KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
- Hán dịch: Căn
cứ bản dịch của Tam Tạng Pháp sư
Đàm Vô Sấm,
Sa môn Tuệ Nghiêm, Tuệ Quán, và Tạ
Linh Vân sửa lại
- Đời Tống
- Việt dịch:
Tuệ Khai cư sĩ -
Phan Rang
Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
---o0o---
Quyển thứ 18
PHẨM PHẠM HẠNH
(tiếp theo)
Lúc
bấy giờ, đức Thế Tôn ở tại vùng Song Thọ, thấy vua A Xà Thế ngất xỉu ngã
lăn ra đất, liền bảo đại chúng rằng :
- Ta nay
sẽ vì vị vua này mà trụ thế đến vô lượng kiếp, chẳng vào Niết Bàn !
Bồ tát
Ca Diếp bạch đức Phật rằng :
- Thưa
đức Thế Tôn ! Ðức Như Lai phải vì vô lượng chúng sinh mà chẳng vào Niết
Bàn chớ vì sao độc chỉ vì vua A Xà Thế ?
Ðức Phật
dạy rằng :
- Này
thiện nam tử ! Trong đại chúng này không có một người cho là ta nhất định
vào với Niết Bàn còn A Xà Thế thì quyết định cho là ta sẽ rốt ráo diệt
mãi. Vậy nên ông ấy ngất xỉu đi tự lăn ra đất. Này thiện nam tử ! Như lời
ta nói, vì vua A Xà Thế ta chẳng vào Niết Bàn. Ý nghĩa bí mật như vậy ông
chưa có thể hiểu được. Vì sao vậy ? Vì ta nói vì là tất cả phàm phu như A
Xà Thế và khắp tất cả người tạo ngũ nghịch tội. Lại nữa vì tức là vì tất
cả chúng sinh hữu vi. Ta nhất định chẳng vì chúng sinh vô vi mà trụ ở đời.
Vì sao vậy ? Vì phàm là vô vi thì chẳng phải chúng sinh vậy. A Xà Thế thì
tức là người đầy đủ phiền não.v.v... Lại nữa, vì tức là chúng sinh chẳng
thấy Phật tính. Nếu chúng sinh thấy Phật tính thì ta nhất định chẳng vì họ
trụ ở đời lâu. Vì sao vậy ? Vì người thấy Phật tính chẳng phải là chúng
sinh vậy. A Xà Thế thì tức là tất cả những người chưa phát tâm Vô Thượng
Chánh Ðẳng Chánh Giác. Lại nữa, vì thì tức là hai chúng A Nan và Ca Diếp.
A Xà Thế thì tức là hậu cung phi hậu của vua A Xà Thế và tất cả phụ nữ của
thành Vương Xá. Lại nữa, vì thì gọi là Phật tính. A Xà Thế thì gọi là bất
sinh. Thế thì gọi là oán. Do chẳng sinh Phật tính nên oán phiền não sinh
mà oán phiền não sinh nên chẳng thấy Phật tính. Do chẳng sinh phiền não
nên thấy Phật tính mà thấy Phật tính thì được an trụ ở Ðại Bát Niết Bàn.
Ðó gọi là bất sinh. Vậy nên gọi là A Xà Thế. Này thiện nam tử ! A Xà thì
gọi là bất sinh mà bất sinh thì gọi là Niết Bàn. Thế nào gọi là Thế pháp.
Vì thì gọi là bất ô (chẳng dơ bẩn). Do việc chẳng ô nhiễm tám pháp thế
gian nên vô lượng vô biên atăngkỳ kiếp chẳng vào Niết Bàn. Vậy nên ta nói
rằng, vì A Xà Thế nên vô lượng ức kiếp chẳng vào Niết Bàn. Này thiện nam
tử ! Mật ngữ của Như Lai chẳng thể nghĩ bàn ! Phật pháp, chúng Tăng cũng
chẳng thể nghĩ bàn ! Ðại Bồ tát cũng chẳng thể nghĩ bàn. Kinh Ðại Niết Bàn
cũng chẳng thể nghĩ bàn !
Lúc bấy
giờ, đức Thế Tôn, đấng Ðại Bi Ðạo Sư, vì vua A Xà Thế vào tam muội Nguyệt
Ái. Vào tam muội rồi, ngài phóng ra ánh sáng lớn. Ánh sáng thanh lương ấy
đến chiếu vào thân vua thì ghẻ trên thân liền khỏi, hôi thối trừ diệt. Nhà
vua hay biết ghẻ đã khỏi, thân thể thanh lương thì nói với ông Kỳ Ðà rằng
:
- Ta
từng nghe người nói rằng, khi kiếp sắp muốn hết thì ba mặt trăng đồng thời
hiện lên. Ðang lúc đó thì hoạn khổ của tất cả chúng sinh đều trừ hết. Thời
đã chưa đến mà ánh sáng này từ đâu đến soi vào một mình thân ta, sự khổ
của ghẻ lở trừ khỏi, thân được an vui.
Ông Kỳ
Ðà đáp rằng :
- Ðây
chẳng phải là kiếp hết, ba mặt trăng soi cùng một lúc, cũng chẳng phải là
ánh sáng của lửa, mặt trời, tinh tú, thảo dược, ngọc báu, trời.
Nhà vua
lại hỏi rằng :
- Ánh
sáng này nếu chẳng phải là ánh sáng của ba mặt trăng cùng soi, của ngọc
báu thì chính là ánh sáng của ai ?
- Thưa
đại vương ! Ngài phải biết, đó là ánh sáng phóng ra của đấng Thiên Trung
Thiên ! Ánh sáng này vô hạn, không có bờ cõi, chẳng phải nóng, chẳng phải
lạnh, chẳng phải thường, chẳng phải diệt, chẳng phải sắc, chẳng phải vô
sắc, chẳng phải tướng, chẳng phải vô tướng, chẳng phải xanh, chẳng phải
vàng, chẳng phải đỏ, chẳng phải trắng... Vì muốn độ chúng sinh nên khiến
cho họ có thể thấy có tướng, có thể nói vô hạn, có biên, có nóng, có lạnh,
có xanh, vàng, đỏ, trắng. Thưa đại vương ! Ánh sáng này tuy vậy, thật ra
chẳng thể nói, chẳng thể nhìn thấy, thậm chí không có xanh, vàng, đỏ,
trắng.
Nhà vua
nói rằng :
- Này Kỳ
Bà ! Ðấng Thiên Trung Thiên đó vì nhân duyên gì mà phóng ra ánh sáng ấy ?
Ông Kỳ
Bà đáp rằng :
- Tướng
điềm này hôm nay là vì đại vương ! Do đại vương trước nói rằng, đời không
có lương y trị liệu thân tâm, nên đức Phật phóng ra ánh sáng này để trị
thân vua trước, nhiên hậu trị đến tâm !
Nhà vua
nói rằng :
- Này Kỳ
Bà ! Ðức Như Lai Thế Tôn cũng thấy được ý niệm sao?
Ông Kỳ
Bà đáp rằng :
- Ví như
một người mà có bảy đứa con. Một đứa con trong bảy đứa con đó gặp bệnh.
Lòng cha mẹ chẳng phải không bình đẳng, nhưng đối với đứa con bệnh thì
lòng thiên về nhiều hơn. Thưa đại vương ! Ðức Như Lai cũng vậy, đối với
các chúng sinh chẳng phải không bình đẳng, nhưng đối với người có tội thì
lòng thiên về nặng hơn, với người phóng dật thì từ niệm, với người chẳng
phóng dật thì lòng buông bỏ. Những ai gọi là người chẳng phóng dật ? Ðó là
Lục trụ Bồ tát ! Thưa đại vương ! Các đức Phật Thế Tôn đối với các chúng
sinh, chẳng quan sát chủng tính, già trẻ, trung niên, giàu, nghèo, thời
tiết, mặt trời, mặt trăng, tinh tú, nghề khéo, hạ tiện, đồng bộc, nô tỳ mà
chỉ quan sát chúng sinh có thiện tâm hay không thôi. Nếu họ có thiện tâm
thì đức Như Lai liền từ niệm. Này đại vương ! Ngài phải biết, tướng điềm
như vậy tức là đức Như Lai vào tam muội Nguyệt Ái mà phóng ra ánh sáng.
