của đại chúng trời người các thế gian thì không có điều đó”. Lại nữa,
ma còn nói rằng : “Thuở xưa đức Bồ tát khổ hạnh đủ thứ, bố thí đầu, mắt,
não, tủy, đất nước, thành quách, vợ con nên hôm nay được thành Phật đạo.
Do nhân duyên này nên được sự cung kính của những trời, người, càn thát
bà, a tu la, ca lâu la, khẩn na la, ma hầu la già”. Nếu có Kinh luật nói
lời nói này thì ông phải biết đó là lời nói của ma.
Này thiện nam tử ! Nếu có Kinh luật nói lời
như vầy : “Ðức Như Lai Chánh Giác thành Phật đã lâu, nay ngài phương tiện
thị hiện là vì muốn độ thoát các chúng sinh. Ngài thị hiện có cha mẹ nương
vào nhân ái dục hòa hợp mà sinh ra. Ngài thuận theo thế gian tạo tác sự
thị hiện này”. Kinh luật nói như vậy thì ông phải biết, đó quả thật là lời
nói của Như Lai. Nếu có người thuận theo lời nói của ma thì chính là quyến
thuộc của ma. Nếu có người có thể thuận theo lời nói của Phật thì tức là
Bồ tát.
Nếu có người nói rằng, Như Lai ra đời, ở
mười phương diện, đều đi bảy bước. Không thể tin điều đó là lời nói của
ma. Nếu có người lại nói rằng, Như Lai ra đời, ở mười phương diện đều đi
bảy bước, đó là phương tiện thị hiện của Như Lai. Ðó gọi là lời nói Kinh
luật của Như Lai. Nếu có người thuận theo lời nói của ma thì chính là
quyến thuộc của ma. Nếu người có thể thuận theo lời nói của Phật thì tức
là Bồ tát. Nếu có người nói rằng, Bồ tát sinh ra rồi vua cha sai người đem
đến miếu thờ trời, chư thiên thấy rồi đều sụp xuống lễ kính. Vậy nên gọi
là Phật. Lại có người nạn vấn rằng, trời xuất hiện trước, Phật ở sau họ
thì tại sao chư Thiên lễ kính đối với Phật ? Kẻ đặt ra vấn nạn đó thì ông
phải biết đó tức là lời nói của ma Ba Tuần.
Nếu có Kinh nói rằng, Phật đến miếu thờ
trời thì chư Thiên, Ma Ê Thủ La, Ðại Phạm Thiên vương, Thích Ðề Hoàn
Nhân.v.v... đều chắp tay cung kính làm lễ dưới chân Phật. Kinh luật nói
như vậy thì chính là lời nói của Phật. Nếu có người thuận theo lời nói của
ma thì chính là quyến thuộc của ma. Nếu người có thể thuận theo lời nói
của Phật thì tức là Bồ tát. Nếu có Kinh luật nói rằng, Bồ tát khi làm thái
tử, vì dục tâm nên khắp bốn phương tìm hỏi vợ, ở tại thâm cung tự vui
sướng hưởng thụ lạc. Kinh luật như vậy là lời nói của ma Ba Tuần.
Nếu có nói rằng, Bồ tát từ lâu đã lìa bỏ
dục tâm, vợ con, quyến thuộc... cho đến chẳng hưởng thụ năm dục thượng
diệu của trời Ba mươi ba như nhổ bỏ nước bọt, huống gì là sự ham muốn của
loài người. Ngài cạo bỏ râu tóc xuất gia tu đạo. Kinh luật nói như vậy thì
chính là lời nói của Phật. Nếu có người thuận theo Kinh luật của ma thì
chính là quyến thuộc của ma. Nếu có người thuận theo Kinh luật của Phật
thì tức là Bồ tát.
Nếu có người nói rằng, đức Phật ở tinh xá
Kỳ Ðà (Hoàn) tại nước Xá Vệ, cho phép các Tỳ kheo nhận nuôi nô tỳ, người
sai khiến, trâu dê, voi ngựa, lừa la, gà heo, mèo chó, vàng bạc, lưu ly,
trân châu, pha lê, xa cừ, mã não, san hô, hỗ phách, kha cụ, bích ngọc, nồi
chõ bằng đồng bằng sắt, mâm đồng lớn nhỏ... những vật cần dùng, cày ruộng,
gieo trồng, buôn bán, trao đổi, tích trữ lúa gạo... Mọi việc như
vậy, do đức Phật từ bi, thương xót chúng sinh nên đều cho phép gom chứa.
Kinh luật nói như vậy đều chính là ma nói.
Nếu có người nói rằng, đức Phật ở chỗ sở
trụ của quỉ Na Lê Lâu tại tinh xá Kỳ Ðà nước Xá Vệ, bấy giờ đức Như Lai,
nhân Bà la môn tự là Cổ Ðê Ðức và vua Ba Tư Nặc, nói rằng : “Này Tỳ kheo !
