KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
- Hán dịch: Căn
cứ bản dịch của Tam Tạng Pháp sư
Đàm Vô Sấm,
Sa môn Tuệ Nghiêm, Tuệ Quán, và Tạ
Linh Vân sửa lại
- Đời Tống
- Việt dịch:
Tuệ Khai cư sĩ -
Phan Rang
Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
---o0o---
Quyển thứ 32
PHẨM THỨ HAI MƯƠI TƯ
: BỒ TÁT CA DIẾP
Phần thứ II :
- Này thiện
nam tử ! Tranh tụng như vậy là cảnh giới của Phật, chẳng phải là sự hiểu
biết của các Thanh Văn, Duyên Giác. Nếu người đối với vấn đề này sinh ra
lòng nghi ngờ thì còn có thể tiêu hoại vô lượng phiền não như núi Tu Di.
Nếu người ở trong vấn đề này sinh ra quyết định thì đó gọi là chấp trước.
Bồ tát
Ca Diếp bạch đức Phật rằng :
- Thưa
đức Thế Tôn ! Sao gọi là chấp trước ?
Ðức Phật
dạy rằng :
- Này
thiện nam tử ! Người như vậy, hoặc theo người khác nghe, hoặc tự tìm ở
kinh điển, hoặc người khác dạy bảo cho mà đối với những việc đã nhận
được chẳng thể buông bỏ thì đó gọi là chấp trước.
Bồ tát
Ca Diếp lại bạch rằng :
- Thưa
đức Thế Tôn ! Như vậy chấp trước là thiện hay là bất thiện vậy ?
- Này
thiện nam tử ! Như vậy chấp trước chẳng gọi là thiện. Vì sao vậy ? Vì
chẳng thể tiêu hoại các lưới nghi.
Ngài Ca
Diếp lại bạch rằng :
- Thưa
đức Thế Tôn ! Như vậy con người vốn tự chẳng nghi ngờ thì làm sao mà nói
rằng chẳng hoại lưới nghi ?
- Này
thiện nam tử ! Luận về chẳng nghi thì tức là nghi vậy !
- Thưa
đức Thế Tôn ! Nếu có người cho là người Tu đà hoàn chẳng rơi vào ba ác thì
người đó cũng phải gọi là trước, gọi là nghi !
- Này
thiện nam tử ! Ðó có thể gọi là định, chẳng được gọi là nghi. Vì sao vậy ?
Này thiện nam tử ! Ví như có người trước thấy người và cây. Sau đó vào ban
đêm từ xa thấy rễ cây nhô lên liền phát sinh ý tưởng nghi ngờ là người hay
là cây vậy ? Này thiện nam tử ! Như người trước thấy Tỳkheo và Phạm chí,
lúc sau ở trên đường từ xa thấy Tỳkheo liền sinh ý tưởng nghi ngờ là Sa
môn hay là Phạm chí vậy ? Này thiện nam tử ! Như người trước thấy trâu và
trâu nước, lúc sau từ xa thấy trâu liền sinh ra ý tưởng nghi ngờ là trâu
hay là trâu nước vậy? Này thiện nam tử ! Tất cả chúng sinh trước thấy hai
vật thì về sau liền sinh ra nghi ngờ. Vì sao vậy ? Vì tâm chẳng liễu ngộ
vậy. Ta cũng chẳng nói người Tu đà hoàn có đoạ vào ba ác, chẳng đọa vào ba
ác thì người đó vì sao sinh ra lòng nghi ?
Bồ tát
Ca Diếp bạch rằng :
- Thưa
đức Thế Tôn ! Như lời đức Phật nói, cần phải trước thấy rồi nhiên hậu mới
nghi. Nhưng có người khi chưa thấy hai thứ vật cũng sinh nghi là sao vậy ?
Như là Niết Bàn đó ! Thưa đức Thế Tôn ! Ví như có người trên đường đi gặp
vũng nước đục, nhưng chưa từng thấy, mà vẫn sinh nghi ngờ, nước như vậy là
sâu hay cạn vậy ? Người này chưa thấy thì làm sao sinh nghi ?
- Này
thiện nam tử ! Luận về Niết Bàn thì tức là đoạn khổ, chẳng phải Niết Bàn
thì tức là khổ. Thấy của tất cả chúng sinh có hai thứ : Khổ, chẳng phải
khổ. Khổ, chẳng phải khổ thì tức là đói khát, nóng lạnh, sân giận, vui
mừng, bệnh ốm, yên ổn, già, trẻ, sinh, chết, trói buộc, giải thoát, ân ái
biệt ly, oán ghét tụ hội... Chúng sinh thấy rồi liền sinh ra nghi ngờ :
“Phải chăng có sự xa lìa rốt ráo khổ não như vậy ?”. Vậy nên chúng sinh
đối với Niết Bàn mà sinh ra nghi vậy. Theo ý ông nếu cho rằng, người này
trước khi đến chưa thấy vũng nước đục mà làm sao sinh ra nghi ngờ thì
nghĩa này không đúng. Vì sao vậy ? Vì người đó đã thấy trước chỗ khác rồi.
Vậy nên ở chỗ này chưa từng đến mà lại sinh ra nghi.
- Thưa
đức Thế Tôn ! Người này khi trước thấy chỗ sâu, cạn rồi chẳng sinh nghi,
đến nay vì sao mà lại sinh nghi ?
Ðức Phật
dạy rằng :
- Này
thiện nam tử ! Vốn chưa đi nên đã sinh ra nghi. Vậy nên ta nói rằng, chẳng
rõ nên nghi.
Bồ tát
Ca Diếp bạch đức Phật rằng :
- Thưa
đức Thế Tôn ! Như lời đức Phật nói, nghi tức là chấp trước, chấp trước tức
là nghi, là ai vậy ?
- Này
thiện nam tử ! Là người đoạn thiện căn.
Ngài Ca
Diếp bạch rằng :
- Thưa
đức Thế Tôn ! Những bọn người nào có thể đoạn thiện căn?
- Này
thiện nam tử ! Nếu có người thông minh, trí tuệ, căn tính linh lợi, có thể
giỏi phân biệt mà xa lìa bạn lành, chẳng nghe chính pháp, chẳng khéo tư
duy, chẳng theo đúng như pháp mà trụ thì người như vậy có thể cắt đứt căn
lành. Người lìa khỏi bốn việc đó thì lòng tự nghĩ suy : “Không có vật bố
thí. Vì sao vậy ? Vì thí tức là xả bỏ tài vật (của cải). Nếu bố thí có quả
báo thì phải biết thí chủ thường nên nghèo cùng. Vì sao vậy ? Vì hạt với
quả tương tợ. Vậy nên nói rằng, không nhân không quả”. Nếu nói không nhân
không quả như vậy thì đó gọi là cắt đứt căn lành. Người đó lại khởi ý nghĩ
: “Thí chủ, người nhận và cả tài vật ba việc đều vô thường, không có đình
trụ. Nếu không đình trụ thì làm sao nói rằng, đây là thí chủ, người nhận,
tài vật ? Nếu không người nhận thì làm sao được quả báo ? Do nghĩa này
nên không nhân không quả”. Nếu người nói không nhân không quả như vậy thì
phải biết người đó có thể cắt đứt căn lành. Người đó lại nghĩ rằng :
“Người bố thí khi thí có năm việc thí. Người nhận đã nhận rồi hoặc có khi
làm thiện, hoặc làm bất thiện mà thí chủ này cũng lại chẳng được quả thiện
hay bất thiện. Như pháp thế gian, từ hạt sinh ra quả, rồi quả trở lại làm
hạt. Nhân tức là thí chủ, quả tức là người nhận mà người nhận này chẳng
thể dùng pháp thiện hay bất thiện này để khiến cho thí chủ được. Do nghĩa
này nên không nhân không quả”. Nếu người nói không nhân không quả như vậy
thì phải biết người đó có thể cắt đứt căn lành. Người đó lại nghĩ : “Không
có vật thí. Vì sao vậy ? Vì vật thí vô ký. Nếu là vô ký thì làm sao mà
được quả báo thiện vậy ? Không quả báo thiện ác tức là vô ký. Của cải nếu
vô ký thì phải biết là không quả báo thiện ác. Vậy nên không thí, không
nhân, không quả”. Nêu người nói không nhân không quả như vậy thì phải biết
người đó có thể cắt đứt căn lành. Người đó lại nghĩ : “Thí tức là ý. Nếu
là ý thì không thấy, không đối tác, chẳng phải là sắc pháp. Nếu chẳng phải
là sắc pháp thì làm sao có thể thí. Vậy nên không thí, không nhân, không
quả”. Nếu người nói không nhân không quả như vậy thì phải biết người này
có thể cắt đứt căn lành. Người đó lại nghĩ : “Thí chủ nếu vì tượng Phật,
tượng trời, cha mẹ quá cố mà hành thí thì tức là không người nhận. Nếu
không người nhận thì ứng không quả báo. Nếu không quả báo thì đó là không
nhân. Nếu không nhân thì đó là không quả”. Nếu người nói không nhân không
quả như vậy thì phải biết người này có thể cắt đứt căn lành. Người đó lại
nghĩ : “Không cha, không mẹ. Nếu nói cha mẹ là nhân của chúng sinh sinh ra
chúng sinh thì theo lý nên thường sinh không có đoạn tuyệt. Vì sao vậy ?
Vì nhân thường có vậy. Nhưng mà chẳng thường sinh. Vậy nên phải biết là
không có cha mẹ”. Lại nghĩ rằng : “Không cha không mẹ. Vì sao vậy ? Vì nếu
thân chúng sinh nhân cha mẹ mà có thì một người nên đủ hai căn nam và nữ.
Nhưng mà không đủ thì phải biết là chúng sinh chẳng phải nhân cha mẹ”. Lại
nghĩ rằng : “Chẳng phải nhân cha mẹ mà sinh ra chúng sinh. Vì sao vậy ? Vì
mắt thấy chúng sinh chẳng giống cha mẹ như là thân sắc, tâm, oai nghi,
tiến lùi...Vậy nên cha mẹ chẳng phải là nhân của chúng sinh”. Lại nghĩ
rằng : “Tất cả thế gian có bốn thứ không : Một là chưa sinh ra gọi là
không như khi viên bùn chưa có công dụng của cái bình. Hai là diệt rồi gọi
là không như khi bình vỡ rồi thì đó gọi là không. Ba là đều khác lẫn nhau
không như trong trâu không ngựa, trong ngựa không trâu. Bốn là rốt ráo gọi
là không như sừng thỏ, lông rùa. Cha mẹ của chúng sinh cũng lại như vậy,
đồng với bốn không này. Nếu nói cha mẹ là nhân của chúng sinh thì khi cha
mẹ chết, con chẳng nhất định chết. Vậy nên cha mẹ chẳng phải nhân của
chúng sinh”. Lại nghĩ rằng : “Nếu nói cha mẹ là nhân của chúng sinh thì
nên nhân cha mẹ thường sinh ra chúng sinh. Nhưng mà lại có hóa sinh, thấp
sinh. Vậy nên phải biết chẳng phải nhân cha mẹ sinh ra chúng sinh vậy”.
