KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
- Hán dịch: Căn
cứ bản dịch của Tam Tạng Pháp sư
Đàm Vô Sấm,
Sa môn Tuệ Nghiêm, Tuệ Quán, và Tạ
Linh Vân sửa lại
- Đời Tống
- Việt dịch:
Tuệ Khai cư sĩ -
Phan Rang
Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
---o0o---
Quyển thứ
29
PHẨM THỨ HAI MƯƠI BA : BỒ TÁT SƯ TỬ HỐNG
Phần thứ V.
-
Bồ
tát Sư Tử Hống bạch rằng :
- Thưa
đức Thế Tôn ! Như trong Kinh nói, nếu Tỳ Bà Xá Na có thể phá phiền não thì
vì sao lại tu Xa ma tha vậy ?
Ðức Phật
dạy rằng :
- Này
thiện nam tử ! Ông nói, Tỳ Bà Xá Na phá phiền não thì nghĩa này chẳng đúng
! Vì sao vậy ? Vì khi có trí tuệ thì không phiền não, khi có phiền não thì
không trí tuệ thì sao mà nói Tỳ Bà Xá Na có thể phá phiền não ? Này thiện
nam tử ! Ví như khi sáng thì không có tối, khi tối thì không có sáng. Nếu
có người nói rằng, sáng có thể phá tối thì không có chỗ này ! Này thiện
nam tử ! Ai có trí tuệ ? Ai có phiền não mà nói trí tuệ có thể phá phiền
não ? Như cái ấy không thì không có cái phá. Này thiện nam tử ! Nếu nói
trí tuệ có thể phá phiền não thì vì đến nên phá và chẳng đến nên phá. Nếu
chẳng đến mà phá là phàm phu chúng sinh thì nên có thể phá. Nếu đến nên
phá thì ý niệm đầu tiên nên phá. Nếu ý niệm đầu tiên chẳng phá thì sau
cũng chẳng phá. Nếu mới đến liền phá tức là chẳng đến thì làm sao nói
rằng, trí tuệ có thể phá. Nếu nói đến cùng chẳng đến mà có thể phá thì
nghĩa này chẳng đúng ! Lại nữa Tỳ Bà Xá Na phá phiền não là một mình có
thể phá hay là bạn bè nên phá ? Nếu một mình có thể phá thì Bồ tát vì sao
tu tám chánh đạo ? Nếu bạn bè nên phá thì phải biết rằng, một mình chẳng
thể phá. Nếu một mình chẳng thể thì bạn bè cũng chẳng thể. Như một người
mù chẳng thể thấy sắc thì tuy có chúng bạn nhưng mù thì cũng chẳng thể
thấy. Tỳ Bà Xá Na cũng lại như vậy. Này thiện nam tử ! Như tính cứng của
đất, tính nóng của lửa, tính ẩm ướt của nước, tính chuyển động của gió mà
tính cứng của đất... cho đến tính động của gió chẳng phải nhân duyên tạo
tác mà tính của chúng tự như vậy. Như tính của bốn đại, tính của phiền não
cũng vậy, là tự đoạn. Nếu là đoạn thì làm sao mà nói rằng, trí tuệ có thể
đoạn. Do nghĩa này nên Tỳ Bà Xá Na quyết định chẳng thể phá các phiền não.
Này thiện nam tử ! Như tính của muối là mặn khiến cho vật khác mặn. Mật
vốn tính ngọt khiến cho vật khác ngọt. Nước vốn tính ẩm ướt khiến cho vật
khác ẩm ướt. Tính của trí tuệ là diệt nên khiến cho các pháp diệt thì
nghĩa này chẳng đúng ! Vì sao vậy ? Vì nếu pháp không diệt thì làm sao trí
tuệ có thể cưỡng ép khiến cho diệt được ? Nếu nói muối mặn khiến cho vật
khác mặn, tuệ diệt cũng vậy, có thể khiến cho pháp khác diệt thì điều này
cũng chẳng đúng. Vì sao vậy ? Vì tính của trí tuệ là từng niệm từng niệm
diệt. Nếu từng niệm từng niệm diệt thì làm sao mà nói có thể diệt pháp
khác. Do nghĩa này nên tính của trí tuệ chẳng phá phiền não. Này thiện nam
tử ! Tất cả các pháp có hai thứ diệt, một là tính diệt, hai là rốt ráo
diệt. Nếu tính diệt thì làm sao mà nói trí tuệ có thể diệt ? Nếu nói trí
tuệ có thể diệt phiền não như lửa thiêu đốt vật thì nghĩa này không đúng.
Vì sao vậy ? Vì như lửa thiêu đốt vật thì có để lại tàn lửa. Trí tuệ như
vậy thì nên để lại diệt tàn. Như búa chặt cây thì chỗ chặt ra có thể thấy.
Trí tuệ nếu vậy thì có gì có thể thấy ? Tuệ nếu có thể khiến cho phiền não
lìa khỏi thì như vậy phiền não nên hiện bày chỗ còn lại. Như các ngoại đạo
rời khỏi sáu đại thành thì hiện diện ở thành Câu Thi Na. Nếu phiền não đó
chẳng hiện này chỗ thừa thì biết rằng, trí tuệ chẳng thể khiến cho phiền
não lìa khỏi. Này thiện nam tử ! Tính của tất cả các pháp nếu tự rỗng
không thì ai có thể khiến cho sinh ra ? Ai có thể khiến cho diệt đi? Sinh
khác, diệt khác, không người tạo tác ! Này thiện nam tử ! Nếu tu tập định
thì được chánh trí, chính kiến như vậy. Do nghĩa này nên trong Kinh của ta
nói, nếu có Tỳ-kheo tu tập định thì có thể thấy tướng sinh diệt của năm
ấm. Này thiện nam tử ! Nếu chẳng tu định thì việc thế gian còn chẳng thể
rõ, huống là đối với việc xuất thế. Nếu người không định thì chỗ bằng cũng
ngã lăn, lòng duyên pháp khác, miệng tuyên nói lời khác, tai nghe tiếng
khác, tâm giải nghĩa khác, muốn tạo chữ khác, tay viết văn khác, muốn đi
đường khác, thân lặn lội lối khác. Nếu người có tu tập tam muội định thì
được lợi ích lớn... cho đến Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.
Này
thiện nam tử ! Ðại Bồ tát đầy đủ hai pháp có thể lợi ích lớn, một là Ðịnh,
hai là Trí. Này thiện nam tử ! Như cắt cỏ gianh (cỏ may) nắm nhanh thì
đứt, Ðại Bồ tát tu hai pháp này cũng lại như vậy. Này thiện nam tử ! Như
nhổ cây cứng mà trước dùng tay lay động thì sau dễ nhổ lên. Bồ tát tu định
tuệ cũng lại như vậy, trước dùng định khởi động, sau dùng tuệ nhổ lên. Này
thiện nam tử ! Như giặt áo bẩn, trước dùng nước tro, sau dùng nước trong
thì áo sạch sẽ. Bồ tát tu định tuệ cũng lại như vậy. Này thiện nam tử !
Như trước đọc tụng, sau thì giải nghĩa. Bồ tát tu định tuệ cũng lại như
vậy. Này thiện nam tử ! Ví như người dũng mãnh, trước dùng giáp đồng, binh
khí tự trang bị chắc chắn, nhiên hậu ra trận mới có thể phá hoại được giặc
oán thù. Bồ tát tu định tuệ cũng lại như vậy. Này thiện nam tử ! Ví như
người thợ khéo với cây kềm, chiếc búa đập và thỏi kim loại mà tự tại theo
ý nhào nặn nấu chảy. Bồ tát tu định tuệ cũng lại như vậy. Này thiện nam tử
! Ví như tấm gương sáng soi rõ hình dáng của mặt. Bồ tát tu định tuệ cũng
lại như vậy. Này thiện nam tử ! Như trước làm bằng phẳng đất rồi nhiên hậu
mới xuống giống. Trước theo thầy thọ giáo rồi sau tư duy nghĩa lý, Bồ tát
tu định tuệ cũng lại như vậy. Do nghĩa này nên Ðại Bồ tát tu hai pháp này,
điều phục nhiếp lấy năm căn, kham nhẫn mọi khổ như là đói khát, nóng lạnh,
đánh đập, mạ nhục, sự cắn xé của ác thú, sự chích hút của muỗi mòng... Bồ
tát luôn nhiếp lấy tâm chẳng để cho phóng dật, chẳng vì lợi dưỡng mà hành
động phi pháp, khách trần phiền não chẳng thể làm ô nhiễm, chẳng bị sự mê
hoặc của các tà kiến, dị kiến, thường có thể xa lìa các giác quán ác,
chẳng bao lâu sẽ thành tựu Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, vì muốn thành
tựu lợi ích cho chúng sinh. Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát tu hai pháp này
thì bốn luồng gió dữ điên đảo chẳng thể thổi động như núi Tu Di tuy bị sự
thổi mạnh của bốn gió nhưng chẳng thể làm cho lay động, chẳng bị sự nhổ
bật của tà sư ngoại đạo như Ðế Thích Tràng chẳng thể di động, mọi tà dị
thuật chẳng thể lừa dối mê hoặc, thường thọ đệ nhất an lạc vi diệu, có thể
giải được nghĩa bí mật của Như Lai, hưởng thọ niềm vui chẳng mừng, gặp
phải nỗi khổ chẳng buồn, chư thiên, người đời cung kính khen ngợi, thấy
sáng tỏ sinh tử và chẳng phải sinh tử, giỏi có thể biết rõ pháp giới và
pháp tính, thân có pháp Thường Lạc Ngã Tịnh. Ðó gọi là Ðại Niết Bàn Lạc.