Chẳng nên nhận nuôi chứa vàng bạc, lưu ly, pha lê, trân châu, xa cừ, mã
não, san hô, hỗ phách, kha cụ, bích ngọc, nô tỳ, người sai khiến, đồng
nam, đồng nữ, trâu dê, voi ngựa, lừa la, heo gà, mèo chó.v.v... nồi chõ
bằng đồng bằng sắt, mâm đồng lớn nhỏ, đủ loại tạp sắc giường nằm, trải
ngoại cụ, đồ cần dùng trong cuộc sống. Nào là nhà cửa, cày ruộng, gieo
trồng, buôn bán, trao đổi, tự tay làm ra đồ ăn, tự mài dũa, tự đâm giã,
chú thuật sữa trị thân, phương pháp điều phục chim ưng, ngước xem tinh tú
(xem bói toán), đoán vận đầy vơi, xem tướng nam nữ, giải mộng kiết hung,
là nam, là nữ, chẳng phải nam, chẳng phải nữ, sáu mươi tư khả năng, lại có
mười tám thứ chú thuật mê hoặc người, đủ thứ nghề khéo. Hoặc nói vô lượng
việc tục của thế gian, tung rải hương bột, hương xoa, hương xông, đủ loại
vòng hoa cài tóc, phương thuật sửa trị tóc, gian ngụy, dua nịnh quanh co,
tham lợi không chán, ưa thích náo nhiệt, nói năng cười giỡn, ham thích
thịt cá, hòa hợp độc dược, trị yểm dầu thơm, nắm giữ bảo cái và cả giày
da, chế tạo quạt, tủ, hòm, đủ thứ hình vẽ, gom chứa lúa gạo, đậu mì lớn
nhỏ và những quả trái, gần gũi quốc vương, con vua, đại thần và các nữ
nhân lớn tiếng cả cười hoặc lại lặng thinh, ở trong các pháp sinh ra nhiều
nghi hoặc, nhiều lời dối nói dài ngắn, đẹp xấu, hoặc thiện hay chẳng
thiện, ưa mặc áo đẹp... đủ thứ những điều bất tịnh như vậy. Ở trước thí
chủ, thân mình tự khen, du hành ra vào những chỗ bất tịnh như là quán
rượu, nhà dâm nữ, sòng bài bạc... Những người như vậy ta nay chẳng cho
phép ở trong hàng Tỳ kheo, cần phải ngưng tu đạo trở về làm người sai việc
của thế tục, ví như cỏ lồng vực, bông kê đều diệt, không còn. Ông phải
biết sự cấm chế của Kinh luật này.v.v... đều chính là lời nói của Như Lai
vậy. Nếu có người thuận theo lời nói của ma thì chính là quyến thuộc của
ma. Nếu có người thuận theo lời nói của đức Phật thì tức là Bồ tát.
Nếu có người nói rằng, đức Bồ tát muốn cúng
dường thiên thần nên vào miếu thờ trời như là nơi thờ trời Phạm, trời Ðại
Tự Tại, trời Vi Ðà, trời Ca chiên diên... Sở dĩ vào đó là vì ngài muốn
điều phục chư thiên. Nếu chẳng nói vậy thì không có điều đó. Nếu nói rằng,
Bồ tát chẳng thể vào với tà luận ngoại đạo, biết được uy nghi, văn chương,
kỹ nghệ của tà luận ấy, cùng với kẻ sai khiến đấu tranh chẳng hòa hợp,
chẳng được sự cung kính của nam, nữ, quốc vương, đại thần. Lại nữa ngài
cũng chẳng biết hòa hợp các thảo dược, vì chẳng biết nên mới gọi là Như
Lai. Như những người biết ấy thì chính là bọn tà kiến. Lại nữa, Như Lai
đối với kẻ oán, người thân lòng luôn bình đẳng. Như người dùng dao cắt và
người dùng hương xoa thân. Ðối với hai người này ngài chẳng sinh ra lòng
tăng thêm hay lòng giảm bớt. Ngài chỉ ở mực giữa nên gọi Như Lai. Kinh
luật nói như vậy thì ông phải biết đó là lời nói của ma.
Nếu có người nói rằng, đức Bồ tát thị hiện
như vậy, vào trong pháp ngoại học, miếu thờ trời, xuất gia tu đạo, thị
hiện biết những uy nghi, lễ tiết ấy, có thể giải được tất cả văn chương,
kỹ nghệ, thị hiện thư đương (nhà đọc sách), chỗ kỹ xão, có thể giỏi hòa
hợp với những kẻ sai khiến đấu tranh. Ở trong các đại chúng, đồng nam,
đồng nữ, phi hậu của hậu cung, nhân dân, trưởng giả, Bà la môn, quốc
vương, đại thần và kẻ bần cùng.v.v... thì ngài là tối tôn, tối thượng.
Ngài lại được sự cung kính của những người đó. Ngài cũng có thể thị hiện
những việc như vậy. Ngài tuy ở với các kiến nhưng chẳng sinh ra ái tâm,
giống như hoa sen chẳng thọ trần cấu. Vì độ tất cả các chúng sinh nên ngài
giỏi làm đủ thứ phương tiện như vậy để thuận theo pháp của thế gian. Kinh
luật nói như vậy thì ông phải biết đó tức là lời nói của Như Lai. Nếu có
người thuận theo lời nói của ma thì chính là quyến thuộc của ma. Nếu người
thuận theo lời nói của Phật thì đó là Ðại Bồ tát. Nếu có người nói rằng,
đức Như Lai vì ta mà giải nói Kinh luật. Nếu tội nặng nhẹ trong ác pháp và
thâu lan già mà tính ấy đều nặng thì trong Luật chúng ta nhất định chẳng
là thế. Ta từ lâu đã nhận thọ pháp như vậy mà các ông chẳng tin thì ta sao
phải tự bỏ luật của mình theo luật các ông vậy ? Luật vốn có của ông là
lời nói của ma. Kinh luật của chúng ta chính là đức Phật đã chế ra. Ðức
Như Lai trước đã nói chín bộ pháp ấn. Chín ấn như vậy ấn chứng Kinh luật
của ta mà bắt đầu chẳng nghe có một chữ, một câu của Kinh điển Phương
Ðẳng. Ðức Như Lai đã nói vô lượng Kinh luật mà chỗ nào có nói đến Kinh
Phương Ðẳng vậy? Như vậy trong Phương Ðẳng chưa từng nghe có tên mười bộ
Kinh. Như trong ấy có thì phải biết, nhất định là sự tạo tác của ông Ðiều
Ðạt (Ðề Bà Ðạt Ða). Người ác Ðiều Ðạt vì muốn tiêu diệt thiện pháp nên tạo
ra Kinh Phương Ðẳng, chúng ta chẳng tin. Như vậy Kinh Phương Ðẳng chính là
lời nói của ma. Vì sao vậy ? Vì phá hoại Phật pháp, tranh nhau phải, trái.