Nhà vua
liền hỏi rằng :
- Sao
gọi là tam muội Nguyệt Ái ?
Ông Kỳ
Bà đáp rằng :
- Ví như
ánh sáng của vầng trăng có thể khiến cho tất cả hoa Ưu bát la nở bày tươi
sáng. Tam muội Nguyệt Ái cũng lại như vậy, có thể khiến cho thiện tâm của
chúng sinh mở bày. Vậy nên gọi là tam muội Nguyệt Ái. Thưa đại vương ! Ví
như ánh sáng của vầng trăng có thể khiến cho tất cả người đi đường, lòng
sinh vui mừng. Nguyệt Ái tam muội cũng lại như vậy, có thể khiến cho người
tu tập đạo Niết Bàn, lòng sinh hoan hỷ. Vậy nên gọi là Nguyệt Ái tam muội.
Thưa đại vương! Ví như ánh sáng vầng trăng, từ ngày đầu tiên mồng một đến
ngày mười lăm thì hình sắc, ánh sáng dần dần tăng trưởng. Nguyệt Ái tam
muội cũng lại như vậy, khiến cho người mới phát tâm, các thiện căn bản dần
dần tăng trưởng... cho đến đầy đủ Ðại Bát Niết Bàn. Vậy nên lại gọi là
Nguyệt Ái tam muội. Thưa đại vương ! Ví như ánh sáng của vầng trăng, từ
ngày mười sáu đến ngày ba mươi thì hình sắc ánh sáng dần dần tổn giảm.
Nguyệt Ái tam muội cũng lại như vậy, phiền não sở hữu ở chỗ ánh sáng này
soi đến có thể khiến cho dần dần giảm hết. Vậy nên lại gọi là Nguyệt Ái
tam muội. Này đại vương ! Ví như khi nóng lắm thì tất cả chúng sinh thường
nghĩ đến ánh sáng trăng mà ánh sáng trăng đã soi thì uất nhiệt liền diệt
trừ. Nguyệt Ái tam muội cũng lại như vậy, có thể khiến cho chúng sinh trừ
diệt nhiệt não của tham. Thưa đại vương ! Ví như vầng trăng tròn đầy là
vua trong mọi tinh tú, là vị cam lộ được sự yêu thích của tất cả chúng
sinh. Nguyệt Ái tam muội cũng lại như vậy, là vua trong các điều thiện, là
vị cam lộ được sự yêu thích của tất cả chúng sinh. Vậy nên lại gọi là
Nguyệt Ái tam muội.
Nhà vua
nói rằng :
- Này Kỳ
Bà ! Ta nghe đức Như Lai chẳng cùng với người ác đồng dừng, đồng ngồi,
đồng đứng dậy, đồng nói năng đàm luận giống như biển cả chẳng chấp nhận
thây chết, như chim uyên ương chẳng trụ ở nhà xí (cầu tiêu), như Thích Ðề
Hoàn Nhân chẳng cùng ở với quỉ, như chim Cưu Sí La chẳng đậu cây khô...
Ðức Như Lai cũng vậy thì ta làm sao mà được đến diện kiến ? Giả sử được
diện kiến ngài thì thân ta sẽ chẳng bị hãm vào địa ngục sao ? Ta xem ra
đức Như Lai thà gần voi say, sư tử, cọp, sói, lửa mạnh hừng hực chớ nhất
định chẳng gần gũi với người ác nghiệp nặng nề này ! Vậy nên ta nay suy
nghĩ thế rồi thì phải có tấm lòng gì để diện kiến đức Như Lai ?
Ông Kỳ
Bà đáp rằng :
- Thưa
đại vương ! Ví như người khát nước thì phải mau chóng đi đến dòng suối
trong, người đói thì cầu xin đồ ăn, người sợ thì cầu người cứu, người bệnh
thì cầu lương y, nóng cầu bóng mát, lạnh thì cầu lửa... Nhà vua nay cầu
đức Phật cũng nên như vậy. Thưa đại vương ! Ðức Như Lai còn vì Nhất xiển
đề.v.v... mà diễn nói pháp yếu, huống gì là đại vương, người chẳng phải là
Nhất xiển đề mà sẽ chẳng nhờ ơn từ bi cứu tế sao ?
Nhà vua
nói rằng :
- Này
ông Kỳ Bà ! Ta trước đã từng nghe, Nhất xiển đề chẳng tin, chẳng nghe,
chẳng thể quan sát, chẳng được nghĩa lý thì vì sao đức Như Lai mà vì họ
nói pháp ?
Ông Kỳ
Bà đáp rằng :
- Thưa
đại vương ! Ví như có người, thân mang trọng bệnh. Người này đêm mơ thấy
thăng lên trên điện làm một người quan trọng, ăn uống toàn là váng sữa,
dầu, mỡ và dùng xoa vào thân nữa. Mơ nằm trên tro, ăn tro. Mơ leo lên cây
khô, hoặc cùng với loài vượn du hành, ngồi, nằm. Mơ chìm xuống nước, ngập
trong bùn. Mơ rơi xuống từ lầu điện, núi cao, cây cối, voi ngựa, trâu
dê... Mơ thân mặc áo màu xanh, vàng, đỏ, đen mà vui cười, ca múa. Hoặc mơ
thấy cùng bọn với quạ, chim thứu, hồ ly... Mơ thấy răng, tóc rơi rụng,
thân hình trần truồng, gối đầu vào chó, ngủ trong phân bẩn thỉu. Lại mơ
cùng với người đã chết đi, đứng, ngồi, nằm, nắm tay nhau, ăn uống... Mơ
thấy rắn độc đầy đường mà đi trên đó. Hoặ mơ cùng với người nữ bới tóc
chung nhau ôm giữ, lấy lá cây Ða La làm quần áo, cưỡi xe lừa hư nát, nhắm
hướng Nam mà đi. Người đó mơ rồi, lòng sinh sầu não. Do sầu não nên thân
bệnh càng tăng. Do bệnh tăng nên những người thân thuộc sai người đi mời
thầy thuốc. Hình thể người được sai đi mời thầy thuốc khiếm khuyết, lùn,
các căn chẳng đầy đủ, đầu lấm lem bụi đất, mặc áo rách rưới, xe chở cũ
nát... Người đó nói với thầy thuốc rằng : “Hãy mau mau lên xe !” Lúc bấy
giờ, vị lương y liền tự nghĩ rằng : “Nay thấy người sứ giả này, tướng mạo
chẳng tốt thì phải biết người bệnh khó có thể liệu trị”. Nhưng lại nghĩ :
“Sứ giả tuy chẳng tốt, nhưng lại phải xem ngày coi có thể trị được không ?