Lại nghĩ rằng : “Tự có chúng sinh, chẳng phải nhân cha mẹ mà được sinh
trưởng. Ví như chim Khổng tước (công) nghe tiếng sấm động mà liền được có
thai. Lại như con sẻ xanh uống nước mắt con sẻ đực mà liền được có thai.
Như loài chim mạng mạng (cộng mạng) thấy con trống thì múa mà liền được có
thai”. Khi tác khởi những ý niệm này mà người ấy chẳng gặp thiện tri thức
thì phải biết người đó có thể cắt đứt căn lành. Có người lại nghĩ rằng :
“Tất cả thế gian không có quả báo thiện ác. Vì sao vậy ? Vì có những chúng
sinh đủ mười thiện pháp, ưa bố thí, siêng tu công đức mà người này cũng
lại bị bệnh tật, chết yểu, tài vật tổn thất, nhiều những ưu khổ. Có chúng
sinh làm mười điều ác, san tham, tật đố, lười biếng, giải đãi, chẳng tu
các điều thiện mà họ được thân yên không bệnh, sống lâu trọn đời, thừa
thãi của báu, không các sầu khổ. Vậy nên phải biết là không có quả báo
thiện ác”. Họ lại nghĩa rằng : “Ta cũng từng nghe các bậc Thánh nhân nói
rằng, có người tu thiện khi mạng chung đọa vào ba đường ác, có người làm
ác khi mạng chung được sinh lên cõi người, trời. Vậy nên phải biết là
không quả báo thiện, ác”. Họ lại nghĩ rằng : “Tất cả Thánh nhân có hai lối
nói, hoặc nói sát sinh được quả báo thiện, hoặc nói sát sinh được quả báo
ác. Vậy nên phải biết lời nói của Thánh bất định (chẳng quyết định). Thánh
nếu bất định thì ta làm sao định được ? Vậy nên phải biết là không quả báo
thiện ác”. Họ lại nghĩ rằng : “ Tất cả thế gian không có Thánh nhân. Vì
sao vậy ? Vì nếu nói là Thánh nhân thì nên được Chính đạo. Khi tất cả
chúng sinh đầy đủ phiền não mà tu chính đạo thì phải biết là người tu đó
đều có chính đạo và phiền não cùng một lúc. Nếu có cùng một lúc thì phải
biết là chính đạo chẳng thể phá kết. Nếu không phiền não mà tu chính đạo
thì như vậy sở tác của chính đạo là gì ? Vậy nên người đủ phiền não thì
đạo chẳng thể hoại, chẳng đủ phiền não thì đạo vô dụng. Vậy nên phải biết
là tất cả thế gian không có Thánh nhân”. Họ lại nghĩ rằng : “Vô minh duyên
hành... cho đến sinh duyên lão tử, mười hai nhân duyên này, tất cả chúng
sinh đều chung có. Tám Thánh đạo thì tính của chúng bình đẳng cũng nên như
vậy : Khi một người được thì tất cả nên được, khi một người tu thì nên tất
cả khổ diệt. Vì sao vậy ? Vì phiền não bình đẳng. Nhưng mà nay thì chẳng
được. Vậy nên phải biết là không có Chính đạo”. Họ lại nghĩ rằng : “Thánh
nhân đều có pháp đồng với phàm phu như là ăn, uống, đi, đứng, ngồi, nằm,
ngủ nghỉ, vui cười, đói khát, nóng lạnh, ưu sầu, khủng bố... Nếu họ đồng
với phàm phu trong những việc như vậy thì phải biết Thánh nhân chẳng được
đạo Thánh. nếu được đạo Thánh thì các vị ấy cần phải cắt đứt vĩnh viễn
những việc như vậy. Những việc như vậy mà các vị ấy chẳng cắt đứt thì phải
biết không có Thánh đạo”. Họ lại nghĩ rằng : “Thánh nhân có thân hưởng thọ
niềm vui năm dục, cũng lại nhục mạ đánh đập người, ganh ghét, kiêu mạn,
chịu khổ vui, tạo tác nghiệp thiện ác... Do nhân duyên này nên biết không
có Thánh nhân. nếu có đạo thì nên cắt đứt việc này. Việc này chẳng cắt đứt
thì phải biết là không có đạo”. Họ lại nghĩ rằng : “Người nhiều lân mẫn
thì gọi là Thánh nhân. Vì nhân duyên gì gọi là Thánh nhân ? Vì nhân duyên
đạo nên gọi là Thánh nhân. Nếu tính của đạo là lân mẫn thì nên thương nghĩ
đến tất cả chúng sinh chẳng đợi tu rồi nhiên hậu mới được. Như đạo ấy
không lân mẫn thì vì sao Thánh nhân nhân được đao Thánh có thể lân mẫn vậy
? Vậy nên phải biết là đời không có Thánh đạo”. Họ lại nghĩ rằng : “Tất cả
bốn đại chẳng từ nhân sinh mà chúng sinh đều có tính bốn đại này thì chẳng
quan sát chúng sinh bên này nên đến, bên kia chẳng nên đến. Nếu có tính
Thánh đạo thì nên như vậy. Nhưng mà nay chẳng vậy. Vậy nên phải biết là
đời không có Thánh nhân”. Họ lại nghĩ rằng : “Nếu các Thánh nhân có một
Niết Bàn thì phải biết là không có Thánh nhân. Vì sao vậy ? Vì chẳng thể
được vậy. Theo lý của pháp thường trụ thì chẳng thể được, chẳng thể lấy
hay bỏ (thủ xả). Nếu các Thánh nhân Niết Bàn nhiều thì tức là vô thường.
Vì sao vậy ? Vì pháp có thể tính vậy. Niết Bàn nếu khi mỗi một người được
thì tất cả nên được. Niết Bàn nếu nhiều thì tức là có biên mà biên (giới)
thì làm sao gọi là Thường ? Nếu có người nói rằng, thể của Niết Bàn là một
mà giải thoát thì nhiều như vòm miệng là một mà răng, lưỡi thì nhiều.
Nghĩa lý này chẳng đúng ! Vì sao vậy ? Vì mỗi một đều sở đắc riêng, chẳng
phải tất cả được. Vì cũng có biên nên là ứng với vô thường. Nếu đã vô
thường thì làm sao được gọi là Niết Bàn vậy ? Niết Bàn nếu không thì ai là
Thánh nhân. Vậy nên phải biết là không có Thánh nhân”. Họ lại nghĩ rằng :
“Ðạo Thánh nhân chẳng phải nhân duyên được. Nếu đạo Thánh nhân chẳng phải
nhân duyên được thì vì sao tất cả chẳng làm Thánh nhân ? Nếu tất cả người
chẳng phải Thánh nhân thì phải biết là không có Thánh nhân và cả Thánh
đạo”. Họ lại nghĩ rằng : “Ðức Thánh nói, chánh kiến có hai nhân duyên, một
là từ người khác nghe pháp, hai là bên trong tự suy nghĩ. Hai nhân duyên
này nếu từ duyên sinh ra thì cái chỗ từ đó sinh ra lại từ duyên sinh ra.
Như vậy đắp đổi có đến vô cùng vậy. Còn nếu hai việc này chẳng từ duyên
sinh ra thì tất cả chúng sinh vì sao chẳng được...”. Khi tác khởi những sự
quan sát này thì có thể cắt đứt căn lành. Này thiện nam tử ! Nếu có chúng
sinh thấy sâu không nhân, không quả như vậy thì người đó có thể cắt đứt
Tín căn.v.v... năm căn. Này thiện nam tử ! Người cắt đứt căn lành chẳng
phải là người thấp hèn ngu độn, cũng chẳng phải ở trong trời và ba đường
ác. Kẻ phá tăng cũng vậy.
Bồ tát
Ca Diếp bạch Phật rằng :
- Thưa
đức Thế Tôn ! Người như vậy thì khi nào sẽ sanh trở lại thiện căn.
Ðức Phật
dạy :
- Này
Thiện nam tử ! Người như vậy có hai trường hợp sinh trở lại thiện căn. Ðó
là khi mới vào dịa ngục và khi ra khỏi địa ngục.
Này
thiện nam tử ! Thiện có ba thứ, quá khứ, hiện tại, vị lai. Nếu là quá khứ
thì tánh của nó tự diệt. Nhân tuy diệt tận mà quả báo chưa chín, vậy nên
không gọi là đoạn quả của quá khứ, đoạn nhân của ba đời, nên gọi là đoạn.
Bồ tát
Ca Diếp bạch đức Phật rằng :
- Thưa
đức Thế Tôn ! Nếu đoạn nhân của ba đời thì gọi là đoạn thiện căn mà người
đoạn thiện căn thì có Phật tính. Như vậy Phật tính chính là quá khứ hay
chính là hiện tại hay chính là vị lai hay là khắp ba đời ? Nếu là quá khứ
thì làm sao gọi là Thường ? Phật tính chính là Thường. Vậy nên phải biết
chẳng phải là quá khứ. Nếu là vị lai thì làm sao gọi là Thường ? Vì sao
đức Phật nói tất cả chúng sinh nhất định sẽ được ? Nếu nhất định được thì
sao nói là đoạn ? Nếu là hiện tại thì làm sao lại thường ? Vì sao lại nói
nhất định sẽ thấy ? Ðức Như Lai cũng nói Phật tính có sáu, một là thường,
hai là chân, ba là thật, bốn là thiện, năm là tịnh, sáu là khả kiến (có
thể thấy). Nếu người đoạn thiện căn có Phật tính thì chẳng được gọi là
đoạn thiện căn vậy. Nếu không Phật tính thì làm sao lại nói tất cả chúng
sinh đều có Phật tính ? Nếu nói rằng, Phật tính cũng có, cũng đoạn thì làm
sao đức Như Lai lại nói là Thường ?
Ðức Phật
dạy rằng :
- Này
thiện nam tử ! Như Lai Thế Tôn vì chúng sinh nên có bốn thứ đáp, một là
định đáp, hai là phân biệt đáp, ba là tùy vấn đáp, bốn là trí (đặt để)
đáp.