Này
thiện nam tử ! Ðịnh tướng là gọi Không tam muội. Tuệ tướng là gọi Vô
nguyện tam muội. Xả tướng là gọi Vô Tướng tam muội. Này thiện nam tử ! Nếu
có Ðại Bồ tát khéo biết lúc nào định, lúc nào tuệ, lúc nào xả và biết lúc
chẳng phải lúc thì đó gọi là Ðại Bồ tát hành đạo Bồ Ðề !
Bồ tát
Sư Tử Hống bạch rằng :
- Thưa
đức Thế Tôn ! Sao gọi là Bồ tát biết thời (lúc) và phi thời (chẳng phải
lúc) ?
- Này
thiện nam tử ! Ðại Bồ tát nhân được thọ lạc sinh ra kiêu mạn, hoặc nhân
nói pháp mà sinh ra kiêu mạn, hoặc nhân tinh cần mà sinh ra kiêu mạn, hoặc
nhân lúc giải nghĩa khéo hỏi đáp mà sinh ra kiêu mạn, hoặc nhân gần gũi ác
tri thức mà sinh ra kiêu mạn, hoặc nhân bố thí vật ái trọng của mình mà
sinh ra kiêu mạn, hoặc nhân công đức của thiện pháp thế gian mà sinh ra
kiêu mạn, hoặc nhân sự cung kính của người giàu sang ở thế gian mà sinh ra
kiêu mạn... thì phải biết là những lúc như vậy chẳng nên tu Trí mà phải
nên tu Ðịnh. Ðó gọi là Bồ tát biết thời và phi thời. Như có Bồ tát siêng
tu tinh tấn chưa được niềm vui lợi ích Niết Bàn. Rồi do chẳng được nên
sinh tâm hối tiếc, do độn căn nên chẳng thể điều phục năm tình, các căn,
do thế lực của các phiền não bẩn hưng thịnh nên tự nghi ngờ giới luật có
suy tổn... thì phải biết là những lúc như vậy chẳng nên tu Ðịnh mà phải
nên tu Trí. Ðó gọi là Bồ tát biết thời và phi thời. Này thiện nam tử ! Nếu
có Bồ tát mà hai pháp Ðịnh Tuệ chẳng bình đẳng thì phải biết lúc ấy chẳng
nên tu Xả, còn hai pháp nếu bình đẳng thì nên tu. Ðó gọi là Bồ tát biết
thời và phi thời. Này thiện nam tử ! Nếu có Bồ tát tu Ðịnh Tuệ mà khởi lên
phiền não thì phải biết lúc ấy chẳng nên tu Xả, cần nên đọc tụng, ghi
chép, giải nói mười hai bộ Kinh, niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm
Giới, niệm Thiên (trời), niệm Xả. Ðó gọi là tu Xả. Này thiện nam tử ! Nếu
có Bồ tát tu tập ba pháp tướng như vậy thì do nhân duyên này mà được Vô
Tướng Niết Bàn.
Bồ tát
Sư Tử Hống bạch rằng :
- Thưa
đức Thế Tôn ! Không mười tướng nên gọi Ðại Niết Bàn là vô tướng thì lại do
nhân duyên gì mà gọi là vô sinh, vô xuất, vô tác, nhà cửa, châu thổ, qui
y, yên ổn, diệt độ, Niết Bàn, tịch tịnh, không các bệnh khổ, không sở hữu
vậy ?
Ðức Phật
dạy rằng :
- Này
thiện nam tử ! Không nhân duyên nên gọi Vô sinh. Do vô vi nên gọi là vô
xuất. Không tạo nghiệp nên gọi là vô tác. Chẳng vào năm kiến nên gọi là
ốc trạch (nhà cửa). Lìa khỏi bốn dòng nước dữ nên gọi là châu (châu thổ :
vùng đất ven sông ven biển). Ðiều phục chúng sinh nên gọi là qui y. Phá
hoại giặc kết sử nên gọi là yên ổn. Các lửa kết diệt nên gọi là Diệt độ.
Lìa khỏi giác quán nên gọi là Niết Bàn. Xa nơi rối loạn ồn ào nên gọi là
tịch tịnh. Ðoạn vĩnh viễn việc phải chết nên gọi là vô bệnh. Tất cả không
nên gọi là vô sở hữu. Này thiện nam tử ! Nếu Ðại Bồ tát khi tác khởi sự
quan sát này thì liền được sáng tỏ, thấy được Phật tính.
Bồ tát
Sư Tử Hống bạch rằng :
- Thưa
đức Thế Tôn ! Ðại Bồ tát thành tựu bao nhiêu pháp thì có thể thấy được từ
vô tướng Niết Bàn đến vô sở hữu như vậy ?
Ðức Phật
dạy rằng :
- Này
thiện nam tử ! Ðại Bồ tát thành tựu mười pháp thì có thể thấy rõ Niết Bàn
vô tướng... đến vô sở hữu. Những gì là mười ?
Một là
lòng tin đầy đủ. Sao gọi là lòng tin đầy đủ ? Thân tín Phật, Pháp, Tăng là
thường; các đức Phật mười phương là phương tiện thị hiện; tất cả chúng
sinh và nhất xiển đề đều có Phật tính. Chẳng tin : Như Lai sinh già bệnh
chết và tu khổ hạnh; Ðề Bà Ðạt Ða chân thật phá Tăng, làm chảy máu thân
Phật; Như Lai rốt ráo vào với Niết Bàn; chính pháp diệt tận. Ðó gọi là Bồ
tát tín tâm đầy đủ.
Hai là
Tịnh giới đầy đủ. Sao gọi là tịnh giới đầy đủ ? Này thiện nam tử ! Nếu có
Bồ tát tự nói là tịnh giới. Bồ tát ấy tuy chẳng cùng người con gái kia hòa
hợp nhưng khi gặp nữ nhân thì cùng chung nói cười đùa giỡn. Bồ tát như vậy
là thành tựu dục pháp, hủy phá tịnh giới, ô nhục phạm hạnh khiến cho giới
xen lẫn dơ bẩn, chẳng được gọi là Tịnh giới đầy đủ. Lại có Bồ tát tự nói
là Tịnh giới. Bồ tát này tuy chẳng cùng người con gái kia hòa hợp thân,
nói cười đùa giỡn, nhưng ở ngoài tường ngăn, xa nghe đủ thứ những tiếng va
chạm của chuỗi ngọc, vòng xuyến... mà lòng sinh ái trước. Bồ tát như vậy
là thành tựu dục pháp, hủy phá tịnh giới, ô nhục phạm hạnh khiến cho giới
xen lẫn dơ bẩn, chẳng được gọi là Tịnh giới đầy đủ. Lại có Bồ tát tự nói
là tịnh giới. Bồ tát này tuy lại chẳng cùng với nữ nhân hòa hợp, nói cười
đùa giỡn và nghe âm thanh đồ trang sức ấy, nhưng khi thấy người con trai
theo đuổi con gái hay khi thấy người con gái theo đuổi con trai thì liền
sinh ra tham trước. Bồ tát như vậy là thành tựu dục pháp, hủy phá tịnh
giới, ô nhục phạm hạnh khiến cho giới xen lẫn dơ bẩn, chẳng được gọi là
tịnh giới đầy đủ. Lại có Bồ tát tự nói là tịnh giới. Bồ tát này tuy lại
chẳng cùng nữ nhân hòa hợp, nói cười đùa giỡn, nghe âm thanh đồ trang sức,
thấy nam nữ theo nhau, nhưng giữ giới vì muốn sinh lên trời, hưởng thụ
niềm vui ngũ dục. Bồ tát như vậy là thành tựu dục pháp, hủy phá tịnh giới,
ô nhục phạm hạnh khiến cho giới xen tạp dơ bẩn, chẳng được gọi là Tịnh
giới đầy đủ. Này thiện nam tử ! Nếu có Bồ tát trì giới thanh tịnh mà chẳng
vì Giới, chẳng vì Thi Ba la mật, chẳng vì chúng sinh, chẳng vì lợi dưỡng,
chẳng vì Bồ Ðề, chẳng vì Niết Bàn, chẳng vì Thanh Văn, Bích Chi Phật mà
chỉ vì tối thượng đệ nhất nghĩa nên hộ trì cấm giới. Này thiện nam tử ! Ðó
gọi là Bồ tát Tịnh giới đầy đủ.