Lời nói như vầy : trong Kinh của ông có, trong Kinh của ta không. Trong
Kinh luật của ta đức Như Lai nói rằng, sau khi ta (Phật) Niết Bàn, ở đời
ác sẽ có Kinh luật bất chính như là Kinh điển Ðại Thừa Phương Ðẳng, ở đời
vị lai sẽ có những ác Tỳ kheo như vậy. Ta lại nói rằng, qua chín bộ Kinh
có Kinh điển Phương Ðẳng. Nếu có người có thể rõ biết nghĩa của Kinh ấy
thì phải biết, người đó rõ biết chân chánh Kinh luật, xa lìa tất cả vật
bất tịnh, thanh tịnh vi diệu giống như vầng trăng tròn đầy. Nếu có người
nói rằng, Như Lai tuy vì mỗi một bộ Kinh luật diễn nói nghĩa vị nhiều như
cát sông Hằng nhưng trong Luật của ta không có thì phải biết là không. Như
điều ấy có thì tại sao đức Như Lai, ở trong luật của ta mà không giải nói.
Vậy nên ta nay chẳng thể tín thọ. Ông phải biết là người này bị đắc tội.
Người này lại nói rằng, Kinh luật như vậy ta phải thọ trì. Vì sao vậy ? Vì
Kinh sẽ vì ta tạo tác cái nhân thiện pháp tri túc, thiểu dục, trừ phiền
não, trí tuệ, Niết Bàn. Người nói như vậy thì chẳng phải là đệ tử của ta
(đức Phật).
Nếu có người nói rằng, đức Như Lai vì muốn
độ chúng sinh nên nói Kinh Phương Ðẳng thì phải biết người này thật là đệ
tử của ta. Nếu có người chẳng thọ Kinh Phương Ðẳng thì phải biết người này
chẳng phải là đệ tử của ta, chẳng vì Phật pháp mà xuất gia, tức là đệ tử
của tà kiến ngoại đạo. Kinh luật nói như vậy chính là lời nói của Phật,
nếu chẳng như vậy tức là lời nói của ma. Nếu có người thuận theo lời nói
của ma thì đó là quyến thuộc của ma. Nếu có người thuận theo lời nói của
Phật thì tức là Bồ tát.
Lại nữa, này thiện nam tử ! Nếu có người
nói rằng, đức Như Lai chẳng được sự thành tựu của vô lượng công đức, vô
thường, biến dị mà do được không pháp nên tuyên nói vô ngã, chẳng thuận
theo thế gian. Kinh luật như vậy gọi là lời nói của ma.
Nếu có người nói rằng, Như Lai Chánh Giác
chẳng thể nghĩ bàn, cũng được sự thành tựu của vô lượng atăngkỳ công đức.
Vậy nên Như Lai thường trụ, không có biến dị. Kinh luật nói như vậy chính
là lời nói của Phật. Nếu có người thuận theo lời nói của ma thì đó là
quyến thuộc của ma. Nếu có người thuận theo lời nói của Phật thì tức là Bồ
tát.
Lại nữa, có người nói rằng, hoặc có Tỳ kheo
thật chẳng hủy phạm tội Ba la di mà mọi người đều cho là phạm Ba la di như
chặt cây Ða la thọ, nhưng Tỳ kheo này thật ra không có phạm điều gì. Vì
sao vậy ? Vì ta thường nói rằng, bốn Ba la di nếu phạm một tội thì giống
như chẻ đá, chẳng thể hợp trở lại được. Nếu có người tự nói được pháp hơn
người thì gọi là phạm Ba la di. Vì sao vậy ? Vì thật không có sở đắc mà
trá hiện tướng được. Người như vậy là thoái mất nhân pháp (pháp của loài
người). Ðó gọi là Ba la di. Chẳng hạn như, hoặc có vị Tỳ kheo thiểu dục,
tri túc, trì giới thanh tịnh, trụ ở chỗ không nhàn mà nếu vua, đại thần
thấy vị Tỳ kheo này lòng phát sinh ý niệm cho rằng đã được A la hán, liền
ở trước vị ấy khen ngợi, cung kính lễ bái. Họ lại nói rằng : “Như vậy đại
sư bỏ thân này rồi thì sẽ được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác”. Vị Tỳ
kheo nghe rồi liền bạch với vua rằng : “Tôi thật chưa được đạo quả Samôn,
nhà vua chớ nói là tôi đã được đạo quả. Nguyện xin địa vương chớ vì tôi
nói pháp chẳng tri túc. Người chẳng tri túc là thậm chí được người cho là
được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác đều mặc nhiên nhận lấy. Tôi nay nếu
sẽ mặc nhiên nhận lấy thì sẽ bị sự quở trách của chư Phật. Hạnh tri túc
của chư Phật khen ngợi. Vậy nên tôi muốn trọn đời vui sướng phụng tu tri
túc. Lại nữa, tri túc thì tôi nhất định tự biết mình chưa được đạo quả.
Nhà vua xưng là tôi được, tôi nay chẳng nhận lấy nên gọi là tri túc”. Vị
vua đáp rằng : “Ðại sư quả thật đã được quả A la hán như đức Phật không
khác”. Bấy giờ vị vua ấy đều tuyên cáo khắp trong ngoài nhân dân và hậu
phi trong cung khiến cho họ đều biết vị Tỳ kheo được quả diệu môn. Vậy nên
đều khiến cho tất cả người nghe, lòng sinh tin kính, cúng dường tôn trọng.
Như vậy vị Tỳ kheo này chân thật là người tịnh tu phạm hạnh. Do nhân duyên
này khiến cho khắp mọi người được phước đức lớn mà vị Tỳ kheo này chẳng
hủy phạm tội Ba la di. Vì sao vậy ? Vì người ta tự sinh lòng hoan hỉ trước
mà khen ngợi cúng dường. Như vậy vị Tỳ kheo sẽ có tội gì ? Nếu có người
nói rằng, người đó đắc tội thì phải biết Kinh này là lời nói của ma.