Này
thiện nam tử ! Sao gọi là định đáp ? Nếu hỏi : Nghiệp ác được quả thiện
hay quả bất thiện vậy ? Là nên quyết định đáp rằng, được quả bất thiện và
thiện cũng như vậy mà đáp. Nếu hỏi : Như Lai có Nhất Thiết Trí không ? Là
nên quyết định đáp rằng, chính là Nhất Thiết Trí. Nếu hỏi : Phật pháp
chính là thanh tịnh chăng ? Là nên quyết định đáp rằng, nhất định thanh
tịnh. Nếu hỏi : Ðệ tử của Như Lai có đúng như pháp mà trụ không ? Là nên
quyết định đáp rằng, có đúng như pháp mà trụ. Ðó gọi là định đáp.
Sao gọi
là phân biệt đáp ? Như lời nói về pháp bốn chân đế của ta. Những gì là bốn
? - Khổ, Tập, Diệt, Ðạo. Sao gọi là Khổ đế ? Có tám khổ nên gọi là Khổ đế.
Sao gọi là Tập đế ? Nhân của năm ấm nên gọi là Tập đế. Sao gọi là Diệt đế
? Tham dục, sân, si hết rốt ráo nên gọi là Diệt đế. Sao gọi là Ðạo đế ? Ba
mươi bảy pháp trợ đạo gọi là Ðạo đế. Ðó gọi là phân biệt đáp.
Sao gọi
là tùy vấn đáp ? Như lời ta nói, tất cả pháp vô thường. Lại có người hỏi
rằng : “Ðức Như Lai Thế Tôn vì pháp gì mà nói đến vô thường?”. Ðáp rằng :
“Như Lai vì pháp hữu vi nên nói vô thường”. Ðối đáp về vô ngã cũng vậy.
Như lời ta nói, tất cả pháp đốt cháy người khác. Lại hỏi rằng : “Ðức Như
Lai Thế Tôn vì pháp gì mà nói tất cả đốt cháy ?” Ðáp rằng : “Như Lai vì
tham, sân, si nên nói tất cả cháy”.
Này
thiện nam tử ! Mười lực Như Lai, bốn Vô sở úy, đại Từ đại Bi, ba Niệm xứ,
Thủ Lăng Nghiêm.v.v... tám muôn ức các tam muội môn, ba mươi hai tướng,
tám mươi vẻ đẹp. Ngũ trí ấn.v.v... ba vạn năm ngàn các tam muội môn, Kim
Cương định.v.v... bốn ngàn hai trăm các tam muội môn, phương tiện tam muội
nhiều vô lượng vô biên.v.v... những pháp như vậy là Phật tính. Phật tính
như vậy thì có bảy việc : Một là thường, hai là ngã, ba là lạc, bốn là
tịnh, năm là chân, sáu là thật, bảy là thiện. Ðó gọi là phân biệt đáp. Này
thiện nam tử ! Phật tính của Bồ tát thân sau có sáu việc : Một là thường,
hai là tịnh, ba là chân, bốn là thật, năm là thiện, sáu là ít thấy. Ðó là
phân biệt đáp. Như trước ông hỏi, người đoạn thiện căn có Phật tính thì
người đó cũng có Phật tính Như Lai, cũng có Phật tính thân sau. Hai Phật
tính này chướng ngại vị lai nên được gọi là không rốt ráo được, nên được
gọi là có. Ðó gọi là phân biệt đáp. Phật tính của Như Lai chẳng phải quá
khứ, chẳng phải hiện tại, chẳng phải vị lai. Phật tính của thân sau thì
hiện tại, vị lai ít có thể thấy nên được gọi là hiện tại. Chưa thấy đủ nên
gọi là vị lai. Khi Như Lai chưa được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác thì
nhân của Phật tính cũng là quá khứ, hiện tại, vị lai, còn quả thì chẳng
vậy, có quả là ba đời, có quả chẳng phải ba đời. Nhân của Phật tính Bồ tát
thân sau cũng là quá khứ, hiện tại, vị lai và quả cũng như vậy. Ðó gọi là
phân biệt đáp. Phật tính của Bồ tát Cữu Trụ có sáu thứ. Một là thường, hai
là thiện, ba là chân, bốn là thật, năm là tịnh, sáu là khả kiến. Nhân của
Phật tính cũng là quá khứ, hiện tại, vị lai và quả cũng như vậy. Ðó gọi là
phân biệt đáp. Phật tính của Bồ tát Bát Trụ xuống đến Lục Trụ có năm việc
: Một là chân, hai là thật, ba là tịnh, bốn là thiện, năm là khả kiến.
Nhân của Phật tính cũng là quá khứ, hiện tại, vị lai và quả cũng như vậy.
Ðó gọi là phân biệt đáp. Phật tính của Bồ tát Ngũ Trụ xuống đến Sơ Trụ có
năm việc : Một là chân, hai là thật, ba là tịnh, bốn là khả kiến, năm là
thiện hay bất thiện. Này thiện nam tử ! Năm thứ Phật tính, sáu thứ Phật
tính, bảy thứ Phật tính này thì người đoạn thiện căn nhất định sẽ được nên
được nói rằng có. Ðó gọi là phân biệt đáp.
Nếu có
người nói rằng : “Người đoạn thiện căn thì quyết định có Phật tính hay
quyết định không có Phật tính. Ðó gọi là Trí đáp.
Bồ tát
Ca Diếp bạch đức Phật rằng :
- Thưa
đức Thế Tôn ! Con nghe mà không trả lời mới gọi là trí đáp. Ngày nay đức
Như lai dùng nhân duyên gì để đáp mà gọi là trí đáp.
Này
thiện nam tử ! Ta cũng không nói trí mà chẳng đáp, mới gọi là trí đáp.
Này
thiện nam tử ! Như vậy trí đáp lại có hai thứ, một là chận đứng, hai là
không để ý, theo nghĩa này nên gọi là trí đáp.
Bồ tát
Ca Diếp bạch đức Phật rằng :
- Thưa
đức Thế Tôn ! Như lời đức Phật nói thì sao gọi là Nhân cũng là quá khứ,
hiện tại, vị lai ? Quả cũng quá khứ, hiện tại, vị lai ? Chẳng phải là quá
khứ, hiện tại, vị lai?
Ðức
Phật dạy rằng :
- Này
thiện nam tử ! Năm ấm có hai thứ, một là nhân, hai là quả. Là nhân thì năm
ấm là quá khứ, hiện tại, vị lai. Là quả thì năm ấm cũng là quá khứ, hiện
tại, vị lai và cũng chẳng phải quá khứ, hiện tại, vị lai. Này thiện nam tử
! Kết sử của tất cả vô minh phiền não đều là Phật tính. Vì sao vậy ? Vì
nhân của Phật tính. Từ vô minh, hành... và các phiền não được năm ấm thiện
thì đó gọi là Phật tính. Từ năm ấm thiện cho đến chứng được Vô Thượng
Chánh Ðẳng Chánh Giác. Vậy nên ở trong Kinh, trước ta đã nói, Phật tính
của chúng sinh như máu với sữa hoàn lẫn. Máu tức là vô minh, hành.v.v...
tất cả phiền não. Sữa tức là năm ấm thiện vậy. Vậy nên ta nói, từ các
phiền não và năm ấm thiện được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Như thân
chúng sinh đều từ tinh huyết mà được thành tựu, Phật tính cũng vậy. Người
Tu đà hoàn, người Tư đà hàm vì đoạn ít phiền não nên Phật tính như sữa.
Phật tính của người A na hàm như cao sữa (lạc), của người A la hán giống
như sinh tô (váng sữa sống), của hàng từ Bích Chi Phật cho đến Bồ tát Thập
Trụ giống như thục tô (váng sữa chín). Phật tính của Như Lai giống như đề
hồ. Này thiện nam tử ! Phiền não hiện tại vì làm chướng ngại nên khiến cho
các chúng sinh chẳng được nhìn thấy. Như trong núi Hương có loại cỏ Nhẫn
nhục mà chẳng phải tất cả trâu đều có thể được ăn, Phật tính cũng vậy. Ðó
gọi là phân biệt đáp.
Bồ tát
Ca Diếp bạch đức Phật rằng :
- Thưa
đức Thế Tôn ! Năm thứ, sáu thứ, bảy thứ Phật tính mà nếu vị lai có thì làm
sao nói rằng, người đoạn thiện căn có Phật tính vậy ?.
Ðức Phật
dạy rằng :
- Này
thiện nam tử ! Như các chúng sinh có nghiệp quá khứ mà nhân nghiệp này nên
chúng sinh hiện tại được thọ quả báo. Còn chúng sinh có nghiệp vị lai, do
chưa sinh ra nên nhất định chẳng sinh ra quả báo. Có phiền não hiện tại
hoặc không phiền não thì tất cả chúng sinh nên phải rõ ràng hiện thấy Phật
tính. Vậy nên người đoạn thiện căn do nhân duyên phiền não đời hiện tại có
thể cắt đứt căn lành. Những đời vị lai nhờ nhân duyên của lực Phật tính
nên trở lại sinh ra thiện căn. Bồ tát Ca Diếp bạch rằng :
- Thưa
đức Thế Tôn ! Vị lai làm sao có thể sinh ra thiện căn ?
- Này
thiện nam tử ! Giống như đèn và mặt trời tuy lại chưa sinh ra nhưng cũng
có thể phá bóng tối, sự sinh của vị lai có thể sinh ra chúng sinh. Phật
tính vị lai cũng lại như vậy. Ðó gọi là phân biệt đáp.
Bồ tát
Ca Diếp bạch đức Phật rằng :
- Thưa
đức Thế Tôn ! Nếu nói năm ấm là Phật tính thì làm sao nói rằng, Phật tính
của chúng sinh chẳng phải trong, chẳng phải ngoài?
Ðức Phật
dạy rằng :
- Này
thiện nam tử ! Vì nhân duyên gì mà ông mất ý như vậy ? Ta trước chẳng đã
nói Phật tính của chúng sinh là trung đạo đó sao ?
Ngài Ca
Diếp bạch rằng :
- Thưa
đức Thế Tôn ! Con thật chẳng mất ý ! Nhưng do việc chúng sinh ở trung đạo
này, con chẳng thể lý giải nên hỏi vấn đề ấy thôi !
- Này
thiện nam tử ! Chúng sinh chẳng hiểu tức là trung đạo : Hoặc khi có hiểu,
hoặc có chẳng hiểu ! Này thiện nam tử ! Ta vì chúng sinh được khai giải mà
nói rằng, Phật tính chẳng phải trong, chẳng phải ngoài. Vì sao vậy ? Vì
chúng sinh phàm phu hoặc nói rằng, Phật tính trụ ở trong năm ấm như trong
đồ đựng có trái cây. Hoặc nói rằng, lìa khỏi năm ấm có Phật tính giống như
hư không. Vậy nên Như Lai nói ở trung đạo, Phật tính chẳng phải trong sáu
nhập chẳng phải ngoài sáu nhập mà trong ngoài hợp lại nên gọi là trung
đạo. Vậy nên Như Lai tuyên nói Phật tính tức là Trung đạo, chẳng phải
trong chẳng phải ngoài nên gọi là Trung đạo. Ðó gọi là phân biệt đáp.
