KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
- Hán dịch: Căn
cứ bản dịch của Tam Tạng Pháp sư
Đàm Vô Sấm,
Sa môn Tuệ Nghiêm, Tuệ Quán, và Tạ
Linh Vân sửa lại
- Đời Tống
- Việt dịch:
Tuệ Khai cư sĩ -
Phan Rang
Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
---o0o---
Quyển thứ chín
PHẨM NGUYỆT
DỤ
PHẦN XV
Ðức Phật bảo rằng :
- Này Ca Diếp ! Ví như có người thấy trăng
chẳng hiện thì nói rằng, trăng lặn mất, mà tác khởi tư tưởng mất. Nhưng
tính trăng này thật ra không lặn mất mà chuyển đi hiện ở địa phương khác.
Chúng sinh ở nơi trăng hiện đến kia lại gọi là trăng mọc ra mà tính của
trăng này thật không có mọc ra. Vì sao vậy? Vì do núi Tu Di ngăn chận nên
chẳng hiện. Trăng ấy, tính thường sinh (thường còn mãi) không có mọc ra
hay lặn mất. Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri cũng lại như vậy, xuất hiện ở
ba ngàn đại thiên thế giới, hoặc ở cõi Diêm phù đề thị hiện có cha mẹ mà
chúng sinh đều gọi là sinh ở cõi Diêm phù đề. Hoặc ở cõi Diêm phù đề thị
hiện Niết Bàn mà tính Như Lai thật ra không có Niết Bàn, nhưng các chúng
sinh đều gọi là Như Lai thật sự Bát Niết Bàn ví như vầng trăng lặn mất.
Này thiện nam tử ! Tính của Như Lai thật không sinh diệt nhưng vì hóa độ
chúng sinh nên thị hiện có sinh diệt. Này thiện nam tử ! Như ở đây trăng
tròn đầy mà phương khác thấy một nửa, ở đây trăng một nửa mà phương khác
thấy tròn đầy. Người cõi Diêm phù đề nếu thấy trăng xuất hiện đầu tiên thì
đều gọi là ngày một, khởi lên ý tưởng đầu tháng. Nếu họ thấy trăng tròn
đầy thì đều gọi là ngày mười lăm, sinh ra ý thịnh mãn mà thật ra tính của
trăng này thật không có vơi, đầy mà nhân núi Tu Di có tăng, giảm. Này
thiện nam tử ! Như Lai cũng vậy, ở cõi Diêm phù đề, hoặc hiện mới sinh,
hoặc hiện Niết Bàn. Khi hiện thai sinh thì giống như trăng non đầu tháng,
tất cả đều gọi là đồng tử. Mới sinh đi bảy bước như trăng ngày hai. Hoặc
lại thị hiện vào thư đường thì như trăng ngày ba, thị hiện xuất gia như
trăng ngày tám. Phóng ra ánh sáng đại trí tuệ vi diệu có thể phá ma chúng
của vô lượng chúng sinh như trăng tròn đầy của ngày mười lăm. Hoặc lại thị
hiện ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp để tự trang nghiêm mà hiện
Niết Bàn thì ví như nguyệt thực. Như vậy sự nhìn thấy của chúng sinh chẳng
đồng, hoặc thấy trăng một nửa, hoặc thấy trăng tròn, hoặc thấy nguyệt
thực... mà tính trăng này thật không tăng, giảm, xâm thực... luôn luôn là
trăng tròn đầy. Thân Như Lai cũng lại như vậy. Vậy nên gọi là thường trụ
bất biến. Lại nữa, này thiện nam tử ! Ví như trăng tròn đầy thì tất cả đều
hiện. Ở tại khắp nơi nơi, thành ấp, tụ lạc, núi đầm, trong nước, hoặc
giếng, hoặc ao và những đồ đựng nước... tất cả đều hiện. Có các chúng sinh
đi một trăm do tuần, trăm ngàn do tuần, thấy trăng luôn đi theo. Người
phàm phu ngu si phát sinh nhớ tưởng rằng : “Ta vốn ở nhà tại thành ấp,
thấy trăng như vậy. Nay lại ở đầm trống này thấy trăng đó. Ðó là trăng cũ
hay là khác với trăng cũ”. Họ đều tác khởi ý niệm này : hình dạng trăng
lớn, nhỏ. Hoặc nói rằng, như miệng vàng; hoặc nói rằng, như bánh xe, hoặc
nói rằng, bằng bốn mươi chín do tuần. Tất cả đều thấy ánh sáng của trăng,
hoặc thấy tròn trịa giống như cái mâm vàng... Tính của trăng đó là một mà
đủ loại chúng sinh đều thấy hình tướng khác. Này thiện nam tử ! Như Lai
cũng vậy, xuất hiện ở đời, hoặc có người, trời mà tác khởi ý niệm này :
“Như Lai nay trụ ở trước ta”. Lại có súc sinh cũng sinh ra ý niệm này :