Lại có vị Tỳ kheo nói Kinh điển thậm thâm
mật tạng của đức Phật, tất cả chúng sinh đều có Phật tính. Do tính ấy nên
đoạn được vô lượng ức những phiền não kết, liền được Vô Thượng Chánh Ðẳng
Chánh Giác, trừ Nhất xiển đề. Nếu vua, đại thần nói như vầy : “Này Tỳ kheo
! Ông sẽ làm Phật hay chẳng làm Phật vậy ? Ông có Phật tính không ?” Vị Tỳ
kheo đáp rằng : “Ta nay trong thân nhất định có Phật tính ! Còn thành hay
chẳng thành thì chưa có thể phán xét được”. Nhà vua nói rằng : “Thưa đại
đức ! Như người chẳng làm Nhất xiển đề ấy thì ắt thành không nghi hoặc ?”
Vị Tỳ kheo nói rằng : “Người ấy quả thật như nhà vua nói. Người này tuy
nói nhất định có Phật tính mà cũng lại chẳng phạm tội Ba la di”. Lại có vị
Tỳ kheo khi vừa xuất gia đã suy nghĩ rằng : “Ta nay nhất định thành Vô
Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác”. Người như vậy tuy chưa được thành đạo quả
Vô thượng nhưng đã làm được phước vô lượng vô biên chẳng thể xưng kể. Giả
sử có người sẽ nói rằng, người này phạm Ba la di, thì tất cả Tỳ kheo không
ai chẳng phạm cả. Vì sao vậy ? Vì ta ở tám mươi ức kiếp thuở xưa thường
lìa khỏi tất cả vật bất tịnh, thiểu dục, tri túc, uy nghi thành tựu, giỏi
tu pháp tạng vô thượng của Như Lai cũng tự nhất định biết bản thân có Phật
tính. Vậy nên ta nay được thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, được gọi
là Phật, có Ðại Từ Bi. Kinh luật như vậy là lời nói của Phật. Nếu có người
chẳng thể thuận theo đó thì tức là quyến thuộc của ma. Nếu người có thể
thuận theo thì chính là Ðại Bồ tát.
Lại có người nói rằng, không có bốn Ba la
di, mười ba tăng tàn, hai bất định pháp, ba mươi xả đọa, chín mươi mốt
pháp đọa, bốn pháp sám hối, mọi pháp đa học, bảy diệt tránh (tranh cãi),
không Thâu-lan-già, năm tội nghịch và Nhất xiển đề.v.v... Nếu có Tỳ kheo
phạm những điều như vậy thì đọa vào địa ngục, còn người ngoại đạo đều nên
sinh lên trời. Vì sao vậy ? Vì những kẻ ngoại đạo không có giới (cấm) để
phạm. Ðây là đức Như Lai thị hiện khủng bố con người nên nói ra giới ấy
thôi. Nếu nói rằng, đức Phật dạy : “Các Tỳ kheo của ta, nếu muốn hành dâm
thì nên bỏ pháp phục, mặc quần áo thế tục, rồi nhiên hậu mới hành dâm. Lại
nên sinh ý niệm là nhân duyên dâm dục chẳng phải tội lỗi của ta”. Ðức Như
Lai tại thế cũng có Tỳ kheo quen làm dâm dục vẫn được Chánh giải thoát,
hoặc sau khi mạng chung sinh lên cõi trời. Xưa nay có người làm những việc
đó chứ chẳng phải riêng một mình ta làm, hoặc phạm bốn trọng cấm, hoặc
phạm năm giới, hoặc làm tất cả luật nghi bất tịnh. Do vậy mà được đầy đủ
giải thoát chân chánh. Ðức Như Lai tuy nói phạm Ðột-kiết-la thì đọa tại
địa ngục tám trăm vạn năm tính theo năm tháng của trời Ðao Lợi. Ðó cũng là
đức Như Lai thị hiện khủng bố con người thôi. Nói rằng, từ Ba-la-di đến
Ðột-kiết-la nặng nhẹ không sai khác chỉ là các luật sư dối đặt ra lời nói
này. Nói rằng, đó chính là Phật chế ra thì nhất định phải biết rằng, chẳng
phải là lời nói của Phật. Lời nói như vậy chính là Kinh luật của ma. Nếu
lại nói rằng, ở trong các giới, nếu phạm giới nhỏ thậm chí rất nhỏ (vi tế)
thì phải chịu khổ báo không có giới hạn. Biết như vậy rồi, phòng hộ thân
mình như con rùa giấu sáu chi thể. Nếu có vị luật sư lại nói rằng, phàm đã
phạm giới đều không có tội báo. Người như vậy chẳng nên thân cận, như đức
Phật đã nói :
Một pháp nếu (nói) qua Ðó là vọng
ngữ
Chẳng thấy đời sau
Không ác (gì) chẳng tạo.
Vậy nên chẳng nên gần gũi người này. Trong
Phật pháp của ta thanh tịnh như vậy, huống là có người phạm tội
Thâu-lan-già, hoặc phạm Tăng-tàn và Ba-la-di mà chẳng phải tội sao ? Vậy
nên cần phải tự phòng hộ những pháp như vậy một cách sâu sắc. nếu chẳng
thủ hộ thì lại lấy pháp gì gọi là cấm giới. Ta, ở trong Kinh, cũng nói có
phạm bốn Ba-la-di... cho đến tội vi tế, Ðột-kiết-la.v.v... nên cần phải
khổ trị. Chúng sinh nếu chẳng hộ trì cấm giới thì làm sao sẽ được thấy
Phật tính. Tất cả chúng sinh tuy có Phật tính nhưng cần phải nhân trì
giới, rồi nhiên hậu mới thấy được. Nhân thấy được Phật tính mới được thành
Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Trong chín bộ Kinh không có Kinh Phương
Ðẳng. Vậy nên chẳng nói có Phật tính vậy. Kinh tuy chẳng nói nhưng phải
biết thật sự là có. Nếu nói được lời nói này thì phải biết người đó chân
thật là đệ tử của ta.