Lại nữa,
này thiện nam tử ! Sao gọi là chẳng phải trong chẳng phải ngoài ? Này
thiện nam tử ! Hoặc nói rằng, Phật tính tức là ngoại đạo. Vì sao vậy ? Vì
Ðại Bồ tát ở vô lượng kiếp, ở tại trong ngoại đạo, cắt đứt các phiền não,
điều phục lòng mình, giáo hóa chúng sinh rồi nhiên hậu mới được Vô Thượng
Chánh Ðẳng Chánh Giác. Do đó Phật tính tức là ngoại đạo. Hoặc nói rằng,
Phật tính tức là nội đạo. Vì sao vậy ? Vì Bồ tát tuy ở trong vô lượng
kiếp, tu tập ngoại đạo nhưng nếu lìa khỏi nội đạo thì chẳng thể được Vô
Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Do đó Phật tính tức là nội đạo. Vậy nên Như
Lai ngăn chận quan niệm nhị biên này mà nói rằng, Phật tánh chẳng phải
trong chẳng phải ngoài, cũng gọi là trong ngoài, gọi là Trung đạo. Ðó gọi
là phân biệt đáp.
Lại nữa,
này thiện nam tử ! Hoặc nói rằng, Phật tính tức là thân Như Lai Kim Cương
với ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Vì sao vậy ? Vì chẳng hư dối
vậy. Hoặc nói rằng, Phật tính tức là Mười lực, bốn Vô sở úy, Ðại từ Ðại bi
và bốn Niệm xứ, Thủ Lăng Nghiêm.v.v... tất cả tam muội. Vì sao vậy ? Vì
nhân tam muội này mà sinh ra thân Kim Cương ba mươi hai tướng tốt, tám
mươi vẻ đẹp. Vậy nên Như Lai ngăn chận quan niệm nhị biên này mà nói rằng,
Phật tính chẳng phải trong chẳng phải ngoài, cũng gọi là trong ngoài, gọi
là Trung đạo. Ðó gọi là phân biệt đáp.
Lại nữa,
này thiện nam tử ! Hoặc có người nói rằng, Phật tính tức là bên trong tư
duy tốt. Vì sao vậy ? Vì lìa khỏi tư duy tốt (thiện) thì chẳng thể được Vô
Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Vậy nên Phật tính tức là bên trong tư duy
tốt. Hoặc có người nói rằng, Phật tính tức là theo người khác nghe pháp.
Vì sao vậy ? Vì theo người khác nghe pháp thì có thể bên trong tư duy tốt.
Nếu chẳng nghe pháp thì không có tư duy. Do đó Phật tính tức là theo người
khác nghe pháp. Vậy nên Như Lai ngăn chận quan niệm nhị biên này (hai bên)
mà nói rằng, Phật tính chẳng phải trong chẳng phải ngoài, cũng gọi là nội
ngoại, gọi là Trung đạo. Lại nữa, này thiện nam tử ! Lại có người nói
rằng, Phật tính là ngoài như là Ðàn Balamật mà từ Ðàn Balamật được Vô
Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Do đó nói rằng, Ðàn Balamật tức là Phật
tính. Hoặc có người nói rằng, Phật tính là trong như là năm Balamật (còn
lại). Vì sao vậy ? Vì lìa khỏi năm việc này thì phải biết là không có nhân
quả Phật tính. Do đó nói rằng, năm Balamật tức là Phật tính. Vậy nên Như
Lai ngăn chận quan niệm nhị biên này mà nói rằng, Phật tính chẳng phải
trong chẳng phải ngoài, cũng trong cũng ngoài. Ðó gọi là Trung đạo. Lại
nữa, này thiện nam tử ! Hoặc có người nói rằng, Phật tính ở trong ví như
viên ngọc báu trên trán người lực sĩ. Vì sao vậy ? Vì Thường Lạc Ngã Tịnh
như viên ngọc báu. Do đó nói rằng, Phật tính ở bên trong. Hoặc có người
nói rằng, Phật tính ở bên ngoài như bảo tàng của người nghèo. Vì sao vậy ?
Vì do phương tiện nên mới được thấy. Phật tính cũng vậy, ở bên ngoài chúng
sinh, phải dùng phương tiện mới được thấy nó. Vậy nên Như Lai ngăn chận
quan niệm nhị biên này mà nói rằng, Phật tính chẳng phải trong chẳng phải
ngoài, cũng trong cũng ngoài. Ðó gọi là Trung đạo.
Này
thiện nam tử ! Phật tính của chúng sinh chẳng phải có chẳng phải không. Sở
dĩ vì sao ? Vì Phật tính tuy có nhưng chẳng phải như hư không. Vì sao vậy
? Vì hư không của thế gian tuy dùng vô lượng phương tiện khéo léo nhưng
chẳng thể được thấy mà Phật tính có thể thấy. Vậy nên tuy có nhưng chẳng
phải như hư không. Phật tính tuy không nhưng chẳng đồng với sừng thỏ. Vì
sao vậy ? Vì lông rùa, sừng thỏ tuy dùng vô lượng phương tiện khéo léo vẫn
chẳng thể được sinh ra mà Phật tính có thể sinh ra. Vậy nên Phật tính tuy
không nhưng chẳng đồng với sừng thỏ. Vậy nên Phật tính chẳng phải có chẳng
phải không mà cũng có cũng không. Sao gọi là có ? Tất cả đều có ! Những
chúng sinh này chẳng đoạn, chẳng diệt như ngọn đèn cháy sáng, cho đến được
Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Ðó gọi là có. Sao gọi là không ? Tất cả
chúng sinh hiện tại chưa có tất cả Phật pháp Thường Lạc Ngã Tịnh. Vậy nên
gọi là không. Có không hợp lại nên tức là Trng đạo. Vậy nên Phật nói rằng,
Phật tính của chúng sinh chẳng phải có chẳng phải không. Này thiện nam tử
! Nếu có người hỏi rằng : “Trong chủng tử này có quả hay không có quả vậy
?” thì nên quyết định đáp rằng : “Cũng có cũng không !” Vì sao vậy ? Vì
lìa khỏi chủng tử ra thì chẳng thể sinh ra quả. Vậy nên gọi là có. Chủng
tử chưa mọc mầm nên gọi là không. Do nghĩa này nên cũng có cũng không. Sở
dĩ vì sao ? Vì thời tiết có khác nhưng thể ấy là một. Phật tính của chúng
sinh cũng lại như vậy. Nếu nói rằng, trong chúng sinh có Phật tính riêng
khác thì nghĩa đó chẳng đúng. Vì sao vậy ? Vì chúng sinh tức là Phật tính,
Phật tính tức là chúng sinh mà những do thời tiết khác mà có tịnh hay bất
tịnh. Này thiện nam tử ! Nếu có người hỏi rằng : “Hạt giống này có thể
sinh ra quả không ? Quả này có thể sinh ra hạt không ?” Thì nên quyết định
đáp rằng : “Cũng sinh, cũng chẳng sinh !”
- Thưa
đức Thế Tôn ! Như người đời nói trong sữa có cao sữa (lạc), thì nghĩa đó
ra sao ?
- Này
thiện nam tử ! Nếu có người nói rằng, trong sữa có cao sữa thì đó gọi là
chấp trước. Nếu nói không có cao sữa thì gọi là hư vọng. Lìa khỏi hai việc
này thì nên quyết định nói rằng, cũng có cũng không. Vì sao gọi là có ?
Vì từ sữa sinh ra cao sữa. Nhân tức là sữa, quả tức là cao sữa. Ðó gọi là
có. Sao gọi là không ? Sắc vị đều khác, cách dùng chẳng đồng : Bệnh nóng
uống sữa, bệnh lạnh uống cao sữa. Sữa sinh ra bệnh lạnh, cao sữa sinh ra
bệnh nóng. Này thiện nam tử ! Nếu nói trong sữa có tính của cao sữa thì
sữa tức là cao sữa, cao sữa tức là sữa. Nếu tính của chúng là một thì vì
nhân duyên gì sữa xuất hiện trước mà cao sữa chẳng sinh ra trước ? Nếu có
nhân duyên thì tất cả người đời vì sao chẳng nói Còn nếu không nhân duyên
thì vì sao cao sữa chẳng xuất hiện trước ? Nếu cao sữa chẳng xuất hiện
trước thì ai tạo tác theo thứ lớp sữa, cao sữa, váng sữa sống, váng sữa
chín, đề hồ ? Vậy nên biết là, cao sữa trước không nay có. Nếu trước không
nay có thì tức là pháp vô thường. Này thiện nam tử ! Nếu có người nói
rằng, sữa có tính cao sữa nên có thể sinh ra cao sữa. Nước không tính của
cao sữa nên chẳng sinh ra cao sữa, thì nghĩa này chẳng đúng. Vì sao vậy ?
Vì nước và cỏ cũng có tính của sữa và cao sữa. Sở dĩ vì sao ? Vì nhân nước
và cỏ thì sinh ra sữa và cao sữa. Nếu nói trong sữa quyết định có tính của
cao sữa mà nước và cỏ không thì đó gọi là hư vọng. Vì sao vậy ? Vì lòng
chẳng bình đẳng nên nói hư vọng. Này thiện nam tử ! Nếu nói trong sữa
quyết định có cao sữa thì trong cao sữa cũng nên quyết định có tính của
sữa. Vậy vì nhân duyên gì trong sữa sinh ra cao sữa mà trong cao sữa chẳng
sinh ra sữa ? Nếu không nhân duyên thì phải biết là cao sữa trước không
nay có. Vậy nên người trí nên nói rằng, trong sữa chẳng phải có tính của
cao sữa, chẳng phải không tính của cao sữa. Này thiện nam tử ! Vậy nên Như
Lai, ở trong kinh, nói lời như vầy : “Tất cả chúng sinh quyết có Phật
tính”. Ðó gọi là đắm trước. Nếu nói không Phật tính thì đó gọi là hư vọng.
Người trí nên nói Phật tính của chúng sinh cũng có cũng không.