Nếu là ngày bốn, ngày sáu, ngày tám, ngày mười hai, ngày mười bốn... những
ngày như vậy thì bệnh cũng khó trị !” Ông lại nghĩ : “Ngày tuy chẳng tốt
nhưng còn phải xem sao (chiêm tinh) coi có thể trị được không ? Nếu là sao
Hỏa, sao Kim, sao Mão, sao Diêm la vương, sao Thấp, sao Mãn... những sao
như vậy thì bệnh cũng khó trị”. Ông lại nghĩ: “Sao tuy chẳng tốt nhưng
lại phải xem thời tiết. Nếu là mùa thu, mùa đông và ngày vào mùa, đêm nửa
mùa, tháng vào mùa... thì phải biết là bịnh cũng khó có thể trị”. Ông lại
nghĩ : “Như vậy mọi tướng tuy lại chẳng tốt nhưng hoặc định hay chẳng định
thì phải quan sát người bệnh. Người bệnh, nếu có phước đức thì đều có thể
trị liệu, nếu không phước đức thì tuy tốt nhưng nào ích gì ?” Suy nghĩ thế
rồi, ông liền cùng đi với sứ giả. Trên đường đi, ông lại nghĩ : “Nếu người
bệnh kia có tướng trường thọ thì có thể trị liệu được, còn nếu tướng đoản
thọ thì chẳng thể trị”. Ông liền thấy đường trước có hai đứa trẻ đang ra
sức đánh nhau. Chúng nắm đầu, bứt tóc, dùng ngói đá, dao, gậy... ném, đánh
lẫn nhau. Hoặc thấy người giữ lửa tự nhiên tắt hết. Hoặc thấy người chặt
cây cối. Hoặc lại thấy người, tay kéo tấm da thuộc, theo đường mà đi. Hoặc
thấy trên đường đi có vật đánh rơi. Hoặc thấy có người cầm giữ đồ đựng
rỗng. Hoặc thấy vị Samôn đi một mình không bạn bè. Hoặc lại thấy cọp, sói,
quạ, chim thứu, chồn hoang... Ông thấy những việc đó rồi lại nghĩ rằng :
“Việc người được sai khiến... cho việc thấy các tướng trên đường đi đều là
chẳng tốt thì phải biết người bệnh chắc khó trị liệu lắm”. Ông lại nghĩ :
“Ta nếu chẳng đến thì chẳng phải là lương y. Như đến nơi ấy thì chẳng thể
cứu chữa !” Ông lại nghĩ : “Mọi tướng như vậy tuy lại chẳng lành, nhưng
hãy bỏ hết để đi đến chỗ người bệnh”. Suy nghĩ thế rồi, ở đường trước ông
lại nghe tiếng như vầy : “Vong thất, tử, táng, băng (lở), phá hoại, chặt,
lột, cởi, rơi rụng, thiêu đốt... chẳng đến, chẳng thể trị liệu, chẳng thể
cứu vớt”. Ông lại nghe ở phương Nam có tiếng chim thú, như là tiếng chim
quạ, chim thứu, chim xá lợi, hoặc tiếng chó, tiếng chuột, tiếng chồn
hoang, heo, thỏ... Nghe những tiếng đó rồi ông lại nghĩ : “Phải biết,
người bệnh này khó có thể trị liệu”. Lúc bấy giờ, ông đã vào đến nhà người
bệnh, thấy người bệnh đó lúc nóng lúc lạnh, đốt xương đau đớn, mắt đỏ rơi
lệ, tai không nghe tiếng, yết hầu thắt lại đau đớn, trên lưỡi rách nát,
hình sắc đen sạm, đầu chẳng tự kềm chế, thân thể khô đét không có mồ hôi,
đại tiểu tiện bế tắc chẳng thông. Thân bỗng phì to hồng đỏ khác thường.
Tiếng nói chẳng đều, hoặc to hoặc nhỏ, toàn thân loang lổ, xanh, vàng khác
màu. Bụng người ấy trướng đầy, lời nói chẳng rõ. Thầy thuốc thấy thế rồi,
xem bệnh hỏi rằng : “Người bệnh từ trước đến nay ý chí ra sao ?” Ðáp rằng
: “Thưa đại sư ! Người ấy từ trước kính tín Tam Bảo và chư Thiên, còn nay
thì đổi khác, dứt tình kính tín, xưa ưa ban cho nay thì san lận, xưa tính
ít ăn nay thì quá nhiều, xưa tính tình hòa thiện nay thì tệ ác, xưa tính
từ hiếu, cung kính cha mẹ nay đối với cha mẹ lòng không cung kính”. Thầy
thuốc nghe rồi liền ngữi người bệnh, nghe được mùi hương Ưu bát la, hương
trầm thủy tạp, hương tất ca đa, hương Ða dà la, hương Ða ma la bạt, hương
Uất kim, hương Chiên đàn, mùi thịt nướng, mùi rượu bồ đào, mùi gân cốt
cháy, mùi cá, mùi phân. Biết được mùi hương rồi, thầy thuốc liền chạm vào
thân, biết thân mềm mại giống như tơ lụa, hoa kiếp bối ta, hoặc cứng như
đá, hoặc lạnh như băng, hoặc nóng như lửa, hoặc nhám như cát. Lúc bấy giờ,
vị lương y thấy đủ thứ những tướng như vậy rồi, định biết người bệnh ắt
phải chết, chẳng còn nghi ngờ gì. Nhưng thầy thuốc chẳng định nói rằng,
người này sẽ chết, mà nói với người xem bệnh rằng : “Ta nay có việc vội,
ngày mai sẽ đến lại ! Người bịnh ấy cần gì thì cứ theo ý chớ ngăn cản !”
Rồi ông liền quay về nhà. Sáng hôm sau sứ giả đến, ông lại nói với người
sai rằng : “Việc của ta chưa xong, thêm chưa hòa thuốc”. Người trí phải
biết, như vậy người bệnh nhất định chết, chẳng gì nghi ngờ. Thưa đại vương
! Ðức Thế Tôn cũng vậy, đối với bọn Nhất xiển đề, giỏi biết căn tính của
chúng mà vì chúng nói pháp. Vì sao vậy ? Vì nếu chẳng vì chúng nói thì tất
cả phàm phu sẽ nói rằng, Như Lai không đại từ bi. Người có từ bi thì gọi
là Nhất thiết trí. Nếu không từ bi thì sao nói rằng người Nhất thiết trí.
Vậy nên đức Như Lai vì Nhất xiển đề mà diễn nói pháp. Thưa đại vương ! Ðức
Như Lai Thế Tôn thấy những người bệnh thường ban cho pháp dược mà người
chẳng uống thì chẳng phải lỗi của đức Như Lai. Thưa đại vương ! Bọn
Nhất xiển đề phân biệt có hai hạng, một là được thiện căn hiện tại, hai là
được thiện căn đời sau. Ðức Như Lai giỏi biết bọn Nhất xiển đề, người có
thể ở hiện tại được thiện căn thì vì họ nói pháp, người ở đời sau được thì
cũng vì họ nói pháp, hôm nay tuy không có ích nhưng tạo tác nhân duyên cho
đời sau. Vậy nên đức Như Lai vì Nhất xiển đề diễn nói pháp yếu. Nhất xiển
đề lại có hai thứ, một là lợi căn, hai là trung căn. Người lợi căn ở đời
hiện tại có thể được thiện căn. Người trung căn thì sẽ được ở đời sau. Các
đức Phật Thế Tôn chẳng nói pháp rỗng không. Thưa đại vương ! Ví như người
sạch sẽ bị rơi xuống hố xí, có thiện tri thức thấy thương xót mà trước
liền nắm tóc kéo ra khỏi. Các đức Phật Thế Tôn cũng lại như vậy, thấy các
chúng sinh rơi vào ba đường ác, dùng phương tiện cứu tế, khiến cho họ ra
khỏi. Vậy nên đức Như Lai vì Nhất xiển đề mà diễn nói pháp.
Nhà vua
nói với ông Kỳ Bà rằng:
- Nếu
giả sử đức Như Lai thẩm xét như vậy thì ta phải sáng suốt chọn lựa ngày
lành sao tốt, rồi nhiên hậu mới đi đến !