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Như trên đã nói, tất
cả chúng sinh đều có Phật tính mà trong chín bộ Kinh đã chưa từng nghe
nói, như vậy lời nói có ấy thì sao chẳng phạm Ba-la-di vậy ?
Ðức Phật dạy rằng :
- Này thiện nam tử ! Ðúng như lời nói của
ông ! Quả thật chẳng hủy phạm tội Ba-la-di ! Này thiện nam tử ! Ví như có
người nói rằng, biển cả chỉ có bảy báu, không có tám thứ thì người nói đó
không có tội. Nếu có người nói rằng, trong chín bộ Kinh không có Phật tính
thì cũng lại không tội. Vì sao vậy ? Vì ở trong biển đại trí Ðại Thừa, ta
nói có Phật tính. Người của Nhị thừa đã chẳng thấy biết được Phật tính nên
nói không thì không có tội vậy. Cảnh giới như vậy là sự hiểu biết của chư
Phật, chẳng phải là sự biết được của Thanh văn, Duyên Giác. Này thiện nam
tử ! Nếu người chẳng nghe tạng bí mật thậm thâm của Như Lai thì làm sao sẽ
biết có Phật tính vậy ? Cái gì gọi là tạng bí mật ? Ðó là Kinh điển Ðại
Thừa Phương Ðẳng. Này thiện nam tử ! Có các ngoại đạo, hoặc nói Ngã thường
còn, hoặc nói Ngã đoạn mất. Như Lai chẳng vậy, cũng nói có Ngã, cũng nói
không Ngã. Ðó gọi là trung đạo. Nếu có người nói rằng, đức Phật nói trung
đạo, tất cả chúng sinh đều có Phật tính, bị phiền não che phủ nên chẳng
biết, chẳng thấy. Vậy nên cần phải siêng tu phương tiện đoạn hoại phiền
não. Nếu có người có thể nói lời như vậy thì phải biết là người đó chẳng
phạm bốn trọng cấm. Nếu có người chẳng nói lời như vậy thì đó gọi là phạm
Ba-la-di. Nếu có người nói rằng, ta đã thành tựu Vô Thượng Chánh Ðẳng
Chánh Giác, vì sao vậy ? Vì ta có Phật tính mà có Phật tính thì nhất định
sẽ thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Vì nhân duyên đó nên ta nay đã
được thành tựu Bồ đề. Ông phải biết người đó gọi là phạm tội Ba-la-di. Vì
sao vậy ? Vì tuy có Phật tính nhưng vì chưa tu tập các phương tiện tốt.
Vậy nên chưa thấy, do chưa thấy nên chẳng thể được thành Vô Thượng Chánh
Ðẳng Chánh Giác. Này thiện nam tử ! Do ý nghĩa này nên Phật pháp thậm thâm
chẳng thể nghĩ bàn.
Ngài Ca Diếp bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Có vị vua hỏi rằng,
sao gọi là Tỳ kheo rơi vào pháp quá nhân (qua người) ?
Ðức Phật bảo ngài Ca Diếp rằng :
- Nếu có Tỳ kheo vì lợi dưỡng, vì ăn uống
mà làm những việc dua nịnh, gian ngụy, dối trá để làm sao khiến cho những
người thế gian nhất định phải biết ta (vị Tỳ kheo) là chân khất sĩ. Do
nhân duyên đó khiến cho ta được nhiều lợi dưỡng, danh dự. Vị Tỳ kheo nhiều
ngu si như vậy nên mãi mãi (đêm dài) thường nghĩ : “Ta thật chưa được bốn
quả Samôn, phải làm sao khiến cho những người thế gian cho là ta đã được.
Lại phải làm sao khiến cho những Ưu bà tắc, Ưu bà di.v.v... đều cùng chỉ
ta mà nói như vầy, người phước đức này quả thật là thánh nhân”. Vị Tỳ kheo
này suy nghĩ như vậy mà chuyên vì cầu lợi, chẳng phải vì cầu pháp. Ông ấy
đi, lại, vào, ra, tiến, dừng an tường, nắm giữ y bát chẳng mất uy nghi,
ngồi riêng một mình ở chỗ không nhàn như là bậc A la hán, khiến cho người
thế gian đều nói lên rằng, Tỳ kheo như vậy là tốt lành đệ nhất, tinh cần
khổ hạnh, tu pháp Tịch Diệt - vị Tỳ kheo ấy nghĩ - Do nhân duyên này, ta
sẽ được nhiều môn đồ, đệ tử, mọi người cũng sẽ đem đến nhiều cúng dường,
quần áo, đồ ăn, thức uống, ngọa cụ (đồ nằm) y dược (thuốc thang), khiến
cho nhiều nữ nhân kính trọng, ái niệm... Nếu có Tỳ kheo và Tỳ kheo ni làm
những việc như vậy thì rơi vào pháp quá nhân. Lại có Tỳ kheo vì muốn kiến
lập Chánh pháp vô thượng, trụ ở chỗ không nhàn, chẳng phải A la hán mà
muốn khiến cho mọi người gọi là A la hán, là Tỳ kheo tốt, là Tỳ kheo
thiện, là Tỳ kheo tịch tịnh, khiến cho vô lượng người sinh ra lòng tin. Do
nhân duyên này, vị Tỳ kheo ấy nghĩ rằng, ta được vô lượng các Tỳ kheo lấy
làm quyến thuộc. Nhân đó được dạy bảo Tỳ kheo phá giới và Ưu bà tắc đều
khiến cho họ trì giới. Do nhân duyên kiến lập chánh pháp này nên dương
sáng đại nghĩa vô thượng của Như Lai, mở bày pháp hóa Ðại Thừa Phương
Ðẳng, độ thoát tất cả vô lượng chúng sinh, khéo giải nghĩa khinh trọng,
Kinh luật đã nói của Như Lai. Lại nói rằng, ta nay cũng có Phật tính, có