Này
thiện nam tử ! Bốn việc hòa hợp sinh ra nhãn thức. Những gì là bốn ? Ðó là
mắt, sắc, ánh sáng và dục. Tính của nhãn thức này chẳng phải mắt, chẳng
phải sắc, chẳng phải ánh sáng, chẳng phải dục mà từ sự hòa hợp nên liền
được sinh ra. Như vậy nhãn thức trước không nay có mà có rồi lại hoàn
không. Vậy nên phải biết không có bản tính. Tính của cao sữa trong sữa
cũng lại như vậy. Nếu có người nói rằng, nước không tính của cao sữa nên
chẳng sinh ra cao sữa vậy nên trong sữa quyết định có tính của cao sữa thì
nghĩa này chẳng đúng! Vì sao vậy ? Này thiện nam tử ! Vì tất cả các pháp
khác nhân khác quả, cũng chẳng phải một nhân sinh tất cả quả, chẳng phải
tất cả quả từ một nhân sinh ra. Này thiện nam tử ! Như từ bốn việc sinh ra
nhãn thức thì chẳng thể lại nói từ bốn việc này ứng sinh ra nhĩ thức. Này
thiện nam tử ! Lìa khỏi phương diện, trong sữa được cao sữa, cao sữa sinh
ra váng sữa chăng ? Hay được như vậy cần phải có phương tiện ? Này thiện
nam tử ! Kẻ trí chẳng thể thấy, lìa khỏi phương tiện mà từ sữa được cao
sữa nghĩa là được sinh ra tô cũng nên lìa khỏi phương tiện như vậy để được
! Này thiện nam tử ! Vậy nên, ở trong kinh này, ta nói : Nhân sinh nên
pháp có, nhân diệt nên pháp diệt ! Này thiện nam tử ! Như tính của muối là
mặn, có thể khiến cho chẳng phải mặn hay khiến cho mặn. Nếu vật chẳng phải
mặn trước có tính mặn thì người đời vì sao lại cầu mặn vậy ? Nếu trước
không tính mặn thì phải biết là trước không nay có, do duyên khác mà được
mặn vậy. Nếu nói tất cả vật chẳng mặn đều có tính mặn mà vì nhỏ nên chẳng
biết nên do tính mặn nhỏ này có thể khiến cho mặn. Nếu vốn không tính mặn
thì tuy lại có muối nhưng chẳng thể khiến cho nó mặn được. Ví như hạt
giống tự có bốn đại duyên với bốn đại bên ngoài mà được tăng trưởng mầm
chồi, thân cây, cành lá. Tính của muối cũng vậy thì nghĩa này không đúng.
Vì sao vậy ? Vì vật chẳng mặn trước có tính mặn thì muối cũng nên có tính
chẳng mặn nhỏ. Muối này nếu có hai tính như vậy thì vì nhân duyên gì mà
lìa khỏi vật chẳng mặn, chẳng thể một mình dùng? Vậy nên biết là muối vốn
không hai tính. Như muối tất cả vật chẳng mặn cũng lại như vậy. Nếu nói
ngoài bốn đại chủng bên ngoài, sức hạt giống có thể tăng trưởng bốn đại
bên trong thì nghĩa này chẳng đúng. Vì sao vậy ? Vì nói theo thứ lớp vậy.
Chẳng từ phương tiện mà trong sữa được cao sữa, rồi sinh váng sữa cho đến
tất cả các pháp đều như vậy, chẳng phải do phương tiện mà được. Bốn đại
cũng lại như vậy. Nếu nói từ bốn đại bên ngoài tăng trưởng bốn đại bên
trong, chẳng thấy từ bốn đại bên trong tăng trưởng bốn đại bên ngoài. Như
trái cây Thi Lợi Sa, trước không hình chất nhưng khi có sao Mão thì trái
sinh ra lớn đủ năm tấc (thốn). Quả (trái) như vậy thì thật chẳng nhân vào
bốn đại bên ngoài mà lớn.
Này
thiện nam tử ! Như lời ta nói, mười hai bộ Kinh, hoặc ta theo ý mình mà
nói, hoặc theo ý người khác mà nói, hoặc theo ý mình và ý người mà nói.
Sao gọi
là theo ý mình nói ? Như năm trăm vị Tỳkheo hỏi ông Xá Lợi Phất : “Thưa
đại đức ! Ðức Phật nói, nhân của thân là gì đó vậy ?”. Ông Xá Lợi Phất nói
rằng : “Này các Ðại đức ! Các ông cũng đều được Chánh giải thoát thì tự
nên biết ! Vì duyên gì mới hỏi như vậy ?”. Có Tỳkheo nói rằng : “Thưa Ðại
đức ! Khi tôi chưa chứng được Chánh Giải thoát thì cho là Ý vô minh tức là
nhân của thân. Khi tôi tạo tác sự quan sát này thì được quả A la hán”. Lại
có Tỳkheo nói rằng : “Thưa Ðại đức ! Khi tôi chưa chứng được giải thoát
chân chính thì cho là Ái vô minh tức là nhân của thân. Khi tôi tác khởi sự
quan sát này thì được quả A la hán. Hoặc có vị nói rằng, hành, thức, danh
sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, ẩm thực, ngũ dục... tức là
nhân của thân. Lúc bấy giờ năm trăm vị Tỳkheo, mỗi mỗi đều tự nói sự hiểu
biết của mình, rồi cùng chung đi đến chỗ đức Phật, cúi đầu dưới chân của
đức Phật, đi quanh về bên phải ba vòng. Lễ bái xong rồi họ lui về ngồi một
bên, đều đem ý nghĩa hiểu biết của mình như trên, hướng về đức Phật mà
nói. Ngài Xá Lợi Phất bạch đức Phật rằng: “Thưa đức Thế Tôn ! Những người
như vậy thì ai nói đúng ? Ai nói chẳng đúng ?”. Phật bảo rằng : “ Này Xá
Lợi Phất ! Hay thay ! Hay thay ! Mỗi một vị Tỳkheo đâu chẳng phải chánh
thuyết !”. Ngài Xá Lợi Phất bạch rằng : “Thưa đức Thế Tôn ! Ý đức Phật thế
nào ?”. Phật dạy rằng : “Này Xá Lợi Phất ! Ta vì chúng sinh cõi Dục nói
rằng, cha mẹ tức là nhân của thân !”. Những kinh như vậy gọi là theo ý của
mình mà nói.
Sao gọi
là theo ý người khác nói ? Như ông trưởng giả Ba Sấc La đi đến chỗ của ta
nói lên rằng : “Thưa ngài Cù Ðàm ! Ngài biết huyễn không ? Nếu ngài biết
huyễn thì tức là người đại huyễn. Nếu ngài chẳng biết thì chẳng phải Nhất
Thiết Trí !”. Ta nói rằng : “Này ông trưởng giả ! Người biết huyễn gọi là
người huyễn sao ?” Ông trưởng giả nói rằng : “Hay thay ! Hay thay ! Người
biết huyễn tức là người huyễn!” Phật nói rằng : “Này ông trưởng giả ! Bên
trong nước Xá Vệ, vua Ba Tư Nặc, có người Chiên đà la tên là Khí Hư. Ông
có biết không ?” Ông trưởng giả đáp rằng : “Thưa ông Cù Ðàm ! Tôi biết ông
đó đã lâu !” Ðức Phật nói rằng : “Ông biết lâu thì có thể trở thành Chiên
đà la không ?”. Ông trưởng giả nói rằng : “Thưa ông Cù Ðàm ! Tôi tuy biết
người Chiên đà la đó nhưng thân này của tôi chẳng phải Chiên đà la !”. Ðức
Phật nói rằng : “Này ông trưởng giả ! Ông được nghĩa này, biết Chiên đà la
thì chẳng phải là Chiên đà la. Ta nay vì sao chẳng được biết huyễn mà
chẳng phải huyễn ư ? Này ông trưởng giả ! Ta thật biết huyễn, biết người
huyễn, biết quả báo huyễn, biết kỹ thuật huyễn. Ta biết giết, biết giết
người, biết giết quả báo, biết giết giải thoát... cho đến biết tà kiến,
biết người tà kiến, biết quả báo tà kiến, biết giải thoát tà kiến. Này ông
trưởng giả ! Nếu nói người chẳng phải huyễn gọi là người huyễn, người
chẳng phải tà kiến nói là người tà kiến thì bị tội không lường”. Ông
trưởng giả nói rằng : “Thưa ông Cù Ðàm ! Như lời ông nói thì tôi bị tội
lớn. Sở hữu của tôi hôm nay đều đem dâng lên ngài, mong ngài chớ cho vua
Ba Tư Nặc kia biết việc này của tôi !”. Ðức Phật nói rằng : “Này ông
trưởng giả ! Nhân duyên của tội đó chẳng nhất định mất của cải mà còn sẽ
nhân đó bị rơi vào ba đường ác!”. Khi đó ông trưởng giả nghe đến tên ác
đạo thì lòng sinh kinh sợ mà bạch Phật rằng : “Thưa đức Thánh nhân ! Tôi
nay thất ý chuốc lấy tội lớn ! Thưa đức Thánh nhân ! Ngài nay chính là
đấng Nhất Thiết Trí nên phải biết rõ, chứng được giải thoát ! Tôi phải làm
sao để được thoát khỏi địa ngục, ngã quỉ, súc sinh ?”. Bấy giờ ta vì ông
đó nói bốn chân đế. Ông trưởng giả nghe rồi thì được quả Tu đà hoàn, lòng
sinh tàm quí (xấu hổ), hướng về đức Phật sám hối rằng : “Con vốn ngu si,
đức Phật chẳng phải người huyễn mà nói là huyễn ! Con từ hôm nay quy y Tam
bảo !”. Phật dạy rằng : “Hay thay ! Hay thay ! Này ông trưởng giả !” Ðó
gọi là theo ý người khác nói.
Sao gọi
là theo ý mình ý người khác nói ? Như lời ta nói, tất cả kẻ trí của thế
gian nói Có thì ta cũng nói Có. Kẻ trí nói Không thì ta cũng nói Không.
Người trí thế gian nói năm dục lạc có vô thường, khổ, vô ngã, có thể đoạn
thì ta cũng nói là Có. Người trí thế gian nói năm dục lạc có Thường ngã
tịnh, không có điều đó. Ta cũng nói như vậy, không có điều đó. Ðó gọi là
theo ý mình ý người mà nói. Này thiện nam tử ! Như lời ta nói, Bồ tát Thập
Trụ thấy ít Phật tính. Ðó gọi là theo ý người khác nói. Vì sao gọi là thấy
ít ? Vì Bồ tát Thập Trụ được Thủ Lăng Nghiêm tam muội.v.v... ba ngàn pháp
môn. Vậy nên tự biết rõ ràng họ sẽ được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác mà
chẳng thấy tất cả chúng sinh quyết định được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh
Giác. Vậy nên ta nói, Bồ tát Thập Trụ thấy phần ít Phật tính. Này thiện
nam tử ! Ta thường tuy nói rằng, “tất cả chúng sinh đều có Phật tính”. Ðó
gọi là theo ý mình nói. “Tất cả chúng sinh chẳng đoạn chẳng diệt... cho
đến được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác”. Ðó gọi là theo ý mình nói. “Tất
cả chúng sinh đều có Phật tính, vì phiền não che nên chẳng thể được thấy”,
ta nói như vậy, ông nói cũng vậy. Ðó gọi là theo ý mình ý người mà nói.