Ông Kỳ
Bà tâu vua rằng :
- Thưa
đại vương ! Trong pháp của đức Như Lai không có việc chọn lựa ngày lành,
sao tốt. Thưa đại vương ! Như người bệnh nặng còn chẳng xem ngày, thời
tiết cát hung mà chỉ cầu thầy thuốc giỏi. Nhà vua hôm nay bệnh nặng cầu vị
thầy thuốc giỏi Phật, chẳng nên chọn lựa thời tiết lành, ngày tốt. Thưa
đại vương ! Như lửa chiên đàn và lửa y lan, cả hai đều là tướng thiêu đốt
không có khác vậy. Ngày cát, ngày hung cũng lại như vậy, nếu đi đến chỗ
đức Phật đều được diệt tội. Nguyện xin đại vương ngay ngày hôm nay mau đi
đến đó !
Lúc bấy
giờ, nhà vua liền ra lệnh cho một bề tôi tên là Cát Tường mà bảo rằng :
- Này
đại thần ! Ông phải biết, ta nay muốn đi đến chỗ đức Phật Thế Tôn ! Ông
hãy mau chóng lo biện đồ cúng dường cần thiết !
Vị đại
thần tâu rằng :
- Thưa
đại vương ! Hay thay ! Hay thay ! Ðồ cúng dường cần thiết, tất cả đều có !
Vua A Xà
Thế cùng phu nhân nghiêm chỉnh xa giá, một vạn hai ngàn chiếc, năm vạn con
voi lớn mạnh mẽ. Trên mỗi một con voi đều chở ba người, đem theo tràng
phan, bảo cái, hoa hương, kỹ nhạc đủ thứ đồ cúng, không gì chẳng đầy đủ.
Kỵ mã theo dẫn đường có đến mười tám vạn người. Nhân dân sở hữu của nước
Ma Dà Ðà tháp tùng nhà vua, số ấy đầy đủ năm mươi tám vạn người. Lúc bấy
giờ, đại chúng sẵn có của thành Câu Thi Na đứng đầy mười hai do tuần, đều
từ xa nhìn thấy vua A Xà Thế cùng với quyến thuộc tìm đường mà đến. Lúc
bấy giờ, đức Phật bảo các đại chúng rằng :
- Tất cả
chúng sinh được nhân duyên gần Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác thì không
bằng có bạn lành trước tiên. Vì sao vậy ? Vì vua A Xà Thế nếu chẳng thuận
theo lời nói của ông Kỳ Già thì ngày mùng bảy tháng đến nhất định mạng
chung, đọa địa ngục A Tỳ. Vậy nên nhân duyên gần không bằng bạn lành !
Vua A Xà
Thế lại ở đường trước, nghe vua Xá Bà Ðề Tỳ Lưu Ly cưỡi thuyền vào biển
gặp lửa mà chết, Tỳ kheo Cù Dà Ly thân sống vào đất, đến ngục A Tỳ, Tu Na
Sát làm đủ thứ ác mà đi đến chỗ đức Phật thì mọi tội được diệt... Nghe
những lời nói này xong, nhà vua nói với ông Kỳ Bà rằng :
- Ta nay
tuy nghe hai lời nói như vậy nhưng còn chưa thẩm định được. Này ông Kỳ Bà
! Ông đến đây ! Ta muốn cùng ông đồng đi một con voi. Giả sử ta phải vào
địa ngục A Tỳ thì nhờ ông nắm lấy chẳng để cho ta rơi. Vì sao vậy ? Vì ta
trước đã từng nghe, người đắc đạo chẳng vào địa ngục.
Lúc bấy
giờ, đức Phật bảo các đại chúng rằng :
- Vua A
Xà Thế còn có lòng nghi ngờ. Ta nay sẽ vì ông ấy tạo tấm lòng quyết định !
Lúc bấy
giờ, trong chúng hội có một vị Bồ tát tên là Trì Nhất Thiết, bạch đức Phật
rằng :
- Thưa
đức Thế Tôn ! Như lời nói trước của đức Phật, tất cả các pháp đều không
định tướng, như là sắc không định tướng... cho đến Niết Bàn cũng không
định tướng thì vì sao hôm nay đức Như Lai nói rằng, vì vua A Xà Thế tạo
tác lòng quyết định ?
Ðức Phật
dạy rằng :
- Hay
thay ! Hay thay ! Này thiện nam tử ! Ta nay nhất định vì vua A Xà Thế tạo
tác lòng quyết định. Vì sao vậy ? Vì nếu lòng nghi ngờ của vua có thể phá
hoại được thì phải biết là, các pháp không có định tướng. Vậy nên ta vì
vua A Xà Thế tạo tác quyết định tâm. Ông phải biết, tâm này là không quyết
định. Này thiện nam tử ! Nếu tâm vua đó là quyết định thì nghịch tội của
vua làm sao có thể hoại. Do không định tướng nên tội ấy có thể hoại. Vậy
nên ta vì vua A Xà Thế tạo tác tâm quyết định.
Lúc bấy
giờ, vị đại vương đã đến vùng Ta La Song Thọ, tới chỗ đức Phật, chiêm
ngưỡng đức Như Lai với ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp giống như
núi vàng ròng vi diệu. Bấy giờ, đức Thế Tôn phát ra tám thứ tiếng, bảo
rằng :
- Này
đại vương !
A Xà Thế
quay nhìn bên trái, bên phải và nghĩ : “Trong đại chúng này ai là đại
vương ! Ta đã phạm tội nghịch, lại không có phước đức, đức Như Lai chẳng
nên xưng ta là đại vương”. Bấy giờ đức Như Lai lại liền kêu lên rằng :
- Này
đại vương A Xà Thế !
Nhà vua
nghe rồi, lòng rất hoan hỷ, liền nghĩ như vầy : “Ðức Như Lai hôm nay hạ cố
dùng lời ái ngữ. Ta biết quả thật đức Như Lai đối với các chúng sinh đại
bi thương xót bình đẳng không sai biệt”. Vua liền bạch đức Phật rằng :
- Thưa
đức Thế Tôn ! Lòng nghi ngờ của con hôm nay vĩnh viễn không còn nữa. Con
nhất định biết đức Như Lai chân thật là đấng Vô thượng đại sư của chúng
sinh.
Lúc bấy
giờ, Bồ tát Ca Diếp nói với Bồ tát Trì Nhất Thiết rằng :
- Ðức
Như Lai đã vì vua A Xà Thế tạo tác tâm quyết định.
Vua A Xà
Thế liền bạch đức Phật rằng :
- Thưa
đức Thế Tôn ! Giả sử hôm nay, con được cùng với Phạm Vương, Thích Ðề Hoàn
Nhân ngồi đứng, ăn uống còn chẳng hân hoan bằng được gặp đức Như Lai với
một lời đoái hoài đến con rất lấy làm vui mừng.
Bấy giờ
vua A Xà Thế liền đem tràng phan, bảo cái, hương hoa, kỹ nhạc đã mang theo
để cúng dường, trước làm lễ dưới chân đức Phật, nhiễu quanh về bên phải ba
vòng. Lễ kính xong rồi, lui về ngồi một phía.
Lúc bấy
giờ, đức Phật bảo vua A Xà Thế rằng :
- Này
đại vương ! Hôm nay ta sẽ vì ông nói chánh pháp yếu. Ông phải một lòng
lắng nghe ! Lắng nghe ! Người phàm phu thường phải ràng buộc lòng quan sát
thân có hai mươi việc.
Một là
trong thân này của ta rỗng không, vô lậu.
Hai là
không có các căn lành.
Ba là
sinh tử này của ta chưa được điều thuận.
Bốn là
rơi rớt xuống hầm sâu, không chỗ nào chẳng sợ.
Năm là
dùng phương gì để được thấy Phật tính.
Sáu là
làm sao tu định để được thấy Phật tính.
Bảy là
sinh tử, thường, khổ, vô thường, ngã, tịnh.
Tám là
nạn tám nạn khó được xa lìa.
Chín là
thường bị sự truy đuổi của oán gia.
Mười là
không có một pháp có thể ngăn chận các hữu.
Mười một
là đối với ba đường ác chưa được giải thoát.
Mười hai
là đầy đủ chủng loại những ác tà kiến.