Kinh gọi là Như Lai Bí Tạng. Ở trong Kinh đó ta sẽ nhất định được thành
Phật đạo, có thể hết vô lượng ức phiền não kết, rộng vì vô lượng những Ưu
bà tắc nói rằng : “Các ông đều có Phật tính hết. Ta cùng với các ông đều
sẽ an trụ ở đất đạo của Như Lai, thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác,
diệt hết vô lượng ức những phiền não kết. Người nói lời nói đó là người
chẳng gọi là rơi vào pháp Quá nhân mà gọi là Bồ tát. Nếu nói rằng, có
người phạm Ðột-kiết-la thì đọa vào trong địa ngục tám trăm vạn năm tính
theo năm tháng ngày trên trời Ðao Lợi, chịu các tội báo, huống gì là phạm
tội Thâu-lan-già ? Trong Ðại Thừa này, nếu có Tỳ kheo phạm Thâu-lan-già
thì chẳng nên thân cận. Những gì gọi là tội Thâu-lan-già trong Kinh Ðại
Thừa ? - Nếu có ông trưởng giả tạo lập Phật tự, đem những hoa mạn (vòng
hoa cài tóc) dùng cúng dường Phật. Có vị Tỳ kheo thấy sợi tơ trong xâu
hoa, chẳng hỏi liền lấy thì gọi là Thâu-lan-già, hoặc biết hay chẳng biết
cũng phạm như vậy. Nếu do lòng tham mà phá hoại tháp thờ Phật thì phạm
Thâu-lan-già Người như vậy chẳng nên thân cận. Nếu vua, đại thần thấy Tháp
mục nát, vì muốn tu bổ cúng dường xá lợi mà ở trong tháp này hoặc được đồ
trân bảo liền đem gởi cho vị Tỳ kheo. Vị Tỳ kheo được gởi rồi liền tự tại
mà dùng. Tỳ kheo như vậy gọi là bất tịnh, dấy khởi nhiều đấu tranh, hàng
ưu bà tắc tốt chẳng nên gần gũi cúng dường cung kính. Tỳ kheo như vậy gọi
là không căn, gọi là hai căn, gọi là bất định căn. Người bất định căn là
khi muốn tham nữ thì thân tức là nữ, khi muốn tham nam thì thân tức là
nam. Tỳ kheo như vậy gọi là ác căn, chẳng gọi là nam, chẳng gọi là nữ,
chẳng gọi là xuất gia, chẳng gọi là tại gia. Tỳ kheo như vậy chẳng nên
thân cận cúng dường cung kính. Pháp Samôn ở trong Phật pháp thì nên sinh
lòng bi che chở nuôi dưỡng chúng sinh, thậm chí con kiến cũng thí cho vô
úy, đó là Pháp Samôn. Xa lìa uống rượu... cho đến ngữi mùi thơm, đó là
Pháp Samôn. Chẳng được nói dối, thậm chí cả trong giấc mơ chẳng nghĩ đến
nói dối, đó là Pháp Samôn. Chẳng sinh ra lòng dục thậm chí cả trong mơ
cũng lại như vậy, đó là Pháp Samôn.
Ngài Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Nếu có vị Tỳ kheo nằm
mơ thấy hành dâm dục thì đó có phạm giới không ?
Ðức Phật dạy rằng :
- Chẳng phạm vậy ! Nên đối với dâm dục phát
sinh xú uế tưởng... cho đến chẳng phát sinh một ý niệm tịnh tưởng, xa lìa
ái tưởng phiền não của nữ nhân. Nếu trong mơ thấy mình hành dâm thì khi
thức dậy nên sinh hối hận. Khi Tỳ kheo xin ăn, nhận đồ cúng dường thì nên
tưởng như là đời đói phải ăn thịt con. Nếu phát sinh dâm dục thì nên mau
lìa bỏ. Pháp môn như vậy thì phải biết chính là Kinh luật của Phật đã nói.
Nếu có người thuận theo lời nói của ma thì chính là quyến thuộc của ma.
Nếu người có thể thuận theo lời Phật dạy thì đó gọi là Bồ tát. Nếu có
người nói rằng, đức Phật cho phép Tỳ kheo luôn kiễng một chân, lặng yên
chẳng nói, gieo xuống vực, lao vào lửa, tự rơi từ núi cao, chẳng tránh
hiểm nạn, uống độc, nhịn ăn, nằm trên đất tro, tự trói chân tay, giết hại
chúng sinh, phương đạo chú thuật, con của Chiên đà la, không căn, hai căn
và bất định căn, thân căn chẳng đủ... Những bọn như vậy đức Như Lai đều
cho phép xuất gia làm đạo thì đó gọi là ma nói. Ðức Phật trước đã cho phép
ăn năm thứ vị của trâu (?) và cả dầu, mật, mặc áo Kiều xa gia, mang giày
da.v.v... Trừ ngoài những thứ đó, nếu có người nói rằng, đức Phật cho phép
mặc áo Ma ha lăng già, tất cả hạt giống đều cho phép tích trữ, những hệ
thuộc của cỏ cây đều có thọ mạng. Ðức Phật nói thế rồi liền vào Niết Bàn.
Nếu có Kinh luật nói lời nói đó thì phải biết chính là lời nói của ma. Ta
cũng chẳng cho phép luôn kiễng lên một chân. Nếu vì phép nên cho phép đi,
đứng, ngồi, nằm. Ta lại cũng chẳng cho phép uống độc, nhịn ăn, năm thứ lửa
nóng nướng thân, trói buộc chân tay, giết hại chúng sinh, phương đạo chú
thuật, kha cụ, ngà voi dùng làm giày da, tích trữ hạt giống, cỏ cây có
mạng sống, mặc Ma ha lăng già. Nếu nói rằng, đức Thế Tôn nói lời như vậy
thì phải biết đó là quyến thuộc của ngoại đạo, chẳng phải là đệ tử của ta.