Này
thiện nam tử ! Như Lai, hoặc khi vì một pháp nên nói vô lượng pháp, như
trong Kinh nói, tất cả Phạm hạnh nhân Thiện tri thức. Nhân của tất cả phạm
hạnh tuy không lường, nhưng nói Thiện tri thức thì đã thu nhiếp hết. Như
lời ta nói, tất cả ác hạnh thì tà kiến là nhân. Nhân của tất cả ác hạnh
tuy không lường nhưng nếu nói tà kiến thì đã thâu nhiếp hết. Hoặc nói : Vô
Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác lấy tín tâm làm nhân. Nhân của Bồ Ðề này tuy
lại không lường nhưng nếu nói tín tâm thì đã thâu nhiếp hết. Này thiện nam
tử ! Như Lai tuy nói vô lượng những pháp lấy làm Phật tính, nhưng chẳng
lìa khỏi ấm nhập và giới (năm ấm, sáu nhập, mười tám giới) vậy.
Này
thiện nam tử ! Như Lai nói pháp vì chúng sinh nên có bảy thứ lời nói (ngữ)
: Một là nhân ngữ, hai là quả ngữ, ba là nhân quả ngữ, bốn là dụ ngữ, năm
là bất ứng thuyết ngữ (lời chẳng nên nói), sáu là thế lưu bố ngữ (lời lưu
bố ở đời), bảy là như ý ngữ.
Sao gọi
là nhân ngữ ? Trong nhân hiện tại nói quả vị lai. Như lời ta nói : “Này
thiện nam tử ! Ông thấy chúng sinh ưa giết hại cho đến ưa hành tà kiến,
thì phải biết là người đó tức là người của địa ngục. Này thiện nam tử !
Nếu có chúng sinh chẳng ưa giết hại... cho đến tà kiến thì phải biết người
đó tức là người trời. Ðó gọi là nhân ngữ.
Sao gọi
là quả ngữ ? Trong quả hiện tại nói nhân quá khứ. Như trong Kinh nói rằng
: “Này thiện nam tử ! Như ông đã thấy, chúng sinh nghèo cùng, hình dung
xấu xí, chẳng được tự tại, thì phải biết người đó quyết định có phá giới,
lòng tật đố, lòng sân hận, lòng không tàm quí. Nếu thấy chúng sinh nhiều
của cải, giàu to, các căn đầy đủ, uy đức tự tại thì phải biết người đó có
trì giới, bố thí, tinh cần, tàm quí, không có tật đố, sân hận”. Ðó gọi là
quả ngữ.
Sao gọi
là nhân quả ngữ ? Như trong Kinh nói rằng : “Này thiện nam tử ! Nhân tiếp
xúc sáu nhập của chúng sinh hiện tại thì đó gọi là nghiệp quả quá khứ. Như
Lai cũng nói, tên đó là nghiệp. Nhân duyên của nghiệp nay được quả vị lai.
Ðó gọi là nhân quả ngữ.
Sao gọi
là dụ ngữ ? Như nói : Vua Sư Tử thì tức là dụ cho thân ta. Ðại Tượng
vương, Ðại Long vương, cây Ba lợi chất đa la, Thất bảo tụ, Ðại hải, Tu Di
sơn, Ðại địa, mưa lớn, Thuyền sư, Ðạo sư, Ðiều ngự, Trượng phu, Lực sĩ,
Ngưu Vương, Bà la môn, Sa môn, Ðại thành, cây Ða la.v.v... những dụ như
vậy, Kinh gọi là Dụ ngữ.
Sao gọi
là Bất ứng ngữ ? - Trong Kinh ta nói : “Trời đất có thể hợp lại, sông
chẳng chảy vào biển”. Như vì vua Ba Tư Nặc nói rằng : “Bốn phương núi đến
!” Như vì Ưu bà di Lộc Mẫu (mẹ nai) nói rằng : “Nếu cây Ta La có thể thọ
tám giới thì được thọ hưởng niềm vui của người trời !” Như nói : “Thà nói
Bồ tát Thập Trụ có lòng thoái chuyển, chẳng nói Như Lai có hai thứ lời
nói. Thà nói người Tu đà hoàn đọa ba đường ác, chẳng nói Bồ tát Thập trụ
có lòng thoái chuyển”. Ðó gọi là bất ứng ngữ.
Sao gọi
là thế lưu bố ngữ ? - Như lời Phật nói : Trai gái, lớn nhỏ, đi lại ngồi
nằm, xe cộ, phòng xá, bình, áo, chúng sinh, Thường Lạc Ngã Tịnh, quân đội,
rừng, thành, ấp, huyễn hóa, hợp tan... Ðó gọi là thế lưu bố ngữ.
Sao gọi
là như ý ngữ ? Như ta quở trách người hủy cấm khiến cho người đó tự trách
mà hộ trì cấm giới. Như ta khen ngợi người Tu đà hoàn khiến cho các phàm
phu sinh ra lòng thiện. Ta khen ngợi Bồ tát khiến cho chúng sinh phát tâm
Bồ Ðề. Ta nói sự khổ não của ba đường ác vì khiến mọi người tu tập các
pháp thiện. Ta nói tất cả đốt cháy là chỗ vì tất cả pháp hữu và vô ngã
cũng vậy. Ta nói, các chúng sinh đều có Phật tính là vì khiến cho tất cả
chẳng buông lung (phóng dật). Ðó gọi là Như Ý ngữ.
Này
thiện nam tử ! Như Lai lại có lời nói theo ý mình : Phật tính của Như Lai
thì có hai thứ, một là có, hai là không. Có thì nghĩa là ba mươi hai tướng
tốt, tám mươi vẻ đẹp, mười lực, bốn vô sở úy, ba niệm xứ, Ðại từ Ðại bi,
Thủ lăng nghiêm.v.v... vô lượng tam muội, Kim cương.v.v... vô lượng tam
muội, phương tiện.v.v... Vô lượng tam muội Ngũ trí ấn.v.v... vô lượng tam
muội. Ðó gọi là Có. Không thì nghĩa là các thiện, chẳng thiện, vô ký quá
khứ của Như Lai, nghiệp nhân quả báo, phiền não, năm ấm, mười hai nhân
duyên. Ðó gọi là không.
Này
thiện nam tử ! Như có không, thiện chẳng thiện, có lậu không lậu, thế gian
chẳng phải thế gian, Thánh chẳng phải Thánh, hữu vi vô vi, thật chẳng
thật, tịch tịnh chẳng phải tịnh tịnh, tranh (cãi) chẳng phải tranh, cõi
chẳng phải cõi, phiền não chẳng phải phiền não, thủ (lấy) chẳng phải thủ,
thọ ký chẳng phải thọ ký, có chẳng phải có, ba đời chẳng phải ba đời, thời
chẳng phải thời, thường vô thường, ngã vô ngã, lạc vô lạc, tịnh vô tịnh,
sắc thọ tưởng hành thức chẳng phải sắc thọ tưởng hành thức, nội nhập chẳng
phải nội nhập, ngoại nhập chẳng phải ngoại nhập, mười hai nhân duyên chẳng
phải mười hai nhân duyên. Ðó gọi là Có Không của Phật tính Như Lai... cho
đến Phật tính của nhất xiển đề có không cũng lại như vậy.
Này
thiện nam tử ! Ta tuy nói rằng, tất cả chúng sinh đều có Phật tính mà
chúng sinh chẳng lý giải được những lời nói theo ý mình như vậy của đức
Phật.
Này
thiện nam tử ! Những lời nói như vậy thì Bồ tát thân sau còn chẳng thể lý
giải huống là đối với hàng nhị thừa và các hạng Bồ tát còn lại. Này thiện
nam tử ! Một lúc xưa, ta ở tại núi Kỳ Xà Quật, cùng với Bồ tát Di Lặc
chung luận bàn thế đế. Ông Xá Lợi Phất.v.v...năm trăm Thanh Văn đối với
việc này đều chẳng hay biết, huống gì là Ðệ nhất nghĩa đế của đạo Xuất
thế.
Này
thiện nam tử ! Hoặc có Phật tính mà nhất xiển đề thì có, người thiện căn
thì không. Hoặc có Phật tính mà người thiện căn có, nhất xiển đề không.
Hoặc có Phật tính mà cả hai người đều có. Hoặc có Phật tính mà cả hai
người đều không.
Này
thiện nam tử ! Các đệ tử của ta nếu lý giải được ý nghĩa của bốn câu như
vậy thì chẳng nên nạn vấn rằng, người nhất xiển đề quyết định có Phật
tính, quyết định không Phật tính. Nếu nói chúng sinh đều có Phật tính thì
đó gọi là tùy tự ý ngữ của Như Lai. Tùy tự ý ngữ như vậy của Như Lai thì
chúng sinh làm sao lý giải một hướng được ?
Này
thiện nam tử ! Như trong sông Hằng có bảy chúng sinh : Một là thường chìm,
hai là tạm ra rồi trở lại chìm, ba là ra rồi thì trụ lại, bốn là ra rồi
quan sát khắp bốn phương, năm là quan sát khắp rồi đi, sáu là đi rồi lại
trụ, bảy là trên nước trên đất đều đi. Rằng chúng sinh thường chìm là gọi
loài cá lớn thọ nghiệp ác lớn, thân nặng ở sâu. Vậy nên thường chìm. Chúng
sinh tạm ra rồi chìm trở lại là loài cá lớn thọ ác nghiệp, thân nặng ở
cạn, tạm thấy ánh sáng. Nhân ánh sáng nên nó tạm ra nhưng vì nặng nên trở
lại chìm. Chúng sinh ra rồi liền trụ là gọi loài cá Chỉ Di, thân ở nước
cạn, ưa thấy ánh sáng nên ra rồi trụ lại. Chúng sinh trụ lại nhìn khắp bốn
phương là gọi loài cá tích vì kiếm tìm đồ ăn nên quan sát khắp bốn phương.
Chúng sinh quan sát rồi đi là gọi loài cá tích từ xa thấy vật khác cho là
có thể ăn nên mau chóng đi đến đó. Chúng sinh quan sát rồi đi, đi rồi lại
trụ là loài cá này đi đến rồi, đã được mồi có thể ăn thì liền dừng lại nên
gọi là đi rồi lại trụ. Chúng sinh trên nước, đất đều đi thì tức là loài
rùa.