Ba là
thân cận các thiện tri thức. Thiện tri thức là nếu có người có thể nói về
tín, giới, đa văn, bố thí, trí tuệ khiến cho người thọ nhận, tu hành thì
đó gọi là Bồ tát thiện tri thức.
Bốn là
ưa thích tịch tịnh. Tịch tịnh là gọi thân tâm tịch tịnh. Quan sát các pháp
và pháp giới thậm thâm thì đó gọi là tịch tịnh.
Năm là
Tinh tấn. Tinh tấn là gọi sự hết lòng quan sát bốn Thánh đế mà giả sử lửa
cháy trên đầu cũng nhất định chẳng buông bỏ. Ðó gọi là tinh tấn.
Sáu là
niệm đầy đủ. Niệm đầy đủ là gọi việc niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm
Giới, niệm Thiên, niệm Xả. Ðó gọi là Niệm đầy đủ.
Bảy là
nhuyến ngữ. Nhuyến ngữ là gọi lời nói thật, lời nói diệu, lời khi có ý
trước hỏi han, lời nói chân chính. Ðó gọi là nhuyến ngữ.
Tám là
hộ pháp. Hộ Pháp là gọi sự yêu thích chính pháp, thường ưa diễn nói, đọc
tụng, ghi chép, suy nghĩ ý nghĩa của pháp ấy, tuyên dương phô bày rộng rãi
khiến cho pháp ấy được lưu bố. Nếu thấy có người ghi chép, giải nói, đọc
tụng, khen ngợi, suy nghĩa Kinh ấy thì vì tư sinh (nhu cầu đời sống) mà
cúng dường cho họ những thứ như là y phục, ẩm thực, ngọa cụ, y dược..., vì
hộ pháp nên chẳng tiếc thân mạng. Ðó gọi là hộ pháp.
Chín là
Ðại Bồ tát thấy có người đồng học, người đồng giới có sự thiếu thốn mà đi
theo người khác xin bát nung, áo nhuộm, đồ cần để xem bệnh, y phục, ẩm
thực, ngọa cụ, phòng nhà để cung cấp cho họ.
Mười là
đầy đủ trí tuệ. Trí tuệ là gọi sự quan sát được Như Lai Thường Lạc Ngã
Tịnh, tất cả chúng sinh đều có Phật tính, quan sát được hai tướng của pháp
như là không hay chẳng không, thường hay vô thường, lạc hay vô lạc, ngã
hay vô ngã, tịnh hay bất tịnh, pháp khác có thể đoạn, pháp khác chẳng thể
đoạn, pháp khác từ duyên sinh, pháp khác từ duyên thấy, pháp khác từ duyên
quả, pháp khác chẳng phải từ duyên quả. Ðó gọi là đầy đủ trí tuệ. Này
thiện nam tử ! Ðó gọi là Bồ tát đầy đủ mười pháp, liền có thể thấy rõ Niết
Bàn Vô Tướng.
Bồ tát
Sư Tử Hống bạch rằng :
- Thưa
đức Thế Tôn ! Như đức Phật trước đã bảo ông Thuần Ðà rằng, ông nay đã được
thấy Phật tính, được Ðại Niết Bàn, thành tựu Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh
Giác thì nghĩa này là sao ? Thưa đức Thế Tôn ! Như trong Kinh nói rằng,
nếu bố thí cho súc sinh thì được báo đền gấp trăm lần. Bố thí cho nhất
xiển đề được báo đền gấp ngàn lần. Bố thí cho người trì giới thì báo đền
gấp trăm ngàn lần. Nếu bố thí cho kẻ ngoại đạo đoạn trừ phiền não thì được
báo đền không lường. Bố thí cho bốn bậc đạo hướng và cả bốn quả đến Bích
Chi Phật được báo đền không lường. Bố thí cho hàng Bồ tát bất thoái và các
Ðại Bồ tát, Như Lai, Thế Tôn của thân sau cùng thì sự được phước báo vô
lượng vô biên, chẳng thể xưng kể, chẳng thể nghĩa bàn. Ðại sĩ Thuần Ðà nếu
thọ quả báo vô lượng như vậy mà quả báo đó vô tận thì khi nào ông sẽ được
Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác ? . Thưa đức Thế Tôn ! Trong Kinh lại nói
rằng, nếu người trọng tâm tạo nghiệp thiện hoặc ác thì nhất định được quả
báo, hoặc hiện thế thọ, hoặc thứ sinh thọ, hoặc đời sau thọ. Ông Thuần Ðà
trọng tâm tạo tác thiện nghiệp thì phải biết là nghiệp này nhất định thọ
báo. Nếu ông nhất định thọ báo thì làm sao được thành Vô Thượng Chánh Ðẳng
Chánh Giác ? Làm sao lại được thấy Phật tính ? Thưa đức Thế Tôn ! Trong
Kinh lại nói rằng, bố thí ba thứ người quả báo vô tận, một là người bệnh,
hai là cha mẹ, ba là Như Lai. Thưa đức Thế Tôn ! Trong Kinh lại nói rằng,
đức Phật bảo ngài A Nan là tất cả chúng sinh mà như họ không có nghiệp quả
cõi Dục thì liền được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Nghiệp cõi Sắc và
cõi Vô Sắc cũng lại như vậy. Thưa đức Thế Tôn ! Như câu kệ pháp nói :
Chẳng phải không chẳng phải trong biển, chẳng phải vào vùng núi đá, không
có địa phương xứ sở, thoát khỏi đó chẳng thọ nghiệp. Lại, ông A Ni Lâu Ðà
nói rằng, thưa đức Thế Tôn ! Con nhớ thuở xưa nhờ thí một bữa ăn mà trong
tám vạn kiếp chẳng rơi vào ba đường ác. Thưa đức Thế Tôn ! Bố thí một bữa
ăn còn được quả báo thế, huống gì ông Thuần Ðà tín tâm cúng dường đức
Phật, thành tựu đầy đủ Ðàn Ba la mật ? Thưa đức Thế Tôn ! Nếu thiện quả
báo chẳng thể tận thì bài báng Kinh Phương Ðẳng, phạm ngũ nghịch tội, hủy
bốn trọng cấm, nhất xiển đề tội làm sao có thể tận ? Làm sao có thể được
thấy Phật tính, thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác ?
Ðức Phật
dạy rằng :
- Hay
thay ! Hay thay ! Này thiện nam tử ! Chỉ có hai người được vô lượng vô
biên công đức chẳng thể xưng kể, chẳng thể tuyên nói, có thể làm cạn kiệt
dòng sông cuồng bạo sinh tử, hàng phục ma oán địch, xô ngã ma thắng tràng,
có thể chuyển pháp luân vô thượng của Như Lai : Một là người giỏi hỏi, hai
là người giỏi trả lời. Này thiện nam tử ! Trong mười lực của đức Phật thì
nghiệp lực là sâu nhất. Này thiện nam tử ! Có các chúng sinh ở trong
nghiệp duyên, lòng khinh chẳng tin, vì hóa độ họ nên ta nói lời như vậy.
Này thiện nam tử ! Tất cả tác nghiệp có khinh, có trọng. Hai nghiệp trọng
và khinh lại đều có hai, một là quyết định, hai là chẳng quyết định. Này
thiện nam tử ! Hoặc có người nói nghiệp ác không có quả. Hoặc có người nói
rằng, nghiệp ác nhất định có quả. Vậy thì sao chiên đà la Khí Hư mà được
sinh lên trời và Ương Quật Ma La được quả giải thoát ? Do nghĩa này nên
phải biết là, tạo tác nghiệp có định thì được quả, chẳng định cũng được
quả. Ta vì đoạn trừ tà kiến như vậy nên ở trong Kinh nói lời như vậy, tất
cả mọi tác nghiệp không gì chẳng được quả. Này thiện nam tử ! Hoặc có
trọng nghiệp (nghiệp nặng) có thể được làm thành khinh (nhẹ). Hoặc có
khinh nghiệp có thể được làm thành trọng. Chẳng phải tất cả mọi người chỉ
có ngu và trí. Vậy nên phải biết là, chẳng phải tất cả nghiệp đều định
được quả. Tuy nghiệp chẳng định được quả nhưng chẳng phải chẳng được. Này
thiện nam tử ! Tất cả chúng sinh, phàm có hai hạng, một là người trí, hai
là người ngu. Người có trí do lực của trí tuệ nên có thể khiến cho nghiệp
rất nặng địa ngục ở hiện thế thọ nhẹ. Người ngu si làm cho nghiệp nhẹ hiện
thế phải thọ nặng ở địa ngục.