Ta chỉ cho phép ăn năm thứ vị của trâu và dầu, mật.v.v..., cho phép mang
giày da, mặc áo Kiều-xà-gia. Ta nói bốn đại không có thọ mạng. Nếu có Kinh
luật nói những việc đó thì đó gọi là Phật nói. Nếu có người thuận theo lời
dạy thì phải biết đó là đệ tử chân chính của ta. Nếu có người chẳng thuận
theo lời dạy của Phật thì đó là quyến thuộc của ma. Nếu có người tùy thuận
Kinh luật của Phật thì phải biết người đó là Ðại Bồ tát. Này thiện nam tử
! Tướng sai khác của lời ma, lời Phật, hôm nay ta đã vì ngươi rộng rãi
tuyên nói, phân biệt rồi !
Ngài Ca Diếp bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Hôm nay con mới biết
được tướng sai khác của lời ma, lời Phật. Nhân đó con được vào nghĩa sâu
của Phật pháp.
Ðức Phật khen ngài Ca Diếp rằng :
- Hay thay ! Hay thay ! Này thiện nam tử !
Ông có thể phân biệt hiểu rõ như vậy thì đó gọi là thông tuệ.
PHẨM
TỨ ÐẾ
PHẦN V:
Ðức Phật lại bảo ngài Ca Diếp rằng :
- Cái nói rằng khổ thì chẳng gọi là Khổ
Thánh Ðế. Vì sao vậy ? Vì nếu nói rằng khổ là Khổ Thánh Ðế thì tất cả loài
súc sinh và chúng sinh của địa ngục nên có Thánh đế. Này thiện nam tử !
Nếu lại có người chẳng biết cảnh giới thậm thâm và pháp thân vi mật thường
trụ bất biến của Như Lai mà cho là thân tạp thực, chẳng phải là pháp thân,
chẳng biết uy lực đạo đức của Như Lai thì đó gọi là Khổ. Vì sao vậy ? Vì
chẳng biết nên Pháp thấy là phi pháp, phi pháp thấy là Pháp. Ông phải biết
là người này nhất định rơi vào đường ác, luân chuyển trong sinh tử, thêm
lớn các kết, chịu nhiều khổ não. Nếu có người có thể biết Như Lai thường
trụ, không có biến dị, hoặc nghe âm thanh hai chữ thường trụ hay một lần
trải qua như vậy thì liền sinh lên trời. Rồi sau khi giải thoát mới có thể
chứng biết Như Lai thường trụ, không có biến dị. Ðã chứng biết rồi mà
người đó còn rằng, ta vào thuở xưa đã từng nghe nghĩa này, nay được giải
thoát mới chứng biết được. Ta ở đời trước do chẳng biết nên sinh tử luân
chuyển, quay vòng không cùng, bắt đầu hôm nay mới được chân trí. Nếu biết
như vậy thì quả thật tu khổ được nhiều lợi ích. Nếu chẳng biết thì tuy lại
siêng tu nhưng không lợi ích gì. Ðó gọi là biết khổ, gọi là Khổ Thánh Ðế.
Nếu người chẳng thể tu tập như vậy thì đó gọi là khổ, chẳng phải là Khổ
Thánh Ðế. Khổ Tập Ðế là ở trong chân pháp chẳng sinh ra chân trí, nhận vật
bất tịnh như là nô tỳ, có thể lấy phi pháp nói rằng chính là Chánh pháp,
đoạn diệt Chánh pháp chẳng khiến cho trụ thế lâu dài. Do nhân duyên này
nên chẳng biết pháp tính, vì chẳng biết nên luân chuyển sinh tử, chịu
nhiều khổ não, chẳng được sinh lên trời và giải thoát chân chánh. Nếu có
người biết rõ bất hoại chánh pháp, do nhân duyên như vậy, được sinh lên
cõi trời, cho đến chánh giải thoát. Nếu có người chẳng biết chỗ Khổ Tập Ðế
mà nói rằng, Chánh pháp không có thường trụ, đều là pháp diệt. Do nhân
duyên đó nên ở vô lượng kiếp lưu chuyển sinh tử, chịu những khổ não. Nếu
có thể biết pháp thường trụ, chẳng biến dị thì đó gọi là biết Tập, gọi là
Tập Thánh Ðế. Nếu người chẳng thể tu tập như vậy thì đó gọi là Tập, chẳng
phải là Tập Thánh Ðế. Khổ Diệt Ðế là nếu có người tu tập, học nhiều không
pháp thì đó là bất thiện. Vì sao vậy ? Vì diệt tất cả pháp là hoại đến
chân pháp tạng của Như Lai vậy. Tạo tác sự tu học này thì gọi là tu
“Không”. Tu Khổ Diệt là ngược lại với tất cả những ngoại đạo.v.v... Nếu
nói rằng, tu không là Diệt Ðế thì tất cả ngoại đạo cũng tu không pháp nên
có Diệt Ðế. Nếu có người nói rằng, có Như Lai Tạng, tuy chẳng thể thấy,
nhưng nếu có thể diệt trừ tất cả phiền não thì mới được vào. Nếu phát lòng
này, chỉ nhân duyên một niệm, thì ở trong các pháp mà được tự tại. Nếu có
người tu tập mật tạng của Như Lai, không tịch vô ngã thì người như vậy ở
vô lượng đời tại trong sinh tử lưu chuyển thọ khổ. Nếu có người chẳng tạo
tác sự tu tập như vậy thì tuy có phiền não nhưng có thể mau chóng diệt
trừ. Vì sao vậy ? Vì nhân biết bí mật tạng của Như Lai. Ðó gọi là Khổ Diệt
Thánh Ðế. Nếu người có thể tu tập diệt như vậy thì chính là đệ tử của ta.