Mười ba
là cũng chưa tạo lập bến qua khỏi ngũ nghịch.
Mười bốn
là sinh tử không bờ cõi mà chưa được bờ biên ấy.
Mười lăm
là chẳng tạo tác các nghiệp thì chẳng bị quả báo.
Mười sáu
là không có ngã làm người khác thọ quả.
Mười bảy
là chẳng tạo nhân duyên vui thì nhất định không có kết quả vui.
Mười tám
là nếu có tạo nghiệp thì quả nhất định chẳng mất. Mười chín là
nhân vô minh sinh thì cũng nhân đó mà tử.
Hai mươi
là quá khứ, vị lai và hiện tại thường làm phóng dật. Này đại vương ! Người
phàm phu phải đối với thân này thường tạo tác hai mươi thứ quan sát như
vậy. Tạo tác sự quan sát này rồi thì chẳng ưa sinh tử mà chẳng ưa sinh tử
thì được chỉ quán. Bấy giờ, theo thứ lớp quan sát tướng tâm sinh, tướng
trụ, tướng diệt. Theo thứ lớp quan sát tướng tâm sinh, trụ, diệt rồi thì
định, tuệ, tấn, giới cũng lại như vậy. Quan sát sinh, trụ, diệt rồi, biết
tướng tâm... cho đến tướng giới thì nhất định chẳng làm ác, không có nỗi
sợ chết, nỗi sợ ba đường ác. Nếu hành giả chẳng ràng buộc lòng quan sát
hai mươi việc như vậy thì lòng buông lung, không việc ác nào chẳng làm.
Vua A Xà
Thế thưa rằng :
- Như
con hiểu được ý nghĩa của câu nói đức Phật thì con từ xưa đến giờ chưa
từng quan sát hai mươi việc này nên đã tạo nên mọi nghiệp ác. Ðã tạo mọi
nghiệp ác nên con có nỗi sợ chết, nỗi sợ ba đường ác. Thưa đức Thế Tôn !
Tự con đã rước lấy tai ương, tạo tác tội ác nặng nề ấy, phụ vương không có
tội mà ngang ngược gia thêm nghịch hại. Hai mươi việc quán này mà giả sử
chẳng quan sát thì nhất định phải đọa vào địa ngục A Tỳ.
Ðức Phật
bảo rằng :
- Này
đại vương ! Tính tướng của tất cả các pháp vô thường, không có quyết định
thì sao nhà vua nói rằng, nhất định phải đọa địa ngục A Tỳ ?
Vua A Xà
Thế bạch đức Phật rằng :
- Thưa
đức Thế Tôn ! Nếu tất cả pháp không định tướng thì tội giết cha của con
cũng nên chẳng định. Nếu tội giết định thì tất cả các pháp chẳng phải bất
định.
Ðức Phật
dạy rằng :
- Này
đại vương ! Hay thay ! Hay thay ! Các đức Phật Thế Tôn nói rằng, tất cả
pháp đều không định tướng, nhà vua lại có thể biết giết cũng chẳng định.
Vậy nên phải biết giết không định tướng. Này đại vương ! Như lời ông nói,
phụ vương không tội mà ngang ngược gia thêm nghịch hại, thì ai là cha ?
Chỉ đối với năm ấm giả danh chúng sinh mà vọng sinh ra tư tưởng cha. Ở
trong mười hai nhập, mười tám giới thì cái gì là cha ? Nếu sắc là cha thì
bốn âm còn lại nên chẳng phải. Nếu bốn âm còn lại là cha thì sắc cũng nên
chẳng phải. Nếu sắc và chẳng phải sắc hợp lại là cha thì không có điều
này. Vì sao vậy ? Vì sắc cùng chẳng phải sắc, tính chúng không hợp. Này
đại vương ! Chúng sinh phàm phu đối với sắc ấm này vọng sinh ra tư tưởng
cha. Như vậy thì sắc ấm cũng chẳng thể hại. Vì sao vậy ? Vì sắc có mười
thứ mà trong mười thứ này chỉ có một thứ sắc là có thể thấy, có thể nắm
giữ, có thể xưng hô, có thể đo lường, có thể điều khiển, có thể trói buộc.
Tuy có thể thấy... có thể trói buộc nhưng tính của sắc ấy chẳng trụ. Do
tính ấy chẳng trụ nên chẳng thể được thấy, chẳng thể nắm bắt, chẳng thể
xưng lường, chẳng thể điều khiển, trói buộc. Sắc tướng như vậy thì làm sao
có thể giết ? Nếu sắc là cha có thể giết có thể hại mà bị tội báo thì chín
thứ sắc còn lại nên chẳng phải. Nếu chín thứ còn lại chẳng phải thì nên
không có tội. Này đại vương ! Sắc có ba thứ là sắc quá khứ, vị lai và hiện
tại. Sắc quá khứ và hiện tại thì chẳng thể hại. Vì sao vậy ? Vì quá khứ
qua đi, còn hiện tại thì từng niệm từng niệm diệt mất, ngăn chận vị lai
nên gọi đó là giết. Như vậy một sắc, hoặc có thể giết, hoặc chẳng thể giết
mà có giết, chẳng giết thì sắc là bất định. Nếu sắc bất định thì giết cũng
bất định mà giết bất định nên báo cũng bất định thì sao nói rằng, nhất
định vào địa ngục ? Này đại vương ! Sự tội nghiệp của tất cả chúng sinh
thường có hai thứ, một là khinh (nhẹ), hai là trọng (nặng). Nếu lòng với
miệng làm thì gọi là khinh. Nếu thân, miệng, lòng cùng làm thì gọi là
trọng. Này đại vương ! Lòng nghĩ, miệng nói mà thân chẳng làm thì bị quả
báo nhẹ. Này đại vương ! Ngày xưa miệng ngài chẳng ra lệnh giết mà chỉ nói
là hình phạt là đủ. Này đại vương ! Nếu ngài ra lệnh cho thị thần lập đài
chém đầu vua và khi ngài ngồi xem mới chém mà còn chẳng bị tội, huống là
vua chẳng ra lệnh thì sao gọi là bị tội ? Nhà vua nếu bị tội thì các đức
Phật Thế Tôn cũng nên bị tội. Vì sao vậy ? Vì cha ngài, vị tiên vương Tần
Bà Ta La, đã từng ở chỗ các đức Phật gieo trồng các căn lành nên ngày hôm
nay được ở ngôi vua.Nếu các đức Phật chẳng thọ sự cúng dường của ông ấy
thì ông ấy chẳng được làm vua. Nếu ông ấy chẳng làm vua thì ngài chẳng vì
muốn được nước nên sinh lòng giết hại. Vậy nếu ngài giết cha phải có tội
thì chúng ta, các đức Phật, cũng nên có tội. Nếu các đức Phật Thế Tôn
không có tội thì làm sao một mình ngài có tội được vậy ? Này đại vương !
Vua Tần Bà Ta La, thuở trước có ác tâm, du hành ở trong núi Tỳ Phú La, săn
nai. Ông đi cùng khắp vùng khoáng dã đều không được gì mà chỉ thấy một vị
tiên nhân đầy đủ năm thần thông. Thấy rồi, ông liền sinh lòng ác sân nhuế
mà nghĩ : “Ta nay đi săn, sở dĩ chẳng được gì chính là do người này, phải
xua đuổi hắn đi khỏi”. Ông liền ra lệnh cho tả hữu giết người đó. Người ấy
lâm chung sinh lòng sân ác, mất hết thần thông mà thề rằng : “Ta thật vô
tội, ngươi dùng tâm, miệng ngang ngược gia hại giết chết ! Vào đời vị lai,
ta cũng sẽ trở lại dùng tâm, miệng mà gia hại ngươi như vậy”. Vị vua nghe
rồi liền sinh lòng hối hận, cúng dường tử thi. Vị vua này như vậy còn được
khinh tội, chẳng bị đọa địa ngục, huống là vua chẳng vậy mà phải đọa địa
ngục, thọ quả báo sao? Ðức tiên vương đã tự tạo ra, rồi trở lại tự nhận
lấy thì làm sao khiến cho nhà vua bị tội giết được ? Như lời vua đã nói,
Phụ vương không tội, thì sao gọi rằng không? Này đại vương ! Phàm người có
tội thì có tội báo, người không ác nghiệp thì không tội báo. Cha của ngài,
vị tiên vương, nếu không tội thì sao có quả báo ? Vua Tần Bà Ta La, ở
trong hiện thế cũng được thiện quả và cả ác quả. Vậy nên vị tiên vương
cũng lại bất định mà do bất định nên giết cũng bất định. Giết bất định thì
làm sao mà nói rằng, nhất định vào địa ngục.