Bồ tát
Sư Tử Hống bạch rằng :
- Thưa
đức Thế Tôn ! Nếu như vậy thì chẳng nên cầu Phạm hạnh thanh tịnh và quả
giải thoát.
Ðức Phật
dạy rằng :
- Này
thiện nam tử ! Nếu tất cả nghiệp định được quả thì chẳng nên cầu phạm hạnh
giải thoát. Do chẳng định thì tu Phạm hạnh và Giải thoát quả. Này thiện
nam tử ! Nếu có thể xa lìa tất cả ác nghiệp thì được thiện quả. Nếu xa
thiện nghiệp thì được ác quả. Nếu tất cả nghiệp định được quả thì chẳng
nên cầu tu tập Thánh đạo. Nếu chẳng tu Thánh đạo thì không giải thoát. Tất
cả Thánh nhân sở dĩ tu đạo là vì hoại định nghiệp, được khinh báo (quả báo
nhẹ), nghiệp bất định không quả báo. Nếu tất cả nghiệp định được báo thì
chẳng nên cầu tu tập Thánh đạo. Nếu người xa lìa tu tập Thánh đạo được
giải thoát thì không có chỗ này. Chẳng được giải thoát mà được Niết Bàn
thì cũng không có chỗ này. Này thiện nam tử ! Nếu tất cả nghiệp định được
quả thì việc làm cả đời thuần là nghiệp thiện thì nên phải vĩnh viễn đã
luôn thọ an lạc. Việc làm cả đời nghiệp ác rất nặng cũng nên phải vĩnh
viễn đã thọ khổ não lớn. Nghiệp quả nếu vậy thì không tu đạo giải thoát
Niết Bàn. Người làm người thọ, Bà la môn làm Bà la môn thọ. Nếu như vậy
thì chẳng nên có dòng họ hạ đẳng. Nếu hạ đẳng có thì nên luôn là người, Bà
la môn nên luôn là Bà la môn, lúc nhỏ tạo nghiệp thì nên lúc nhỏ chịu báo,
chẳng nên đến lúc trung niên, lúc già mới chịu quả báo. Lúc già tạo tác ác
nghiệp, sinh vào trong địa ngục thì thân đầu tiên ở địa ngục, chẳng nên
thọ báo liền mà nên đợi khi già rồi nhiên hậu mới thọ. Nếu khi già chẳng
giết hại thì chẳng nên lúc tráng niên được sống lâu. Nếu không sống được
thời trẻ thì làm sao đến già để nghiệp không mất ? Nếu nghiệp không mất
thì làm sao mà có tu đạo Niết Bàn ? Này thiện nam tử ! Nghiệp có hai thứ :
định và bất định. Ðịnh nghiệp có hai, một là báo định, hai là thời định.
Hoặc có báo định mà thời chẳng định, duyên hòa hợp thì thọ. Hoặc ba thời
thọ đó là hiện thọ, sinh thọ và hậu thọ. Này thiện nam tử ! Nếu định tâm
tạo tác nghiệp thiện, ác.v.v... Tạo tác rồi sinh ra lòng tin sâu sắc vui
mừng và nếu phát lên thệ nguyện cúng dường Tam Bảo thì đó gọi là Ðịnh
nghiệp. Này thiện nam tử ! Người trí thì thiện căn sâu bền khó chuyển
động. Vậy nên họ có thể khiến cho nghiệp nặng thành nhẹ. Kẻ ngu si thì căn
bất thiện thâm hậu nên có thể khiến cho nghiệp nhẹ mà trở thành quả báo
nặng. Do nghĩa này nên tất cả các nghiệp chẳng gọi là quyết định. Ðại Bồ
tát không có nghiệp địa ngục nhưng vì chúng sinh nên phát đại thệ nguyện
sinh vào trong địa ngục.
Này
thiện nam tử ! Thuở xưa, lúc chúng sinh sống lâu trăm tuổi thì hằng hà sa
số chúng sinh thọ quả báo địa ngục. Ta thấy thế rồi liền phát đại nguyện,
thọ thân địa ngục. Bồ tát bấy giờ thật không có nghiệp đó, vì chúng sinh
nên thọ quả báo địa ngục. Ta vào lúc ấy ở tại trong địa ngục trải qua vô
lượng năm, vì các tội nhân rộng mở, phân biệt mười hai bộ Kinh. Mọi người
nghe rồi, hủy hoại quả báo ác khiến cho địa ngục trống không, trừ bọn nhất
xiển đề. Ðó gọi là Ðại Bồ tát chẳng phải hiện thọ, sinh thọ, hậu thọ
nghiệp ác này. Lại nữa, này thiện nam tử ! Trong Hiền kiếp này, có vô
lượng chúng sinh rơi vào trong loài súc sinh thọ quả báo của nghiệp ác. Ta
thấy thế rồi lại phát thệ nguyện, vì muốn nói pháp độ chúng sinh nên,
hoặc làm thân hươu nai, gấu, bồ câu, vượn, rồng, rắn, chim cánh vàng, cá,
rùa, chồn, thỏ, trâu, ngựa... Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát chân thật
không có nghiệp ác súc sinh như vậy nhưng do lực đại nguyện, vì chúng sinh
nên thị hiện thọ những thân này. Ðó gọi là Ðại Bồ tát chẳng phải hiện thọ,
sinh thọ, hậu thọ ác nghiệp này. Lại nữa, này thiện nam tử ! Trong kiếp
Hiền này, lại có vô lượng vô biên chúng sinh trong loài ngã quỉ. Chúng ăn
nước ói ra, mỡ, thịt, máu mủ, đồ đại tiểu tiện, mũi dãi... sống lâu không
lường, hàng trăm ngàn vạn năm mà chưa từng nghe đến danh từ nước uống,
huống lại là tận mắt nhìn thấy và được uống. Giả sử từ xa thấy nước, sinh
tâm đi đến thì đến nơi nước biến thành lửa mạnh và mủ máu. Hoặc khi chẳng
biến đổi thì có nhiều người tay cầm mâu, kích ngăn giữ, tóm bắt khiến cho
chúng chẳng đến chỗ nước được. Hoặc khi trời tuông mưa thì nước mưa đến
thân chúng hóa thành lửa. Ðó gọi là quả báo nghiệp ác. Này thiện nam tử !
Ðại Bồ tát thật không có các quả báo nghiệp ác như vậy nhưng vì giáo hóa
chúng sinh khiến cho họ được giải thoát nên phát thệ nguyện thọ thân như
vậy. Ðó gọi là Ðại Bồ tát chẳng phải hiện thọ, sinh thọ, hậu thọ nghiệp ác
này. Này thiện nam tử ! Ta ở kiếp Hiền, sinh vào nhà giết mổ, nuôi dưỡng
gà, heo, trâu, dê, làm người săn bắn, làm ngư phủ đánh cá, sinh vào nhà
Chiên đà la làm giặc, trộm cướp... Bồ tát thật không làm những nghiệp ác
như vậy, nhưng vì độ chúng sinh, khiến cho họ được giải thoát, dùng đại
nguyện lực mà thọ thân như vậy. Ðó gọi là Ðại Bồ tát chẳng phải hiện thọ,
sinh thọ, hậu thọ nghiệp ác này. Này thiện nam tử ! Trong kiếp Hiền này,
ta lại sinh ra ở vùng biên địa, tạo tác nhiều tham dục, sân nhuế, ngu si,
quen làm việc phi pháp, chẳng tin Tam Bảo, quả báo đời sau, chẳng thể cung
kính cha mẹ, người già gần gũi, kỳ cựu, trưởng túc.... Này thiện nam tử !
Bồ tát, lúc ấy thật không có những nghiệp này, nhưng vì khiến cho chúng
sinh được giải thoát nên dùng lực đại nguyện mà sinh ra trong chỗ ấy. Ðó
gọi là Ðại Bồ tát chẳng phải hiện thọ, sinh thọ, hậu thọ nghiệp ác này.