“Ðức Như Lai nay trụ ở trước ta”. Hoặc có người câm điếc cũng thấy Như Lai
có tướng câm điếc. Chúng sinh đủ loại, ngôn ngữ đều khác mà đều cho là Như
Lai đồng ngôn ngữ với mình, cũng đều sinh ra ý niệm ở tại nhà cửa của
mình, nhận sự cúng dường của mình. Hoặc có chúng sinh thấy thân Như Lai
rộng lớn không lường, hoặc thấy nhỏ xíu. Hoặc có người thấy Phật là hình
dáng Thanh Văn. Hoặc lại có người thấy là hình dáng Duyên Giác. Có những
ngoại đạo lại đều nghĩ rằng : “Ðức Như Lai nay ở trong pháp của ta xuất
gia học đạo”. Hoặc có chúng sinh lại nghĩ rằng : “Ðức Như Lai nay riêng vì
một mình ta nên xuất hiện ở đời”. Thật tính của Như Lai ví như vầng trăng
kia, tức là pháp thân, là thân vô sinh. Thân phương tiện thuận theo với
đời mà thị hiện vô lượng nhân duyên nghiệp xưa ! Ở tại khắp nơi nơi Như
Lai thị hiện có sinh giống như vầng trăng kia. Do ý nghĩa này nên Như Lai
thường trụ không có biến dị. Lại nữa, này thiện nam tử ! Như vua A tu la
La Hầu La dùng tay ngăn che mặt trăng mà những người thế gian đều gọi là
nguyệt thực. Vua A tu la thật ra chẳng thể ăn mặt trăng mà vua A tu la chỉ
ngăn che ánh sáng của vầng trăng ấy nên vầng trăng này vẫn tròn trịa không
có khuyết tổn. Chỉ dùng tay ngăn nên khiến cho biến mất, nếu khi vén tay
lên thì thế gian đều gọi là trăng lại sinh trở lại, đều nói rằng, trăng
đó chịu nhiều khổ não. Nhưng giả sử có hàng trăm ngàn vua A tu la cũng
chẳng thể não hại được trăng đó. Như Lai cũng vậy, thị hiện có chúng sinh
đối với Như Lai, đã sinh lòng thô ác, làm chảy máu thân Phật, khởi lên tội
ngũ nghịch... cho đến Nhất xiễn đề. Vì chúng sinh đời vị lai nên thị hiện
sự phá hoại Tăng, đoạn diệt pháp như vậy mà tạo tác nạn để lại. Giả sử vô
lượng trăm ngàn những ma chẳng thể lấn lướt làm chảy máu thân đức Như Lai.
Sở dĩ vì sao? Vì thân Như Lai không có máu thịt, gân, mạch, xương, tủy...
Như Lai chân thật không có não hoại. Chúng sinh đều cho là Pháp, Tăng hủy
hoại, Như Lai diệt tận mà tính Như Lai chân thật, không biến dị, không có
phá hoại. Như Lai thuận theo thế gian mà thị hiện như vậy thôi. Lại nữa,
này thiện nam tử ! Như hai người đánh nhau. Hoặc dùng dao, gậy đả thương
thân chảy máu, tuy đến chết nhưng chẳng khởi lên tư tưởng sát hại. Nghiệp
tướng như vậy nhẹ mà chẳng nặng vì ở chỗ Như Lai vốn không có lòng sát
hại. Tuy thân chảy máu nhưng nghiệp đó cũng vậy, nhẹ và chẳng nặng. Như
Lai như vậy, vào đời vị lai, vì hóa độ chúng sinh nên thị hiện nghiệp báo.
Lại nữa, này thiện nam tử! Giống như vị lương y siêng dạy bảo con mình về
căn bản của y phương : “Ðây là thuốc rễ, đây là thuốc thân (thân thảo
dược), đây là thuốc hình sắc... đủ thứ tướng mạo của thuốc. Con phải giỏi
biết !” Người con ấy kinh vâng sự dạy bảo của cha, tinh cần học tập, giỏi
lý giải các thứ thuốc. Thời gian sau vị lương y đó thọ tận mạng chung,
người con ấy gào khóc luyến mộ mà nói lên rằng : “Cha vốn dạy con, thuốc
rễ như vầy, thuốc thân như vầy, thuốc hoa như vầy, sắc tướng như vầy...”
Như Lai cũng vậy, vì hóa độ chúng sinh, thị hiện chế ra giới luật : cần
phải như vầy mà thọ trì chớ phạm phải tội ngũ nghịch, bài báng chính pháp
đưa đến Nhất xiễn đề”. Vì đời vị lai sẽ khởi lên những việc đó nên ta thị
hiện ra. Muốn khiến cho Tỳ kheo, sau khi Phật diệt độ nên tạo ra sự hiểu
biết như vậy. Ðây là nghĩa thậm thâm của Khế kinh. Ðây là tướng khinh,
trọng của giới luật. Ðây là pháp cú phân biệt A Tỳ Ðàm... giống như con
của vị lương y kia.