Này đại
vương ! Sự cuồng hoặc của chúng sinh phàm có bốn thứ, một là tham cuồng,
hai là dược cuồng, ba là chú cuồng, bốn là bản nghiệp duyên cuồng. Này đại
vương ! Trong đệ tử của ta có bốn thứ cuồng này, tuy họ làm nhiều điều ác
nhưng nhất định chẳng ghi là người này phạm giới. Việc làm người đó chẳng
đến ba đường ác. Nếu họ trở lại được lòng thì cũng chẳng nói rằng phạm.
Nhà vua vốn tham đất nước, nghịch hại phụ vương, do tâm tham cuồng làm thì
làm sao bị tội ? Này đại vương ! Như người say rượu, nghịch hại cha hắn,
khi tỉnh dậy rồi thì lòng sinh hối hận. Ông phải biết nghiệp này cũng
chẳng bị quả báo. Nhà vua hôm nay tham say, chẳng phải bản tâm làm mà nếu
chẳng phải bản tâm thì sao gọi là bị tội. Này đại vương ! Ví như vị huyễn
sư, ở đầu đường ngã tư, huyễn hóa làm ra đủ trai, gái, voi, ngựa, chuỗi
ngọc, quần áo... Người ngu cho đó là chân thật. Người có trí biết đó chẳng
phải thật có. Giết cũng như vậy, phàm phu cho là thật, các đức Phật Thế
Tôn biết việc ấy chẳng phải chân. Này đại vương ! Ví như tiếng vang trong
vùng núi, người ngu si cho là tiếng thật, kẻ có trí biết tiếng ấy chẳng
phải chân. Giết cũng như vậy, hạng phàm phu cho là thật, các đức Phật Thế
Tôn biết việc ấy chẳng phải chân. Này đại vương ! Như người có kẻ oán giả
trá đến cận kề, người ngu si cho là thật thân, kẻ trí thông đạt mới biết
là dối trá. Giết cũng như vậy, hạng phàm phu cho là thật, các đức Phật Thế
Tôn biết việc ấy chẳng phải là chân. Này đại vương ! Như người cầm gương
soi tự thấy dáng mặt của mình, người ngu si cho là mặt chân thật, kẻ trí
rõ thông biết mặt ấy chẳng phải chân thật. Giết cũng như vậy, hạng phàm
phu cho là thật, các đức Phật Thế Tôn biết việc ấy chẳng phải là chân. Này
đại vương ! Như khi lửa cháy, người ngu si cho đó là nước, kẻ trí thông
đạt biết lửa ấy chẳng phải nước. Giết cũng như vậy, hạng phàm phu cho là
thật, các đức Phật Thế Tôn biết việc ấy chẳng phải là chân. Này đại vương
! Như thành của Càn thát bà, người ngu cho là chân thật, kẻ trí rõ đạt
biết thành ấy chẳng phải là chân. Giết cũng như vậy, hạng phàm phu cho là
thật, các đức Phật Thế Tôn biết việc ấy chẳng phải là chân. Này đại vương
! Như người trong mơ, hưởng thụ niềm vui năm dục, người ngu si cho đó là
thật, kẻ trí rõ đạt biết việc ấy chẳng phải là chân. Giết cũng như vậy,
hạng phàm phu cho là thật, các đức Phật Thế Tôn biết việc ấy chẳng phải là
chân. Này đại vương ! Pháp giết, nghiệp giết, người giết, quả báo giết và
cả giải thoát... ta đều biết rõ chúng là không có tội. Nhà vua tuy biết
giết nhưng sao gọi là có tội ? Này đại vương ! Ví như có người giỏi biết
về rượu. Như người ấy chẳng uống thì cũng chẳng say, tuy lại biết lửa
nhưng cũng chẳng đốt cháy. Nhà vua cũng như vậy, tuy lại biết giết nhưng
sao gọi rằng có tội ? Này đại vương ! Có các chúng sinh vào lúc mặt trời
mọc làm đủ thứ tội, vào lúc mặt trăng mọc lại đi trộm cướp, mặt trời, mặt
trăng chẳng mọc thì chẳng làm nên tội. Tuy nhân mặt trời, mặt trăng khiến
cho họ làm nên tội nhưng mặt trời, mặt trăng này thật chẳng đắc tội. Giết
cũng như vậy, tuy lại nhân nơi vua, nhưng nhà vua thật không có tội. Này
đại vương ! Như trong cung vua thường lệnh bảo làm thịt dê, lòng ban đầu
không sợ thì sao đối với cha riêng sinh ra lòng sợ. Tuy người và súc sinh
sự tôn ty có khác biệt nhưng ham sống, sợ chết cả hai đều không khác thì
vì sao đối với dê lòng nhẹ không sợ, còn đối với vua cha sinh ưu khổ nặng
nề ? Này đại vương ! Người thế gian là yêu thích tôi tớ chẳng được tự tại.
Vì yêu thích sự sai khiến mà làm ác hại, giả sử có quả báo thì mới là tội
yêu thích. Nhà vua chẳng tự tại thì phải có tội gì ? Này đại vương ! Ví
như Niết Bàn chẳng phải có, chẳng phải không mà cũng là có. Giết cũng như
vậy, tuy chẳng phải có, chẳng phải không mà cũng là có. Người tàm quí thì
chính là chẳng phải có, người không tàm quí thì chính là chẳng phải không.
Người thọ quả báo thì gọi đó là có. Người thấy không thì tức là chẳng phải
có, người thấy có thì tức là chẳng phải không. Có người thấy có thì cũng
gọi là có. Vì sao vậy ? Vì có người thấy có được quả báo, không người thấy
có thì không quả báo. Người thường thấy thì tức là chẳng phải không. Không
người thường thấy thì tức là chẳng phải có. Người thường thường thấy thì
chẳng được là không. Vì sao vậy ? Vì người thường thường thấy có nghiệp
quả ác. Vậy nên người thường thường thấy thì chẳng được là không. Do nghĩa
này nên tuy chẳng phải có, chẳng phải không mà cũng là có. Này đại vương !
Luận về chúng sinh thì gọi là hơi thở ra vào, đoạn dứt hơi thở ra vào nên
gọi là giết : các đức Phật Thế Tôn theo thế tục cũng nói là giết. Này đại
vương ! Sắc là vô thường, nhân duyên của sắc cũng là vô thường. Từ nhân
duyên vô thường sinh ra sắc thì sao gọi là thường ? ... cho đến thức là vô
thường, nhân duyên của thức cũng là vô thường. Từ nhân duyên vô thường
sinh ra thức thì sao gọi là thường ? Do vô thường nên khổ, do khổ nên
không, do không nên vô ngã. Nếu là vô thường, khổ, không, vô ngã thì là
giết cái gì ? Giết vô thường thì được thường Niết Bàn, giết khổ được lạc,
giết không được thật, giết vô ngã mà được chân ngã. Này đại vương ! Nếu
giết vô thường, khổ, không, vô ngã thì cùng với ngã đồng. Ta cũng giết vô
thường, khổ, không, vô ngã mà chẳng vào địa ngục thì sao ông gọi là vào?.