Này thiện nam tử ! Trong kiếp Hiền này, ta lại thọ thân nữ, thân ác, thân
tham, thân sân, thân si, thân tật đố, thân keo kiệt, thân bé nhỏ (thân giả
dối ?), thân lừa dối, thân trói buộc... Này thiện nam tử ! Bồ tát lúc ấy
cũng không có những nghiệp này mà chỉ vì làm cho chúng sinh được giải
thoát nên dùng lực đại nguyện để sinh ra trong những thân ấy. Ðó gọi là
Ðại Bồ tát chẳng phải hiện thọ, sinh thọ, hậu thọ nghiệp ác này. Này thiện
nam tử ! Ở kiếp Hiền ta thọ thân Huỳnh môn không căn, hai căn và căn chẳng
định. Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát thật không có các nghiệp thân ác như
vậy, nhưng vì khiến cho chúng sinh được giải thoát nên dùng lực đại nguyện
mà sinh trong thân ấy. Ðó gọi là Ðại Bồ tát chẳng phải hiện thọ, sinh thọ,
hậu thọ nghiệp ác này. Này thiện nam tử ! Ở kiếp Hiền, ta lại tu tập pháp
của ngoại đạo Ni Kiền Tử, tín thọ pháp ấy : không thí, không từ (cúng tế),
không quả báo thí từ; không nghiệp thiện ác, không quả báo thiện ác; không
đời hiện tại và đời vị lai; không đây không đó; không có Thánh nhân; không
thân biến hóa, không đạo Niết Bàn... Này thiện nam tử ! Bồ tát thật không
có những nghiệp ác như vậy, chỉ vì khiến cho chúng sinh được giải thoát
nên dùng lực đại nguyện để thọ những tà pháp này. Ðó gọi là Ðại Bồ tát
chẳng phải hiện thọ, sinh thọ, hậu thọ nghiệp ác này.
Này
thiện nam tử ! Ta nhớ thuở xưa, cùng với Ðề Bà Ðạt Ða đều làm thương chủ
(chủ buôn bán), mỗi người đều có năm trăm người theo buôn bán, vì lợi ích
nên đi vào trong biển, thu nhặt lấy trân bảo. Do nghiệp duyên ác nên trên
đường đi gặp phải gió dữ thổi phá tan thuyền bè, bạn buôn chết hết. Lúc
bấy giờ, ta cùng với Ðề Bà Ðạt Ða nhờ quả báo chẳng giết hại nên sống lâu,
được gió thổi đưa đến đất liền. Ðề Bà Ðạt Ða tham tiếc của báu, sinh ra ưu
khổ lớn, lên tiếng gào khóc. Ta nói rằng : “Này Ðề Bà Ðạt Ða ! Chẳng nên
gào khóc !”. Ðề Bà Ðạt Ða liền nói với ta rằng : “Hãy lắng nghe ! Lắng
nghe ! Ví như có người nghèo cùng khốn khổ đi đến vùng nghĩa địa, tay nắm
lấy thây chết mà nói lời này : Xin ngươi hôm nay cho ta niềm vui chết thì
ta sẽ cho ngươi mạng sống bần cùng. Bấy giờ thây chết liền ngồi dậy nói
với người nghèo rằng: Này thiện nam tử ! Mạng sống bần cùng ngươi hãy tự
nhận lấy đi ! Ta nay rất thích niềm vui chết như vậy, thật chẳng mừng
được sự nghèo của ngươi mà sống. Nhưng ta ngày hôm nay đã không niềm vui
của sự chết còn lại kiêm thêm bần cùng thì làm sao mà chẳng gào khóc được
vậy ?”. Ta lại an ủi dỗ dành : “Ngươi hãy chớ buồn ! Nay có hai viên ngọc
giá trị vô số ta sẽ phân một viên cho ngươi !”. Ta liền phân cho và lại
nói với ông rằng : “Người có mạng có thể được báu này. Như những người kia
không mạng thì ai có thể được vậy ?”. Ta mệt mỏi lắm, đi đến dưới một cây
nằm ngủ nghỉ ngơi. Lòng tham của Ðề Bà Ðạt Ða hừng hực, vì viên ngọc còn
lại liền sinh ác tâm, đâm mù mắt ta mà cướp đoạt viên ngọc của ta. Khi ta
bị thương phát ra tiếng kêu rên rỉ. Có một người con gái đi đến chỗ ta mà
hỏi ta rằng : “Ngài vì sao mà rên rỉ như vậy ?”. Ta liền đem việc của mình
nói cho người con gái ấy. Người con gái nghe rồi lại một lần nữa hỏi ta :
“Ông tên là gì ?”. Ta liền đáp rằng : “Tên là Thật Ngữ !”. Người con gái
nói rằng : “Làm sao biết ông là Thật Ngữ vậy ?”. Ta liền lập lời thề rằng
: “Nếu ta nay đối với Ðề Bà Ðạt Ða có ác tâm thì mắt ta sẽ vĩnh viễn bị mù
lòa như vậy. Như ác tâm ấy không có thì sẽ được sáng mắt trở lại”. Ta nói
rồi thì mắt ấy bình phục như cũ. Này thiện nam tử ! Ðó gọi là Ðại Bồ tát
nói hiện thế báo (quả báo đời hiện tại). Này thiện nam tử ! Ta nghĩ, thuở
xưa, sinh vào nhà Bà la môn tại thành Phú Ðơn Na ở Nam Thiên Trúc. Lúc đó
có vị vua tên là Ca La Phú. Tính vua ấy bạo ác, kiêu mạn, tự đại, tuổi trẻ
sắc đẹp, đắm trước năm dục. Ta vào lúc ấy, vì độ chúng sinh, ở tại bên
ngoài thành đó mà tịch mặc Thiền tư. Lúc bấy giờ, mùa Xuân cây cối trổ
hoa, vị vua đó cùng với quyến thuộc, cung nhân, thể nữ ra khỏi thành du
ngoạn. Ông ở dưới rừng cây, tự vui sướng với năm dục. Các thể nữ của ông
bỏ vua đi chơi, liền đến chỗ của ta. Ta muốn vì họ đoạn tham dục nên đã vì
họ nói pháp. Vị vua tìm đến liền thấy ta tức thời sinh ra ác tâm mà hỏi ta
rằng : “Ông nay đã được quả A la hán rồi chăng ?”. Ta nói : “Chẳng được
!” . Vua lại nói : “Tu được quả Bất Hoàn rồi chăng ?”. Ta nói : “Chẳng
được!”. Vua lại nói lời này : “Ông nay nếu chưa được hai quả này tức là
đầy đủ tham dục phiền não thì sao tự buông thả quan sát những người con
gái của ta ?”. Ta liền đáp rằng : “Thưa đại vương ! Ngài phải biết rằng,
ta nay tuy chưa đoạn tham dục kết nhưng nội tâm của ta thật không tham
trước !” Vị vua nói rằng : “Này si nhân ! Trên đời có các tiên nhân uống
hơi, ăn trái cây mà thấy sắc còn tham, huống là ông tuổi trẻ, chưa đoạn
dứt tham dục thì làm sao thấy sắc mà sẽ chẳng đắm trước ?”. Ta nói : “Thưa
đại vương ! Thấy sắc chẳng đắm trước thật ra chẳng nhân vào việc uống hơi,
ăn trái cây mà đều do hệ thuộc tâm vô thường, bất tịnh”. Vị vua nói : “Nếu
có khinh người khác mà sinh ra bài báng thì làm sao được gọi là tu trì
tịnh giới ?”. Ta nói : “Thưa đại vương ! Nếu có lòng ganh ghét thì có bài
báng. Ta không lòng ganh ghét thì làm sao nói rằng bài báng ?”. Vị vua nói
rằng : “Thưa Ðại đức ! Sao gọi là giới ?”. “Thưa đại vương ! Nhẫn gọi là
giới !”. Vua nói : “Nếu nhẫn là giới thì phải cắt tai của ông. Nếu ông có
thể nhẫn thì biết là ông trì giới”. Vua liền cắt tai của ta. Ta bị cắt tai
mà nhan sắc chẳng biến đổi. Quần thần của vua thấy việc này rồi, liền can
vua rằng : “Vị đại sĩ như vậy chẳng nên gia hại !”. Vị vua bảo các bề tôi
rằng : “Các khanh làm sao biết là Ðại sĩ ?”. Các bề tôi đáp rằng : “Thấy
người này khi thọ khổ mà sắc mặt chẳng biến đổi !”. Vị vua lại nói rằng :
“Ta sẽ lại thử thách để biết có biến đổi hay chẳng biến đổi”. Vua liền cho
cắt mũi ta, chặt tay chân ta. Bấy giờ Bồ tát đã ở trong vô lượng vô biên
đời, tu tập từ bi thương xót chúng sinh khổ. Khi đó bốn vua trời lòng ôm
sân giận, mưa xuống cát, sỏi, đá. Vị vua thấy thế rồi, lòng rất kinh sợ,
lại đến chỗ của ta quì dài mà nói rằng : “Nguyện xin ngài thương xót cho
phép tôi sám hối”. Ta nói rằng : “Thưa đại vương ! Lòng ta không sân cũng
như không tham!”. Vị vua nói : “Thưa đại đức ! Làm sao được biết lòng ngài
không sân hận ?”. Ta liền lập thệ rằng : “Ta nếu chân thật không sân hận
thì khiến cho thân này của ta bình phục như cũ !”. Phát nguyện xong, thân
ta liền bình phục. Ðó gọi là Ðại Bồ tát nói hiện thế báo.