Này
thiện nam tử ! Dòng sông Ðại Niết Bàn vi diệu như vậy, trong sông ấy cũng
có bảy thứ chúng sinh : từ loài đầu tiên thường chìm cho đến loài thứ bảy
hoặc vào hoặc ra. Nói rằng, thường chìm là có người nghe Kinh Ðại Niết Bàn
này, Như Lai thường trụ không có biến dịch, Thường Lạc Ngã Tịnh, nhất định
chẳng rốt ráo vào Niết Bàn, tất cả chúng sinh đều có Phật tính, người nhất
xiển đề bài báng Kinh Phương Ðẳng, tạo tội ngũ nghịch phạm bốn trọng cấm
nhất định sẽ được thành đạo Bồ Ðề, Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm, A la
hán, Bích Chi Phật.v.v... nhất định sẽ được thành Vô Thượng Chánh Ðẳng
Chánh Giác... Nghe những lời nói này rồi, họ sinh ra lòng bất tín liền tác
khởi ý niệm này. Tác khởi ý niệm này rồi thì họ liền nói rằng : “Kinh điển
Niết Bàn này là sách ngoại đạo, chẳng phải là Kinh Phật”. Người này, bấy
giờ xa lìa bạn tốt, chẳng nghe chính pháp. Tuy có lúc họ được nghe nhưng
chẳng thể tư duy. Tuy họ lại tư duy nhưng chẳng tư duy thiện mà chẳng tư
duy thiện nên như trụ ở ác pháp. Người trụ ở ác pháp có sáu thứ : Một là
ác, hai là không thiện, ba là làm bẩn pháp, bốn là thêm có, năm là não
nhiệt, sáu là thọ quả báo ác. Ðó gọi là chìm. Vì sao gọi là chìm ? Vì
không lòng thiện, thường làm ác, chẳng tu đối trị. Ðó gọi là chìm. Sở dĩ
gọi rằng ác là bị thánh nhân quở trách, lòng sinh bố úy, người thiện xa
lìa chẳng ích chúng sinh. Ðó gọi là ác. Nói rằng không thiện thì có thể
sinh ra vô lượng quả báo ác, thường bị sự trói buộc nhiễu loạn của vô
minh, ưa cùng người ác làm bạn bè, không có tu các phương tiện tốt, lòng
họ điên đảo thường lầm lẫn. Ðó gọi là không thiện. Nói rằng làm bẩn pháp
tức là thường làm bẩn thân miệng, làm bẩn chúng sinh thanh tịnh, tăng thêm
nghiệp bất thiện, xa lìa thiện pháp. Ðó gọi là ô pháp. Nói rằng, tăng hữu
(thêm có) tức là như pháp sở hành của ba người trên, có thể tăng thêm địa
ngục, súc sinh, ngã quỉ, chẳng thể tu tập pháp giải thoát, nghiệp thân
miệng ý chẳng chán các hữu. Ðó gọi là tăng hữu. Nói rằng, người não nhiệt
thì tức là người làm đủ bốn việc như trên có thể khiến cho thân tâm có hai
việc phiền não. Xa lìa tịch tịnh thì gọi là nhiệt. Thọ quả báo địa ngục
nên gọi là nhiệt. Ðốt cháy các chúng sinh nên gọi là nhiệt. Ðốt cháy các
thiện pháp nên gọi là nhiệt. Này thiện nam tử ! Lòng tin thanh lương thì
người này chẳng đủ. Vậy nên gọi là nhiệt. Nói rằng, người thọ quả báo ác
thì tức là người đầy đủ năm việc trên, chết đọa vào địa ngục, ngã quỉ, súc
sinh. Này thiện nam tử ! Có ba việc ác, lại gọi là quả báo ác : Một là
phiền não ác, hai là nghiệp ác, ba là báo ác. Ðó gọi là thọ quả báo ác.
Này thiện nam tử ! Người này đầy đủ sáu việc như trên thì có thể cắt đứt
căn lành, tạo tác năm tội nghịch, có thể phạm bốn trọng cấm, có thể bài
báng Tam Bảo, sử dụng vật của chúng Tăng, có thể làm đủ thứ việc phi pháp.
Do nhân duyên này nên họ chìm đắm ở tại địa ngục A tỳ, phải thọ thân hình
dọc ngang tám vạn bốn ngàn do diên. Nghiệp thân, miệng tâm của người này
nặng nên chẳng thể được ra. Vì sao vậy ? Vì tâm người ấy chẳng thể sinh ra
thiện pháp nên tuy có vô lượng những đức Phật ra đời mà họ chẳng nghe
chẳng thấy nên gọi là thường chìm mất như con cá lớn trong dòng sông Hằng.
Này
thiện nam tử ! Ta tuy nói nhất xiển đề.v.v... gọi là thường mất nhưng lại
có người thường chìm mất chẳng phải nhất xiển đề. Ðó là ai vậy? Như người
vì có tu Thí, Giới, Thiện. Ðó gọi là thường chìm mất.
Này
thiện nam tử ! Có bốn việc thiện mà gặt lấy quả ác. Những gì là bốn ? Một
là vì thắng người khác nên dọc tụng kinh điển, hai là vì lợi dưỡng nên thọ
trì cấm giới, ba là vì lệ thuộc người khác mà làm bố thí, bốn là vì Phi
tưởng phi phi tưởng xứ nên lắng lòng tư duy. Ðó là bốn việc thiện được quả
báo ác. Nếu người tu tập bốn việc như vậy thì đó gọi là chìm rồi trở lại
ra, ra rồi trở lại chìm. Vì sao gọi là chìm ? Vì ưa ba hữu vậy. Vì sao gọi
là ra ? Vì do thấy ánh sáng vậy. Ánh sáng tức là nghe thí, giới, định. Vì
sao trở lại chìm? Vì tăng trưởng tà kiến, sinh ra kiêu mạn vậy. Vậy nên ở
trong Kinh ta nói kệ rằng :
Nếu có chúng sinh ưa các hữu
Vì hữu, nghiệp ác lành tạo nên
Người này liền mất Niết Bàn đạo
Ðó gọi tạm ra trở lại chìm.
Ði trong biển sinh tử hắc ám
Tuy được giải thoát xen não phiền
Người này trở lại thọ quả ác
Ðó gọi tạm ra trở lại chìm.
Này
thiện nam tử ! Như con cá lớn kia nhân thấy ánh sáng nên tạm được ra khỏi
nước. Nhưng thân cá ấy nặng nên lại trở lại chìm đắm. Như hai người trên
cũng lại như vậy. Này thiện nam tử ! Lại hoặc có người ưa đam mê ba hữu
thì đó gọi là chìm. Ðược nghe Kinh Ðại Niết Bàn này sinh ra lòng tin thì
đó gọi là ra. Vì nhân duyên gì gọi đó là ra ? Vì nghe Kinh này rồi, xa lìa
ác pháp, tu tập thiện pháp nên đó gọi là ra. Người này tuy tin nhưng cũng
chẳng đầy đủ. Vì nhân duyên gì mà tin chẳng đầy đủ ? Vì người này tuy tin
Ðại Bát Niết Bàn Thường Lạc Ngã Tịnh nhưng nói thân Như Lai vô thường, vô
ngã, vô lạc, vô tịnh. Như Lai thì có hai thứ Niết Bàn, một là hữu vi, hai
là vô vi. Hữu vi Niết Bàn không Thường Lạc Ngã Tịnh, vô vi Niết Bàn có
Thường Lạc Ngã Tịnh. Họ tuy tin Phật tính là chúng sinh có nhưng chẳng
nhất định tất cả đều có Phật tính. Vậy nên gọi là tin chẳng đầy đủ.
Này
thiện nam tử ! Tin có hai thứ, một là tin, hai là cầu. Người như vậy tuy
lại có tin nhưng chẳng thể tìm cầu. Vậy nên gọi là tin chẳng đầy đủ. Tin
lại có hai thứ, một là từ nghe sinh ra, hai là từ nghĩ sinh ra. Lòng tin
của người này từ nghe mà sinh ra, chẳng từ nghĩ sinh ra. Vậy nên gọi là
tin chẳng đầy đủ. Tin lại có hai thứ, một là tin có đạo, hai là tin người
được đạo. Lòng tin người này chỉ tin có đạo, đều chẳng tin có người được
đạo. Vậy nên gọi là tin chẳng đầy đủ. Tin lại có hai thứ, một là tin
chánh, hai là tin tà. Nói có nhân quả, có Phật Pháp Tăng thì đó gọi là tin
chánh. Nói không nhân quả, tính Tam Bảo khác, tin các lời nói tà bậy, phú
lan na.v.v... thì đó gọi là tin tà. Người này tuy tin Phật bảo, Pháp bảo
và Tăng bảo, nhưng chẳng tin Tam Bảo đồng một tính tướng. Họ tuy tin nhân
quả nhưng chẳng tin người được quả báo. Vậy nên gọi là tin chẳng đầy đủ.
Người đó
thành tựu chẳng đầy đủ niềm tin, việc thọ cấm giới cũng chẳng đầy đủ thì
vì nhân duyên gì gọi là chẳng đầy đủ ? Vì nhân chẳng đủ nên sở đắc cấm
giới cũng chẳng đầy đủ. Lại vì nhân duyên gì gọi là chẳng đầy đủ ? Vì cấm
giới có hai thứ, một là oai nghi giới, hai là tùng giới giới. Người đó tuy
đầy đủ giới oai nghi nhưng chẳng đủ giới tùng giới. Vậy nên gọi là giới
chẳng đầy đủ. Lại giới có hai thứ, một là tác giới, hai là không tác giới.
Người đó chỉ đủ tác giới chẳng đủ không tác giới. Vậy nên gọi là giới
chẳng đầy đủ. Giới lại có hai thứ, một là từ thân miệng được chánh mạng,
hai là từ thân miệng chẳng được chánh mạng. Người đó chỉ từ thân miệng
chẳng được chánh mạng nên gọi đó là giới chẳng đầy đủ. Giới lại có hai
thứ, một là cầu giới, hai là xả giới. Người đó chỉ đủ giới cầu có, chẳng
được xả giới. Vậy nên gọi là giới chẳng đầy đủ. Giới lại có hai thứ, một
là theo có, hai là theo đạo. Người đó chỉ đủ giới theo có, chẳng đủ giới
theo đạo. Vậy nên gọi là Giới chẳng đầy đủ. Giới lại có hai thứ, một là
thiện giới, hai là ác giới. Thân miệng ý thiện thì đó gọi là thiện giới.
Giới của trâu, giới của chó thì đó gọi là ác giới. Người đó tin sâu hai
thứ giới này đều có quả báo thiện. Vậy nên gọi là giới chẳng đầy đủ.