Lúc bấy
giờ, vua A Xà Thế theo đúng như lời đức Phật nói mà quan sát sắc... cho
đến quan sát thức. Tác khởi sự quan sát này rồi, ông liền bạch đức Phật
rằng :
- Thưa
đức Thế Tôn ! Hôm nay con mới biết sắc là vô thường... cho đến thức là vô
thường. Con trước nếu có thể biết như vậy thì đã chẳng làm nên tội. Thưa
đức Thế Tôn ! Con trước từng nghe các đức Phật Thế Tôn thường vì chúng
sinh mà làm cha mẹ. Tuy nghe lời nói đó nhưng còn chưa thẩm định, hôm nay
thì nhất định biết. Thưa đức Thế Tôn ! Con cũng từng nghe Tu Di Sơn Vương
là sự tạo thành của bốn thứ báu là vàng, bạc, lưu ly, pha lê. Nếu có nhiều
chim theo chỗ tập họp thì đồng màu với núi ấy. Tuy nghe lời nói này, nhưng
con cũng chẳng thẩm định. Hôm nay, con đi đến núi Tu Di Phật thì cùng đồng
màu mà cùng đồng màu thì biết các pháp vô thường, khổ, không, vô ngã. Thưa
đức Thế Tôn ! Con thấy ở thế gian, từ hạt Y lan sinh ra cây Y lan, chẳng
thấy hạt Y lan sinh ra cây Chiên đàn. Hôm nay con mới thấy từ hạt Y lan
sinh ra cây Chiên đàn. Hạt Y lan là thân con đó ! Cây chiên đàn thì tức là
lòng không có niềm tin căn bản vậy. Không căn là con ban đầu chẳng biết
cung kính đức Như Lai, chẳng tin Pháp, Tăng. Ðó gọi là vô căn. Thưa đức
Thế Tôn ! Con nếu chẳng gặp được Như Lai Thế Tôn thì phải ở tại đại địa
ngục trong vô lượng atăngkỳ kiếp, chịu vô lượng khổ. Con hôm nay may mắn
được diện kiến đức Phật. Do công đức được diện kiến đức Phật này mà phá
hoại tất cả ác tâm phiền não sẵn có của chúng sinh !
Ðức Phật
dạy rằng :
- Này
đại vương ! Hay thay ! Hay thay ! Ta nay biết ông nhất định có thể phá
hoại ác tâm của chúng sinh.
- Thưa
đức Thế Tôn ! Nếu con xét có thể phá hoại các ác tâm của chúng sinh thì
khiến cho con luôn ở tại địa ngục A Tỳ, trong vô lượng kiếp, vì các chúng
sinh chịu đại khổ não mà chẳng lấy làm khổ.
Lúc bấy
giờ, vô lượng nhân dân của nước Ma Dà Ðà đều phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng
Chánh Giác. Do vô lượng nhân dân phát đại tâm như vậy.v.v... nên trọng tội
sẵn có của vua A Xà Thế liền được mỏng nhỏ bớt đi. Nhà vua và phu nhân,
hậu cung thể nữ đều đồng phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Lúc bấy
giờ, vua A Xà Thế nói với ông Kỳ Bà rằng :
- Ta nay
chưa chết đã được thân trời, bỏ đi mạng ngắn ngủi mà được mạng dài lâu, bỏ
thân vô thường mà được thân thường trụ, khiến cho những chúng sinh phát
tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, tức là thân trời, mạng dài lâu, thân
thường trụ, tức là đệ tử của tất cả các đức Phật.
Nói lời
này xong, ông liền dùng đủ thứ bảo tràng, bảo phan, bảo cái, hương hoa,
chuỗi ngọc, kỹ nhạc vi diệu mà cúng dường đức Phật. Ông lại dùng kệ tụng
mà khen ngợi rằng :
Lời thật rất vi diệu Câu nghĩa khéo léo hơn
Tạng thậm thâm bí
mật Vì chúng hiển thị lên.
Lời quảng bác sẵn có
Vì chúng lược tuyên dương
Ðầy đủ lời như vậy
Khéo trị liệu chúng sinh.
Nếu có các sinh
chúng Lời này được nghe xong
Hoặc tin hoặc bất
tín
Biết là lời Thế Tôn.
Lời Phật thường êm
dịu Vì chúng nói thô hơn
Lời thô và lời dịu
Về Ðệ nhất nghĩa tôn.
Nên con hôm nay
nguyện Qui y với Thế Tôn.
Lời Như Lai một vị
Như nước biển mênh mông
Ðó gọi Ðệ nhất nghĩa
Không lời nghĩa rỗng không.
Hôm nay lời đức Phật
Ðủ thứ pháp không lường
Mọi trai gái nghe
được Ðệ nhất nghĩa
đều đồng.
Không nhân cũng
không quả Không diệt và không sinh
Ðó gọi Niết Bàn lớn
Người nghe phá kết duyên.
Như Lai vì tất cả
Thường làm cha mẹ lành
Phải biết các sinh
chúng Ðều là
con Thế Tôn.
Như Lai từ bi lớn
Vì chúng, khổ hạnh làm
Như người mê quỉ mị
Việc làm nhiều loạn cuồng.
Con nay được thấy
Phật Sở
đắc ba nghiệp lành
Công đức này con
nguyện Hồi hướng đạo Không Trên (Vô thượng)
Ðồ con nay dâng cúng
Phật pháp và chúng Tăng
Công đức nay con
nguyện Tam Bảo, đời thường tồn.
Con hôm nay sẽ được
Ðủ thứ công đức lành
Con nguyện đem phá
hoại Bốn ma của
chúng sinh.
Con gặp ác tri thức
Tội ba đời tạo nên
Nay hối ở trước Phật
Nguyện sau không dám làm.
Nguyện cho những
sinh chúng Ðều phát Bồ Ðề tâm
Buộc lòng thường suy
nghĩ Tất cả Phật mười phương
Lại nguyện các sinh
chúng Mãi phá tan não phiền
Tỏ rõ thấy Phật tính
Như Diệu Ðức (Văn Thù) vân vân.
Lúc bấy giờ, đức Thế
Tôn khen vua A Xà Thế rằng :
- Hay
thay ! Hay thay ! Nếu có người có thể phát tâm Bồ Ðề thì phải biết là
người này làm trang nghiêm đại chúng của chư Phật. Này đại vương ! Ông
thuở xưa đã ở chỗ đức Phật Tỳ Ba Thi, đầu tiên phát tâm Vô Thượng Chánh
Ðẳng Chánh Giác. Từ đó về sau, đến khi ta ra đời, ở khoản giữa thời gian
ấy, ông chưa từng đọa vào địa ngục, chịu khổ. Ðại vương phải biết rằng,
tâm Bồ Ðề mới có quả báo không lường như vậy. Này đại vương ! Từ nay về
sau thường phải siêng tu tâm Bồ Ðề. Vì sao vậy ? Vì từ nhân duyên này sẽ
được tiêu diệt vô lượng nghiệp ác vậy.
Lúc bấy
giờ, vua A Xà Thế và nhân dân toàn nước Ma Dà Ðà đứng dậy, nhiễu quanh đức
Phật, rồi từ tạ lui trở về cung. Phẩm Thiên hành, như Tạp Hoa thuyết.
PHẨM ANH NHI HẠNH
Phần XXI .
- Này thiện nam tử !