Này
thiện nam tử ! Sinh báo, hậu báo của nghiệp thiện và bất thiện nghiệp cũng
lại như vậy. Khi Ðại Bồ tát được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác thì tất
cả các nghiệp đều được hiện báo. Nghiệp ác bất thiện được hiện báo thì như
vị vua làm ác bị trời tuông mưa dữ; cũng như có người chỉ cho thợ săn chỗ
của gấu và nai sắc báu thì tay hắn bị rơi rụng. Ðó gọi là quả báo hiện thọ
của nghiệp ác. Sinh báo thì như nhất xiển đề phạm bốn trọng cấm và ngũ
nghịch tội. Hậu báo thì như người trì giới phát thệ nguyện sâu sắc rằng :
Nguyện đời vị lai luôn được thân tịnh giới như vậy. Nếu có chúng sinh lúc
thọ trăm năm, lúc thọ tám mươi năm thì nguyện ở trong họ làm Chuyển Luân
Thánh Vương để giáo hóa chúng sinh.
Này
thiện nam tử ! Nếu nghiệp định được quả báo hiện thế thì chẳng thể được
sinh báo và hậu báo. Ðại Bồ tát tu nghiệp của ba mươi hai tướng Ðại nhân
thì chẳng thể được hiện thế báo. Nếu nghiệp chẳng được ba thứ báo thì đó
gọi là bất định. Này thiện nam tử ! Nếu nói các nghiệp định được báo thì
chẳng được có tu tập Phạm hạnh, Giải thoát, Niết Bàn. Ông phải biết người
này chẳng phải đệ tử của ta, chính là quyến thuộc của ma. Nếu nói các
nghiệp có định và bất định. Ðịnh thì hiện báo, sinh báo, hậu báo. Bất định
thì duyên hòa hợp thì thọ, chẳng hòa hợp thì chẳng thọ. Do nghĩa này nên
có Phạm hạnh, Giải thoát, Niết Bàn. Ông phải biết người này là đệ tử chân
chính của ta, chẳng phải quyến thuộc của ma. Này thiện nam tử ! Tất cả
chúng sinh, bất định nghiệp thì nhiều, quyết định nghiệp thì ít. Do nghĩa
này nên có sự tu tập đạo. Có tu tập đạo nên nghiệp nặng quyết định có thể
khiến cho nhẹ thọ báo, bất định nghiệp chẳng phải sinh thọ quả báo.
Này
thiện nam tử ! Có hai thứ người : “Một là bất định tạo tác định báo, hiện
báo tạo tác sinh báo, khinh báo tạo tác trọng báo đáng nên thọ trong loài
người thì thọ tại địa ngục. Hai là định tạo tác bất định nên sinh thọ thì
trở lại là hiện thọ, trọng báo tạo tác khinh báo đáng nên thọ báo tại địa
ngục thì thọ báo nhẹ trong loài người. Hai người như vậy, một là ngu, hai
là trí. Người trí thì làm cho nhẹ báo đi, người ngu thì khiến cho báo nặng
thêm. Này thiện nam tử ! Ví như hai người có tội đối với vua. Người quyến
thuộc nhiều thì tội ấy nhẹ, kẻ quyến thuộc ít thì tội đáng nhẹ lại thành
nặng. Kẻ ngu, người trí cũng lại như vậy. Người trí nghiệp thiện nhiều nên
nghiệp nặng thì thọ báo nhẹ. Kẻ ngu nghiệp thiện ít nên nghiệp nhẹ thì thọ
báo nặng. Này thiện nam tử ! Ví như hai người, một người thì mập mạnh, một
người thì gầy yếu. Họ đều chìm vào bùn sâu thì người mập mạnh có thể ra
khỏi còn người gầy yếu thì chìm mất. Này thiện nam tử ! Ví như hai người
đều uống phải độc mà một người có chú lực và A dà đà, một người thì không
có. Người có chú và thuốc thì độc chẳng thể làm thương tổn. Người không có
chú và thuốc thì khi uống liền chết. Này thiện nam tử ! Ví như hai người
đều uống nhiều nước mà một người hỏa thế thịnh, một người yếu ớt. Người
hỏa thế nhiều thì có thể tiêu hóa, người hỏa thế yếu thì bị bịnh hoạn. Này
thiện nam tử ! Ví như hai người bị sự trói buộc của vua mà một người có
trí tuệ, một người thì ngu si. Người có trí thì có thể được giải thoát,
người ngu si thì không hạn kỳ thoát khỏi. Này thiện nam tử ! Ví như hai
người đều lặn lội trên con đường hiểm trở mà một người thì sáng mắt còn
một người thì mù lòa. Người có mắt đi thẳng qua không có hoạn nạn, còn
người mù lòa thì rơi rớt xuống hầm sâu nguy hiểm. Này thiện nam tử ! Ví
như hai người đều cùng uống rượu mà một người uống được nhiều rượu còn
một người thì uống ít rượu. Người uống được nhiều thì uống không hoạn nạn
gì, còn kẻ uống được ít thì thành hoạn nạn. Này thiện nam tử! Ví như hai
người ra trận đánh địch mà một người thì trang bị đầy đủ áp giáp, binh khí
còn một người thì thân trần (không trang bị). Người có binh khí thì có thể
phá tan oán địch, còn người thân trần thì chẳng thể tự tránh khỏi họa. Lại
có hai người quần áo dơ bẩn mà một người biết liền giặt, một người biết
chẳng giặt. Người giặt thì quần áo sạch sẽ, còn người chẳng giặt thì cấu
bẩn mỗi ngày một thêm. Lại có hai người đều cùng đi bằng xe mà một người
xe có trục có nan hoa còn một người thì xe không trục không nan hoa. Người
xe có trục có nan hoa thì theo ý mà đi, còn người xe không trục không nan
hoa thì chẳng dời khỏi chỗ. Lại có hai người đều đi trên con đường trống
vắng mà một người có lương thực còn một người thì đi không. Người có lương
thực thì qua được hiểm nghèo còn người đi không thì chẳng thể qua khỏi.
Lại có hai người bị giặc cướp mà một người có bảo tàng còn một người thì
không bảo tàng. Người có bảo tàng lòng không lo buồn còn người không bảo
tàng thì lòng sầu não. Kẻ ngu, người trí cũng lại như vậy, người có bảo
tàng thiện thì nghiệp nặng được thọ báo nhẹ, người không bảo tàng thiện
thì nghiệp nhẹ phải thọ quả báo nặng.
Bồ tát
Sư Tử Hống bạch rằng :
- Thưa
đức Thế Tôn ! Như lời đức Phật nói, chẳng phải tất cả nghiệp đều được định
quả, cũng chẳng tất cả chúng sinh quyết định thọ báo. Thưa đức Thế Tôn !
Làm sao chúng sinh khiến cho khinh báo hiện tại mà phải thọ nặng ở địa
ngục ? Trọng báo ở địa ngục mà được thọ nhẹ ở đời hiện tại ?
Ðức Phật
dạy rằng :
- Tất cả
chúng sinh thường có hai thứ, một là có trí, hai là ngu si. Nếu người có
thể tu tập thân giới, tâm tuệ thì đó gọi là người trí. Nếu kẻ chẳng thể tu
tập thân giới tâm tuệ thì đó gọi là kẻ ngu si. Sao gọi là chẳng tu thân ?
Nếu chẳng thể nhiếp lấy năm tình, các căn thì gọi là chẳng tu thân; chẳng
thể thọ trì bảy thứ tịnh giới thì gọi là chẳng tu giới; chẳng điều phục
tâm thì gọi là chẳng tu tâm; chẳng tu Thánh hạnh thì gọi là chẳng tu tuệ.
Lại nữa, chẳng tu thân là chẳng thể đầy đủ giới thể thanh tịnh. Chẳng tu
giới là thọ chứa tám thứ vật bất tịnh. Chẳng tu tâm là chẳng thể tu tập ba
thứ tướng. Chẳng tu tuệ là chẳng tu phạm hạnh. Lại nữa, chẳng tu thân là
chẳng thể quan sát thân, chẳng thể quan sát sắc và quan sát sắc tướng,
chẳng quan sát thân tướng, chẳng biết thân số, chẳng biết thân này từ đây
đến đó, ở trong phi thân mà sinh ra thân tướng, ở trong phi sắc mà tác
khởi sắc tướng. Vậy nên tham trước ngã thân, thân số thì gọi là chẳng tu
thân. Chẳng tu giới là nếu thọ giới hạ tiện thì chẳng gọi là tu giới. Thọ
trì biên giới (giới cấm ven bờ) là giới tự lợi, là giới tự điều, chẳng thể
khắp vì chúng sinh an lạc, chẳng phải là hộ trì chánh pháp Vô Thượng. Nếu
vì sinh lên trời thọ niềm vui ngũ dục thì chẳng gọi là tu giới. Chẳng tu
tâm là nếu tâm tán loạn chẳng thể chuyên nhất giữ cảnh giới của mình. Cảnh
giới của mình là bốn niệm xứ. Cảnh giới người khác như là năm dục. Nếu
chẳng thể tu bốn niệm xứ thì gọi là chẳng tu tâm. Ở trong nghiệp ác mà
chẳng khéo hộ trì tâm thì gọi là chẳng tu tuệ. Lại nữa, chẳng tu thân là
chẳng thể quan sát sâu sắc thân này vô thường, vô trụ, dễ tan vỡ, từng
niệm từng niệm diệt hoại, chính là cảnh giới của ma. Chẳng tu giới là
chẳng thể đầy đủ Thi Ba la mật. Chẳng tu tâm là chẳng thể đầy đủ Thiền Ba
la mật. Chẳng tu tuệ là chẳng thể đầy đủ Bát nhã Ba la mật. Lại nữa, chẳng
tu thân thì tham trước ngã thân và thân ngã sở, ngã thân là thường hằng
không có biến dịch. Chẳng tu giới thì vì thân mình nên làm mười nghiệp ác.