Nếu có người chẳng thể tạo tác việc tu như vậy thì đó gọi là tu không,
chẳng phải là Diệt Thánh Ðế. Ðạo Thánh Ðế thì như là Phật bảo, Pháp bảo,
Tăng bảo và Chánh giải thoát. Có những chúng sinh, lòng điên đảo nói rằng,
không có Phật, Pháp, Tăng và Chánh giải thoát, sinh tử lưu chuyển giống
như huyễn hóa mà tu tập theo sự nhận thức này thì do nhân duyên đó nên
luân chuyển trong ba cõi, chịu đại khổ lâu dài. Nếu có thể phát tâm thấy
được sự thường trụ không biến đổi của Như Lai và Pháp, Tăng, giải thoát
cũng lại như vậy rồi theo một niệm này đến vô lượng đời thì quả báo tự tại
tùy ý mà được. Vì sao vậy ? Vì ta, vào thuở xa xưa do bốn điên đảo nên
chẳng phải pháp mà cho là pháp, chịu vô lượng quả báo nghiệp ác. Ta nay đã
diệt được sự nhận thức như vậy nên thành Phật Chánh Giác. Ðó gọi là Ðạo
Thánh Ðế. Nếu có người nói rằng, Tam Bảo vô thường, tu tập theo sự nhận
thức này là tu theo hư vọng, chẳng phải là Ðạo Thánh Ðế. Nếu tu pháp này
là thường trụ thì đó là đệ tử của ta. Nhận thức chân thật, tu tập bốn pháp
Thánh Ðế thì đó gọi là Bốn Thánh Ðế.
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Con nay mới biết tu
tập bốn pháp Thánh Ðế thậm thâm.
PHẨM BỐN ÐIÊN ÐẢO
PHẦN XI :
Ðức
Phật bảo ngài Ca Diếp rằng :
- Này thiện nam tử ! Gọi bốn điên đảo là vì
ở trong chẳng phải khổ mà sinh ra khổ ưởng thì gọi là điên đảo. Chẳng phải
khổ thì gọi là Như Lai. Sinh ra khổ tưởng thì cho là các Như Lai vô thường
biến dị. Nếu nói Như Lai là vô thường thì gọi là đại tội khổ. Nếu nói Như
Lai bỏ thân khổ này vào Niết Bàn như cũi hết lửa tắt thì đó gọi là chẳng
phải khổ mà sinh ra khổ tưởng. Ðó gọi là điên đảo. Ta nếu nói rằng, Như
Lai thường trụ thì tức là ngã kiến. Do ngã kiến nên có vô lượng tội. Vậy
nên cần phải nói Như Lai vô thường. Nói như vậy thì ta thụ hưởng niềm vui.
Như Lai vô thường tức là khổ mà nếu là khổ thì làm sao sinh ra vui ? Vì ở
trong khổ sinh ra lạc tưởng (tư tưởng vui) nên gọi là điên đảo. Lạc sinh
ra khổ tưởng nên gọi là điên đảo. Lạc tức là Như Lai, khổ là Như Lai vô
thường. Nếu nói Như Lai là vô thường thì đó gọi là trong lạc sinh ra khổ
tưởng. Như Lai thường trụ, đó gọi là lạc. Nếu ta nói rằng, Như Lai là
thường trụ thì sao lại được vào Niết Bàn. Nếu nói rằng, Như Lai chẳng phải
là khổ thì tại sao xả thân mà chọn lấy diệt độ. Do ở trong lạc mà sinh ra
khổ tưởng nên gọi là điên đảo. Ðó gọi là điên đảo đầu tiên. Vô thường mà
tưởng thường, thường mà tưởng vô thường thì đó gọi là điên đảo. Vô thường
thì gọi là chẳng tu không, chẳng tu không nên thọ mạng ngắn ngủi. Nếu có
người nói rằng, chẳng tu không tịch, được sống lâu thì đó gọi là điên đảo.
Ðó gọi là điên đảo thứ hai. Vô ngã mà tưởng ngã, ngã mà tưởng vô ngã thì
đó gọi là điên đảo. Người thế gian cũng nói có ngã, trong Phật pháp cũng
nói có ngã. Người thế gian tuy nói có ngã nhưng không có Phật tính thì đó
gọi là ở trong vô ngã mà sinh ra ngã tưởng. Ðó gọi là điên đảo. Phật pháp
có ngã tức là Phật tính. Người thế gian nói Phật pháp vô ngã, đó gọi là
trong ngã sinh ra vô ngã tưởng. Nếu nói rằng, Phật pháp nhất định vô ngã.
Vậy nên Như Lai dạy bảo các đệ tử tu tập vô ngã, gọi là điên đảo. Ðó gọi
là điên đảo thứ ba. Tịnh mà tưởng bất tịnh, bất tịnh mà tưởng tịnh thì đó
gọi là điên đảoTịnh tức là Như Lai thường trụ, chẳng phải thân tạp thực,
chẳng phải thân phiền não, chẳng phải là nhục thân, chẳng phải là thân gân
xương ràng buộc. Nếu có người nói rằng, Như Lai vô thường, là thân tạp
thực... cho đến thân gân xương ràng buộc và Pháp, Tăng, giải thoát đều là
diệt hết thì đó gọi là điên đảo. Bất tịnh mà tưởng tịnh gọi là điên đảo
thì như có người nói rằng, trong thân này của ta không có một pháp, là bất
tịnh. Do không có tịnh bất tịnh nên sẽ được vào chỗ thanh tịnh. Ðức Như
Lai đã nói, tu quán bất tịnh. Nói như vậy là lời nói hư vọng thì đó gọi là
điên đảo. Ðó gọi là điên đảo thứ tư.
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Con từ ngày hôm nay
mới được Chánh kiến! Thưa đức Thế Tôn ! Từ đây trở về trước, chúng con đều
gọi là người tà kiến.
KINH ÐẠI BÁT NIẾT BÀN
- Quyển thứ bảy hết -
--- o0o ---
Mục Lục
01 |
02 |
03 | 04 |
05 |
06 | 07 |
08 |
09 | 10 |
11 |
12
13 |
14 | 15 |
16 |
17 | 18 |
19 |
20 | 21 |
22 |
23 | 24
25 |
26 | 27 |
28 |
29 | 30 |
31 | 32 |
33 |
34 | 35 |
36
--- o0o ---
|
Thư
Mục Tác Giả |
--- o0o ---
Vi tính: Thọ Huệ
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày:
01-2-2003