Sao gọi là Anh nhi hạnh ? Này thiện nam tử ! Chẳng thể đứng dậy, đi lại,
nói năng thì đó gọi là anh nhi (đứa trẻ con). Như Lai cũng vậy, chẳng thể
khởi dậy là Như Lai nhất định chẳng khởi dậy các pháp tướng. Chẳng thể trụ
đứng là Như Lai chẳng chấp trước tất cả các pháp. Chẳng thể lại là thân
Như Lai đi không có lay động. Chẳng thể đi là Như Lai đã đi đến Ðại Bát
Niết Bàn. Chẳng thể nói năng là Như Lai tuy vì tất cả chúng sinh diễn nói
các pháp nhưng thật không có điều gì để nói. Vì sao vậy ? Vì có điều để
nói thì gọi là pháp hữu vi mà Như Lai Thế Tôn chẳng phải là hữu vi, vậy
nên không nói. Lại, không lời nói thì giống như đứa trẻ con nói năng chưa
rõ. Tuy nó lại có nói nhưng thật cũng không lời nói. Như Lai cũng vậy, lời
nói chưa rõ tức là lời bí mật của các đức Phật. Các đức Phật tuy có lời
nói ra nhưng chúng sinh chẳng lý giải được nên gọi là không lời nói (vô
ngữ). Lại, anh nhi là gọi vật bất nhất, chưa biết lời gọi chính đáng. Tuy
gọi là vật bất nhất, chưa biết lời gọi chính đáng nhưng chẳng phải chẳng
nhân vào đây mà được nhận thức về vật. Như Lai cũng vậy, địa phương chủng
loại của tất cả chúng sinh đều khác, lời nói chẳng đồng, Như Lai phương
tiện tùy theo họ mà nói cũng khiến cho tất cả bọn họ nhân đó mà được lý
giải. Lại, anh nhi là có thể nói đại tự (chữ lớn). Như Lai cũng vậy, nói
đến đại tự như là Bà, Hòa. Hòa là hữu vi, Bà là vô vi. Ðó gọi là anh nhi.
Hòa thì gọi là vô thường, Bà thì gọi là hữu thường. Như Lai nói “thường”,
chúng sinh nghe rồi thì vì “thường pháp” nên đoạn dứt với vô thường pháp.
Ðó gọi là hạnh anh nhi. Lại, anh nhi thì chẳng biết khổ, lạc, ngày đêm,
cha, mẹ... Ðại Bồ tát cũng lại như vậy vì chúng sinh nên chẳng thấy khổ,
lạc, không có tướng ngày đêm. Ðối với các chúng sinh lòng Bồ tát ấy bình
đẳng nên không có tướng cha mẹ, thân sơ .v.v...Lại, anh nhi thì chẳng thể
tạo tác những việc lớn nhỏ. Ðại Bồ tát cũng lại như vậy, chẳng lại tạo tác
nghiệp sinh tử. Ðó gọi là chẳng tạo tác đại sự mà đại sự tức là ngũ nghịch
vậy. Ðại Bồ tát thì nhất định chẳng tạo tác tội nặng ngũ nghịch. Việc nhỏ
tức là tâm Nhị thừa mà Bồ tát thì nhất định chẳng thoái tâm Bồ Ðề mà tạo
tác Thanh Văn, Bích Chi Phật thừa. Lại, hạnh anh nhi là như lúc đứa trẻ
con kia kêu khóc thì cha mẹ liền dùng lá vàng của cây dương mà nói dỗ rằng
: “Chớ khóc ! Chớ khóc ! Ta cho con vàng đây !” Ðứa trẻ thấy rồi, sinh ra
ý tưởng về vàng ròng, liền dừng lại, chẳng khóc nữa, nhưng lá dương này
thật chẳng phải là vàng vậy. Trâu gỗ, ngựa gỗ, con trai gỗ, con gái gỗ...
đứa trẻ nhìn thấy rồi cũng lại sinh ra ý tưởng về con trai, con gái.v.v...
liền dừng lại, chẳng khóc nữa, nhưng thật chẳng phải là con trai, con gái.
Do tạo nên tư tưởng về con trai, con gái như vậy nên gọi là anh nhi. Như
Lai cũng vậy, nếu có chúng sinh muốn tạo mọi việc ác thì Như Lai vì họ nói
về ba mươi ba tầng trời thường-lạc-ngã-tịnh, đoan chính, tự do với cung
điện đẹp, hưởng thụ niềm vui ngũ dục, đối tượng của sáu căn không gì chẳng
phải là vui. Chúng sinh nghe có niềm vui như vậy nên lòng sinh ra tham
vui, dừng lại chẳng làm ác siêng năng làm nghiệp thiện của ba mươi ba
trời. Thật ra đó là sinh tử, vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh nhưng vì
độ chúng sinh nên phương tiện nói rằng, thường-lạc-ngã-tịnh. Lại, anh nhi
là nếu có chúng sinh khi chán sinh tử thì Như Lai vì họ nói về Nhị thừa
nhưng thật ra không có Nhị thừa chân thật. Do Nhị thừa nên biết được lỗi
hoạn của sinh tử, thấy được niềm vui Niết Bàn. Do việc thấy này thì có thể
tự biết có đoạn - chẳng đoạn, có chân - chẳng chân, có tu - chẳng tu, có
đắc - chẳng đắc... Này thiện nam tử ! Như đứa trẻ kia ở trong chẳng phải
vàng mà sinh ra ý tưởng vàng, Như Lai cũng vậy, ở trong bất tịnh mà nói là
tịnh. Như Lai đã được Ðệ nhất nghĩa thì không có hư dối ! Như đứa trẻ kia
đối với chẳng phải trâu, ngựa mà tác khởi ý tưởng trâu, ngựa nên nếu có
chúng sinh ở trong chẳng phải đạo mà tác khởi ý tưởng Chân đạo thì Như Lai
cũng nói chẳng phải đạo là đạo. Trong chẳng phải đạo thật không có đạo,
nhưng do có thể sinh ra chút nhân duyên đạo nên Như Lai nói chẳng phải đạo
là đạo. Như đứa trẻ kia đối với trai, gái bằng gỗ sinh ra tư tưởng con
trai, con gái, Như Lai cũng vậy, biết chẳng phải chúng sinh mà nói tướng
chúng sinh, nhưng thật không có tướng chúng sinh vậy. Nếu Phật Như Lai nói
không chúng sinh thì tất cả chúng sinh rơi vào tà kiến. Vậy nên, Như Lai
nói có chúng sinh. Ở trong chúng sinh tạo tác tướng chúng sinh thì chẳng
thể phá tướng chúng sinh vậy. Nếu ở trong chúng sinh mà phá tướng chúng
sinh thì người đó có thể được Ðại Bát Niết Bàn. Do được Ðại Niết Bàn như
vậy nên dừng lại chẳng kêu khóc. Ðó gọi là hạnh Anh nhi. Này thiện nam tử
! Nếu có người nam, người nữ thọ trì, đọc tụng, ghi chép, giải nói năm
hạnh này thì ông phải biết rằng, người này nhất định sẽ được năm hạnh như
vậy.
Bồ tát
Ca Diếp bạch đức Phật rằng :
- Thưa
đức Thế Tôn ! Như con lý giải được ý nghĩa lời nói của đức Phật thì con
cũng nhất định sẽ được năm hạnh này !
Ðức Phật
dạy rằng :
- Này
thiện nam tử ! Chẳng độc một mình ông được năm hạnh như vậy mà hôm nay
trong hội này, có chín mươi ba vạn người cũng đồng với ông được năm hạnh
này.
KINH ÐẠI BÁT NIẾT BÀN
- Quyển thứ mười tám
hết -
--- o0o ---
Mục Lục
01 |
02 |
03 | 04 |
05 |
06 | 07 |
08 |
09 | 10 |
11 |
12
13 |
14 | 15 |
16 |
17 | 18 |
19 |
20 | 21 |
22 |
23 | 24
25 |
26 | 27 |
28 |
29 | 30 |
31 | 32 |
33 |
34 | 35 |
36
--- o0o ---
|
Thư
Mục Tác Giả |
--- o0o ---
Vi tính: Thọ Huệ
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày:
01-2-2003