Chẳng tu tâm thì ở trong nghiệp ác chẳng thể nhiếp lấy tâm. Chẳng tu tuệ
thì do chẳng nhiếp lấy tâm nên chẳng thể phân biệt pháp thiện, ác.v.v...
Lại nữa, chẳng tu thân thì chẳng cắt đứt ngã kiến. Chẳng tu giới thì chẳng
cắt đứt giới thủ (chọn lấy giới). Chẳng tu tâm thì tác khởi nghiệp tham,
sân, hướng đến địa ngục. Chẳng tu tuệ thì chẳng cắt đứt si tâm. Lại nữa,
chẳng tu thân thì chẳng thể quan sát thân tuy không tội lỗi mà luôn chính
là oán. Này thiện nam tử ! Ví như người con trai có kẻ oán luôn theo dò
tìm sơ hở. Người trí hay biết đã hết lòng thận trọng hộ trì, nếu chẳng
thận trọng hộ trì thì bị hại. Thân của tất cả chúng sinh cũng như vậy,
thường do ăn uống, lạnh nóng nuôi dưỡng. Nếu chẳng nuôi dưỡng, giữ gìn
thận trọng như vậy thì liền phải tan hoại. Này thiện nam tử ! Như Bà la
môn phụng sự trời Lửa, thường dùng hương hoa khen ngợi, lễ bái, cúng
dường, thừa sự... hạn tròn trăm năm. Nhưng nếu một khi chạm vào lửa thì
liền cháy tay người. Lửa này tuy được cúng dường như vậy nhưng nhất định
không một ý niệm đền ơn người phụng sự. Thân của tất cả chúng sinh cũng
như vậy, tuy trong nhiều năm, dùng hương hoa tốt, chuỗi ngọc, quần áo, ẩm
thực, ngọa cụ, thuốc men chữa bệnh... mà cung cấp cho thân. Nhưng nếu nó
gặp phải những nhân duyên ác ở trong hay ở ngoài thì tức thời diệt hoại,
chẳng nhớ nghĩ đến cái ơn cung cấp y thực... của ngày trước. Này thiện nam
tử ! Ví như có vị vua nuôi bốn con rắn độc, nhốt chúng vào một cái hòm
nhỏ, đem giao cho một người lệnh cho trông nom nuôi dưỡng. Trong bốn con
rắn này, giả sử một con sinh ra sân hận thì có thể hại người. Người này
kinh sợ thường cầu ẩm thực tùy lúc giữ hộ. Rắn độc bốn đại của tất cả
chúng sinh cũng lại như vậy, nếu một đại nổi sân thì có thể hoại thân. Này
thiện nam tử ! Như người bệnh lâu cần phải chí tâm cầu thuốc trị liệu. Nếu
họ chẳng siêng cầu cứu thì nhất định phải chết chẳng nghi ngờ gì. Thân của
tất cả chúng sinh cũng như vậy, phải thường nhiếp lấy tâm chẳng để cho nó
buông lung. Nếu buông lung thì liền bị hoại diệt. Này thiện nam tử ! Ví
như cái bình đất chẳng chịu đựng được gió, mưa, đánh, đập, xô đẩy, đè nén.
Thân của tất cả chúng sinh cũng như vậy, chẳng chịu đựng được đói khát,
lạnh, nóng, gió, mưa, đánh đập, trói buộc, mắng chữi... Này thiện nam tử !
Ví như mụt nhọt chưa muồi thì luôn phải khéo giữ gìn, chẳng cho người đụng
vào. Giả sử có người đụng vào thì rất đau khổ. Thân của tất cả chúng sinh
cũng như vậy. Này thiện nam tử ! Như con la mang thai là tự hại thân của
nó. Thân của tất cả chúng sinh cũng như vậy, bên trong có gió lạnh thì
thân liền chịu khổ. Này thiện nam tử ! Ví như cây chuối sinh ra quả thì
khô. Thân của tất cả chúng sinh cũng như vậy. Này thiện nam tử ! Cũng như
cây chuối, bên trong không có quả cứng, thân của tất cả chúng sinh cũng
như vậy. Này thiện nam tử ! Như rắn, chuột, chó sói mỗi mỗi đối với nhau
luôn sinh ra lòng oán. Bốn đại của chúng sinh cũng lại như vậy. Này thiện
nam tử ! Ví như con ngỗng chúa chẳng ưa chỗ mồ mã. Bồ tát cũng vậy, đối
với thân mồ mã cũng chẳng tham lạc. Này thiện nam tử ! Như Chiên đà la bảy
đời nối tiếp nhau chẳng bỏ nghiệp ấy. Vậy nên họ bị người đời khinh rẻ.
Chủng tử của thân này cũng lại như vậy, chủng tử tinh huyết rốt ráo bất
tịnh. Do bất tịnh nên các đức Phật Bồ tát quở trách. Này thiện nam tử !
Thân này chẳng như núi Ma la gia sinh ra chiên đàn, cũng chẳng thể sinh ra
hoa Ưu bát la, hoa Phân đà lợi, hoa Chiêm bà, hoa Ma lợi ca, hoa Bà sư ca
mà nó chảy ra mũ máu bất tịnh, chỗ sinh sống dơ bẩn, xấu xí đáng ghét,
thường cùng với loài trùng ở chung một chỗ. Này thiện nam tử ! Ví như thế
gian tuy có vườn rừng thanh tịnh thượng diệu nhưng có thây chết trong đó
thì tức là bất tịnh thì mọi người đều xả bỏ, chẳng sinh lòng ái trước. Sắc
giới cũng vậy, tuy lại tịnh diệu nhưng do có thân nên các đức Phật, Bồ tát
đều cùng xả bỏ. Này thiện nam tử ! Nếu có người chẳng thể tác khởi sự quan
sát như vậy thì gọi là chẳng tu thân. Này thiện nam tử ! Chẳng tu giới là
nếu chẳng thể quan sát giới chính là thềm bậc của tất cả thiện pháp, cũng
chính là căn bản của tất cả thiện pháp. Như đất chính là chỗ sinh ra của
tất cả cây cối, chính các thiện căn là dẫn đầu thiện pháp vậy. Như vị
thương chủ kia dẫn đường các thương nhân, giới chính là Thắng tràng của
tất cả thiện pháp. Như việc lập Thắng tràng của Thiên đế thích, giới có
thể đoạn dứt vĩnh viễn tất cả nghiệp ác và ba đường ác, có thể trị liệu ác
bệnh giống như cây thuốc. Giới chính là lương thực (tư lương) để đi trên
đường nguy hiểm sinh tử. Giới chính là áo giáp, binh khí tiêu diệt giặc
kết sử ái. Giới chính là thần chú hay diệt rắn độc kết sử. Giới chính là
cây cầu để qua khỏi hành động nghiệp ác. Nếu có người chẳng thể quan sát
như vậy thì gọi là chẳng tu tịnh giới. Chẳng tu tâm là chẳng thể quan sát
tâm khinh tháo chuyển động, khó nắm bắt, khó điều phục, dong ruổi chạy
rong như con voi hung dữ. Từng niệm từng niệm qua nhanh như ánh chớp, xao
động nhiễu loạn chẳng trụ giống như con vượn. Như huyễn hóa, như lửa nóng
mới chính là căn bản của các ác. Năm dục khó thỏa mãn như lửa được củi
khô, cũng như biển cả nuốt lấy các dòng sông, như núi Mạn đà cỏ cây rậm
rạp chẳng thể quan sát sinh tử hư vọng, đắm chìm mê hoặc dẫn đến hoạn nạn
như cá cắn câu, thường đi trước dẫn đường các nghiệp đi theo giống như mẹ
sò dẫn đường các con, tham trước năm dục chẳng ưa Niết Bàn, như lạc đà ăn
mật cho đến chết chẳng đoái hoài đến cỏ sô, đắm sâu vui hiện tại chẳng
quan sát lỗi ngày sau như trâu ăn lúa chẳng sợ gậy gộc, dong ruổi cùng
khắp hai mươi lăm cõi hữu giống như gió mạnh thổi vào chỗ Ðâu la nhỉ, điều
chẳng nên cầu mà cầu không chán đủ như người không biết cầu lửa không
nóng, thường ưa sinh tử chẳng thích giải thoát như con sâu Nhiệm bà ưa cây
nhiệm bà, mê hoặc ái trước sinh tử hôi thối giống như người tù trong ngục
thích con gái của ngục tốt, cũng như heo trong chuồng ưa sống bất tịnh.