Người đó
chẳng tin đầy đủ hai việc của giới. Việc tu học đa văn cũng chẳng đầy đủ
thì làm sao gọi là nghe chẳng đầy đủ ? Mười hai bộ Kinh mà Như Lai đã nói
chỉ tin sáu bộ, chẳng tin sáu bộ. Vậy nên gọi là nghe chẳng đầy đủ. Chỉ
lại thọ trì sáu bộ Kinh này chẳng có thể đọc tụng, vì người khác giải nói,
không có sự lợi ích. Vậy nên gọi là nghe chẳng đầy đủ. Lại nữa, thọ nhận
sáu bộ Kinh này rồi vì luận nghị, vì hơn kẻ khác, vì lợi dưỡng, vì các
hữu (có) nên thọ trì, đọc tụng, giải nói. Vậy nên gọi là nghe chẳng đầy
đủ. Này thiện nam tử ! Ở trong Kinh ta nói, nghe chẳng đầy đủ thì thế nào
là đầy đủ ? Nếu có Tỳkheo, thân miệng ý thiện, trước có thể cúng dường Hòa
Thượng, các sư trưởng, người có đức. Những vị sư trưởng này.v.v... đối với
người đó sinh lòng ái niệm. Do nhân duyên này nên các vị dạy trao kinh
pháp, người đó hết lòng thọ trì, đọc tụng, tu tập. Thọ trì, đọc tụng, tu
tập rồi thì thu được trí tuệ, được trí tuệ rồi thì có thể khéo suy nghĩ,
theo đúng như pháp mà trụ. Khéo suy nghĩ rồi thì được chính nghĩa, được
chính nghĩa rồi thì thân tâm tịch tịnh, thân tâm tịch tịnh rồi thì sinh
lòng hoan hỷ. Nhân duyên lòng hoan hỷ thì tâm được định, nhân được định
nên được Chánh tri kiến. Có Chánh tri kiến rồi thì đối với các hữu, lòng
sinh nhàm chán, hối hận mà nhàm chán hối hận các hữu nên có thể được giải
thoát. Người đó không có những việc như vậy nên gọi là nghe chẳng đầy đủ.
Người đó
chẳng đủ ba việc như vậy thì Thí cũng chẳng đủ. Thí có hai thứ, một là tài
thí, hai là pháp thí. Người đó tuy lại làm tài thí mà vì cầu có (hữu) nên
tuy hành pháp thí nhưng cũng chẳng đầy đủ. Vì sao vậy ? Vì còn giữ kín
chẳng nói hết sợ người khác hơn. Vậy nên gọi là thí chẳng đầy đủ. Tài,
pháp hai thứ thí đều có hai thứ, một là Thánh, hai là chẳng phải Thánh.
Thánh thì thí rồi chẳng cầu quả báo. Chẳng phải Thánh thì thí rồi cầu quả
báo. Bậc Thánh thí pháp làm tăng trưởng pháp. Kẻ chẳng phải Thánh thí pháp
làm tăng trưởng các hữu. Những người như vậy vì thèm của cải mà làm tài
thí, vì thêm các hữu mà hành pháp thí. Vậy nên gọi là thí chẳng đầy đủ.
Lại nữa, người đó thọ nhận sáu bộ Kinh mà thấy người thọ pháp thì cung
cấp, còn người chẳng thọ thì chẳng cung cấp. Ðó gọi là Thí chẳng đầy đủ.
Người đó
chẳng đủ bốn việc như trên thì việc tu trí tuệ cũng chẳng đầy đủ. Tính của
trí tuệ là tính có thể phân biệt. Người đó chẳng thể phân biệt Như Lai là
thường hay vô thường. Ở trong Kinh Niết Bàn này, Như Lai nói rằng, Như Lai
tức là Giải thoát, Giải thoát tức là Như Lai, Như Lai tức là Niết Bàn,
Niết Bàn tức là Giải thoát. Ở trong nghĩa này người đó chẳng thể phân
biệt. Phạm hạnh tức là Như Lai, Như Lai tức là Từ, Bi, Hỷ, Xả. Từ, Bi, Hỷ,
Xả tức là Giải thoát, Giải thoát tức là Niết Bàn, Niết Bàn tức là Từ, Bi,
Hỷ, Xả. Ở trong nghĩa này người đó chẳng thể phân biệt. Vậy nên gọi là Trí
chẳng đầy đủ. Lại nữa, chẳng thể phân biệt được Phật tính. Phật tính tức
là Như Lai, Như Lai tức là tất cả pháp bất cộng, pháp bất cộng tức là Giải
thoát, Giải thoát tức là Niết Bàn, Niết Bàn tức là pháp bất cộng... Ở
trong nghĩa này họ chẳng thể phân biệt. Vậy nên gọi là Trí chẳng đầy đủ.
Lại nữa, chẳng thể phân biệt bốn đế : Khổ - Tập - Diệt - Ðạo. Chẳng thể
phân biệt bốn chân đế nên chẳng biết Thánh hạnh, chẳng biết Thánh hạnh nên
chẳng biết Như Lai, chẳng biết Như Lai nên chẳng biết Giải thoát, chẳng
biết Giải thoát nên chẳng biết Niết Bàn. Vậy nên gọi là Trí chẳng đầy đủ.
Người đó
chẳng đủ năm việc như vậy thì có hai thứ, một là tăng thiện pháp, hai là
tăng ác pháp. Sao gọi là tăng trưởng ác pháp ? Người đó chẳng thấy mình
chẳng đầy đủ mà tự nói đầy đủ và sinh ra lòng chấp trước, đối với người
đồng hành tự cho mình hơn. Vậy nên họ thân cận bạn ác đồng với mình. Ðã
thân cận rồi lại còn được nghe pháp chẳng đầy đủ, nghe rồi lòng vui mừng
và lòng họ nhiễm trước khởi lên kiêu mạn, hành động nhiều phóng dật, rồi
nhân phóng dật nên gần gũi với hàng tại gia, cũng ưa nghe nói việc tại
gia, xa lìa pháp xuất gia thanh tịnh. Do nhân duyên này nên thêm lớn ác
pháp, ác pháp tăng nên thân miệng ý.v.v... khởi tác nghiệp bất tịnh. Vì ba
nghiệp bất tịnh nên thêm lớn quả báo địa ngục, súc sinh, ngã quỉ. Ðó gọi
là tạm ra rồi trở lại chìm. Tạm ra rồi trở lại chìm thì trong Phật pháp
của ta người ấy là ai vậy ? Là Ðề Bà Ðạt Ða, Tỳkheo Cù Dà Li, Tỳkheo Uyển
Thủ, Tỳkheo Thiện Tinh, Tỳkheo Chỉ Xá, Tỳkheo Mãn Túc, Tỳkheo ni Từ Ðịa,
Tỳkheo ni Khoáng Dã, Tỳkheo ni Phương, Tỳkheo ni Mạn, trưởng giả Tịnh
Khiết, Ưu bà tắc Cầu Hữu, Xá Lặc Thích Chủng, Tượng trưởng giả, Ưu bà di
Danh Xưng, Ưu bà di Quang Minh, Ưu bà di Nan Ðà, Ưu bà di Quân, Ưu bà di
Linh.v.v... Những người như vậy gọi là tạm ra rồi trở lại chìm ví như con
cá lớn thấy ánh sáng nên ra mà thân nặng nên chìm.
Người
thứ hai tự thấy biết sâu là hành động chẳng đầy đủ, chẳng đầy đủ nên cầu
gần gũi bạn lành, gần gũi bạn lành nên ưa hỏi han điều chưa nghe, nghe rồi
ưa thọ, thọ rồi ưa suy nghĩ tốt, suy nghĩ tốt rồi có thể đúng như pháp
trụ, đúng như pháp trụ nên thêm lớn căn lành, thêm lớn căn lành nên nhất
định chẳng chìm nữa. Ðó gọi là Trụ. Trong Phật pháp của ta, những người ấy
là ai vậy ? Là Xá Lợi Phất, Ðại Mục Kiền Liên, A Nhã Kiều Trần Như.v.v...
năm vị Tỳkheo, Gia Xá.v.v... năm trăm vị Tỳkheo, A Nâu Lâu Ðà đồng tử, Ca
Diếp, Maha Ca Diếp, Thập Lực Ca Diếp, Tỳkheo ni Cù Ðàm Di, Tỳkheo ni Ba
Sấc La Hoa, Tỳkheo ni Thắng, Tỳkheo ni Thật Nghĩa, Tỳkheo ni Ý, Tỳkheo ni
Bạt Ðà, Tỳkheo ni Tịnh, Tỳkheo ni Bất Thoái Chuyển, vua Tần Bà Ta La,
trưởng giả Úc Dà, trưởng giả Tu Ðạt Ða, Thích Ma Nam, Tu Ðạt Ða nghèo, con
ông trưởng giả Thủ Lang, trưởng giả Danh Xưng, trưởng giả Cụ Túc, tướng
quân Sư Tử, trưởng giả Ưu Ba Ly, trưởng giả Ðao (Dao), Ưu bà di Vô Úy, Ưu
bà di Thiện Trụ, Ưu bà di Ái Pháp, Ưu bà di Dũng Kiện, Ưu bà di Thiên Ðắc,
Ưu bà di Thiện Sinh, Ưu bà di Cụ Thân, Ưu bà di Ngưu Ðắc, Ưu bà di Khoáng
Dã, Ưu bà di Ma Ha Tư Na.v.v.. Những Tỳkheo, Tỳkheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà
di như vậy được gọi là trụ. Sao gọi là trụ ? Thường ưa nhìn thấy ánh sáng
thiện. Do nhân duyên này nên nếu Phật ra đời, hoặc chẳng ra đời thì những
người như vậy nhất định chẳng tạo ác. Ðó gọi là Trụ. Như loài cá Chỉ Di ưa
thấy ánh sáng chẳng đắm chẳng chìm, những chúng như trên cũng lại như vậy.
Vậy nên, ở trong Kinh ta nói kệ rằng :
Nếu người giỏi hay phân biệt quả
Hết lòng cầu đến quả sa môn
Nếu hay quở trách tất cả “hữu”
“Như pháp trụ”, người đó xưng tên.
Nếu hay cúng dường vô lượng Phật
Thì đã tu đạo, đời không lường
Nếu thọ thế lạc chẳng phóng dật
Thì “Như pháp trụ” người đó xưng
Thân cận bạn lành nghe chánh pháp
Trong khéo tư duy, trụ theo pháp
Tu tập đạo, ưa thấy quang minh
Chứng được giải thoát trụ yên ổn.
KINH ÐẠI BÁT NIẾT BÀN
- Quyển thứ
ba mươi hai -
--- o0o ---
Mục Lục
01 |
02 |
03 | 04 |
05 |
06 | 07 |
08 |
09 | 10 |
11 |
12
13 |
14 | 15 |
16 |
17 | 18 |
19 |
20 | 21 |
22 |
23 | 24
25 |
26 | 27 |
28 |
29 | 30 |
31 | 32 |
33 |
34 | 35 |
36
--- o0o ---
|
Thư
Mục Tác Giả |
--- o0o ---
Vi tính: Thọ Huệ
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày:
01-2-2003