Nếu có người chẳng thể quan sát như vậy thì gọi là chẳng tu tâm. Chẳng tu
tuệ là chẳng quan sát trí tuệ có thế lực lớn như con chim cánh vàng, có
thể hủy hoại nghiệp ác, hủy hoại bóng tối vô minh giống như ánh sáng mặt
trời, có thể đánh bạt thọ ấm như nước cuốn trôi vật, đốt cháy tà kiến
giống như lửa mạnh. Tuệ chính là căn bản của tất cả thiện pháp, là chủng
tử mẹ của Phật, Bồ tát. Nếu có người chẳng thể quan sát như vậy thì gọi là
chẳng tu tuệ. Này thiện nam tử ! Trong đệ nhất nghĩa, nếu thấy thân, tướng
của thân, nhân của thân, quả của thân, tụ của thân, một thân, hai thân,
thân này, thân kia, diệt thân, đẳng thân, tu thân, người tu. Nếu có người
thấy như vậy thì gọi là chẳng tu thân. Này thiện nam tử ! Nếu thấy giới,
giới tướng, giới nhân, giới quả, thượng giới, hạ giới, giới tụ, giới nhất,
giới nhị, thử giới, bỉ giới, giới diệt, giới đẳng, giới tu và người tu
giới Ba la mật... Nếu có người thấy như vậy thì gọi là chẳng tu giới. Nếu
thấy tâm, tâm tướng, tâm nhân, tâm quả, tâm tụ, tâm cập, tâm số, tâm nhất,
tâm nhị, thử tâm, bỉ tâm, tâm diệt, tâm đẳng, tâm tu, người tu, tâm thượng
trung hạ, tâm thiện, tâm ác... Nếu có người thấy như vậy thì gọi là chẳng
tu tâm. Này thiện nam tử ! Nếu thấy tuệ, tuệ tướng, tuệ nhân, tuệ quả, tuệ
tụ, tuệ nhất, tuệ nhị, thử tuệ, bỉ tuệ, tuệ diệt, tuệ đẳng, tuệ thượng
trung hạ, độn tuệ, lợi tuệ, tuệ tu, người tu... Nếu có người thấy như vậy
thì gọi là chẳng tu tuệ. Này thiện nam tử ! Nếu có người chẳng tu thân,
giới, tâm, tuệ thì người như vậy đối với nghiệp ác nhỏ được quả báo ác
lớn. Do kinh sợ nên họ thường sinh ra ý niệm này : Ta thuộc địa ngục nên
tạo tác hạnh địa ngục. Tuy nghe người Trí nói về khổ của địa ngục nhưng
thường tác khởi ý niệm này : Như sắt đánh vào sắt, đá lại đánh vào đá, cây
tự đánh vào cây, con trùng lửa ưa lửa, thân địa ngục trở lại tương tợ địa
ngục có việc gì là khổ ? Ví như con nhặng xanh bị nước dãi nhổ ra dán dính
thì chẳng thể ra được. Người này cũng vậy ở trong tội nhỏ chẳng thể tự ra,
lòng ban đầu không ăn năn, chẳng thể tu thiện, che giấu tỳ vết (lỗi lầm).
Tuy họ có tất cả thiện nghiệp trong quá khứ nhưng đều bị sự cấu bẩn của
tội đó. Khinh báo hiện thọ sẵn có của người này chuyển thành quả ác cực
nặng ở địa ngục. Này thiện nam tử ! Như nước chứa trong đồ đựng nhỏ mà cho
vào một thăng (dụng cụ đo lường) muối thì vì nước ấy mặn đắng, khó có thể
uống được. Tội nghiệp người này cũng như vậy. Này thiện nam tử ! Ví như có
người thua người khác một tiền mà chẳng thể đền trả nên thân bị trói buộc
chịu nhiều khổ sở. Tội nghiệp của người này cũng lại như vậy.
Bồ tát
Sư Tử Hống bạch rằng :
- Thưa
đức Thế Tôn ! Người này vì sao khiến cho khinh báo hiện tại chuyển đến địa
ngục thọ ?
Ðức Phật
dạy rằng :
- Này
thiện nam tử ! Tất cả chúng sinh nếu đủ năm việc thì khiến cho khinh báo
hiện tại chuyển đến địa ngục thọ. Những gì là năm ? Một là ngu si, hai là
thiện căn nhỏ ít, ba là nghiệp ác sâu nặng, bốn là chẳng sám hối, năm là
chẳng tu nghiệp thiện căn bản. Lại có năm việc : Một là tu tập nghiệp ác,
hai là không của cải giới, ba là xa lìa các thiện căn, bốn là chẳng tu
thân, giới, tâm, tuệ, năm là gần gũi ác tri thức. Này thiện nam tử ! Vậy
nên có thể khiến cho khinh báo hiện tại chuyển đến thọ nặng ở địa ngục.
Bồ tát
Sư Tử Hống bạch rằng :
- Thưa
đức Thế Tôn ! Những người nào có thể chuyển được địa ngục báo thành thọ
quả nhẹ ở đời hiện tại ?
- Này
thiện nam tử ! Nếu có người tu tập thân, giới, tâm tuệ thì như trước đã
nói, có thể quan sát các pháp đồng như hư không, chẳng thấy trí tuệ, chẳng
thấy người trí, chẳng thấy ngu si, chẳng thấy người ngu, chẳng thấy tu tập
và người tu tập. Ðó gọi là người trí. Người như vậy thì có thể tu tập
thân, giới, tâm, tuệ. Người này có thể khiến cho quả báo địa ngục được thọ
nhẹ ở đời hiện tại. Người này giả sử tạo tác nghiệp ác rất nặng mà tư duy
quan sát có thể khiến cho nhẹ và nhỏ. Họ nghĩ rằng : Nghiệp của ta tuy
nặng nhưng chẳng bằng nghiệp thiện. Ví như hoa chồng chất tuy đến hàng
trăm cân nhưng nhất định chẳng thể địch nỗi một lượng vàng ròng, như ném
một thăng muối vào sông Hằng thì nước vẫn không vị mặn, người uống chẳng
hay biết, như kẻ giàu to tuy thua nhiều người đến hàng ngàn vạn vật báu,
nhưng không thể trói buộc khiến cho ông ấy thọ khổ, như con Ðại Hương
Tượng (con voi thơm) có hể phá hoại khóa sắt, tự tại mà đi. Người trí tuệ
cũng lại như vậy, thường tư duy rằng : Thiện lực của ta nhiều, ác nghiệp
yếu kém. Ta có thể phát lồ sám hối diệt trừ ác, có thể tu trí tuệ. Lực trí
tuệ nhiều, lực vô minh ít. Nghĩ như vậy rồi, họ gần gũi bạn lành, tu tập
chính kiến, thọ trì, đọc tụng, ghi chép, giải nói mười hai bộ Kinh. Thấy
có người thọ trì, đọc tụng, ghi chép, giải nói thì lòng họ sinh cung kính,
thêm đem y thực, phòng xá, ngọa cụ, thuốc chữa bệnh, hương hoa để cúng
dường, khen ngợi, tôn trọng người đó. Ði đến chỗ người hành trì đó, người
trí xưng nói cái thiện, chẳng nói sở đoản. Người có trí cúng dường Tam
Bảo, kính tín Kinh Phương Ðẳng Ðại Niết Bàn, tin Như Lai thường hằng,
không có biến dịch, tin tất cả chúng sinh đều có Phật tính. Người này có
thể khiến cho quả báo nặng ở địa ngục trở thành thọ nhẹ ở đời hiện tại.
Này thiện nam tử ! Do nghĩa này nên chẳng phải tất cả nghiệp đều có định
quả, cũng chẳng phải tất cả chúng sinh định thọ.
KINH ÐẠI BÁT NIẾT BÀN
- Quyển thứ hai mươi
chín hết -
--- o0o ---
Mục Lục
01 |
02 |
03 | 04 |
05 |
06 | 07 |
08 |
09 | 10 |
11 |
12
13 |
14 | 15 |
16 |
17 | 18 |
19 |
20 | 21 |
22 |
23 | 24
25 |
26 | 27 |
28 |
29 | 30 |
31 | 32 |
33 |
34 | 35 |
36
--- o0o ---
|
Thư
Mục Tác Giả |
--- o0o ---
Vi tính: Thọ Huệ
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày:
01-2-2003