Lại nữa, này thiện nam tử ! Như người thấy
trăng sáu tháng một lần nguyệt thực mà trên chư thiên thì trong giây lát
đã thấy nguyệt thực. Vì sao vậy? Vì ngày của trời kia dài, của nhân gian
ngắn. Này thiện nam tử ! Như Lai cũng vậy, trời người đều cho là Như Lai
thọ mạng ngắn như người trời kia trong giây lát đều thấy nguyệt thực. Như
Lai lại ở trong giây lát, thị hiện trăm ngàn vạn ức lần Niết Bàn, đoạn trừ
ma phiền não, ma ấm, ma chết. Vậy nên trăm ngàn vạn ức thiên ma đều biết
Như Lai vào Bát Niết Bàn. Lại nữa, Như Lai thị hiện vô lượng trăm ngàn
nhân duyên nghiệp đời trước, thuận theo đủ tính của thế gian. Như Lai đã
thị hiện vô lượng vô biên, chẳng thể nghĩ bàn như vậy. Vậy nên Như Lai
thường trụ không biến dị. Lại nữa, này thiện nam tử ! Ví như trăng sáng
chúng sinh ưa nhìn thấy (Lạc Kiến). Vậy nên xưng hiệu của trăng là Lạc
Kiến. Chúng sinh nếu có tham dục sân nhuế, ngu si thì chẳng được xưng là
Lạc Kiến. Như Lai, như vậy tính ấy thuần thiện, thanh tịnh, không cấu bẩn,
là rất có thể xưng là Lạc Kiến. Chúng sinh ưa pháp nhìn Như Lai không chán
còn người ác tâm chẳng vui lòng nhìn ngắm. Do ý nghĩa đó nên nói rằng, Như
Lai ví như trăng sáng. Lại nữa, này thiện nam tử ! Ví như mặt trời mọc có
ba thời điểm khác. Ðó là mùa xuân, mùa hạ và mùa đông. Ngày mùa đông thì
ngắn, ngày mùa xuân thì trung bình còn ngày mùa hạ thì rất dài. Như Lai
cũng vậy, đối với ba ngàn đại thiên thế giới này là thọ mạng ngắn ngủi và
vì các Thanh Văn thị hiện thọ mạng ngắn ngủi. Những người ấy thấy thế rồi
đều cho là thọ mạng của Như Lai ngắn ngủi ví như ngày mùa Ðông. Phật vì
các vị Bồ tát thị hiện thọ mạng trung bình, hoặc đến một kiếp hay bớt một
kiếp ví như ngày của mùa Xuân. Chỉ có Phật nhìn thấy thọ mạng ấy của Phật
là vô lượng, ví như ngày của mùa Hạ. Này thiện nam tử ! Lời nói của Như
Lai, giáo pháp Phương Ðẳng Ðại Thừa vi mật, thị hiện ở thế gian, mưa xuống
đại pháp vũ... Vào đời vị lai, nếu có người có thể hộ trì Kinh điển đó mà
khai thị, phân biệt, lợi ích cho chúng sinh thì phải biết hạng người đó là
những Bồ tát chân thật ví như lúc thịnh hạ, trời tuông mưa cam lộ. Nếu có
người Thanh Văn, Duyên Giác nghe giáo lý vi mật của Phật Như Lai thì ví
ngày mùa Ðông gặp nhiều lạnh lẽo. Người Bồ tát, nếu nghe lời dạy bảo vi
mật, Như Lai thường trụ, tính không biến dị như vậy thì ví như ngày mùa
Xuân, mầm chồi nảy nở. Nhưng mà tính Như Lai thật sự không có dài, ngắn,
vì thế gian nên thị hiện như vậy thôi. Ðó tức là pháp tính chân thật của
các đức Phật. Lại nữa, này thiện nam tử ! Ví như mọi vì sao, ban ngày thì
chẳng hiện mà mọi người đều cho là ban ngày sao diệt mất nhưng kỳ thật
chẳng mất mà sở dĩ chẳng hiện là vì ánh sáng mặt trời làm lòa đi. Như Lai
cũng vậy, Thanh Văn, Duyên Giác chẳng thể được thấy, giống như người đời
chẳng thấy sao vào ban ngày. Lại nữa, này thiện nam tử ! Ví như trong bóng
tối mặt trời, mặt trăng biến mất. Người ngu nói rằng, mặt trời, mặt trăng
mất tiêu, mà thật ra mặt trời, mặt trăng đó không mất tiêu. Khi Chánh pháp
của Như Lai diệt tận, Tam Bảo biến mất cũng lại như vậy, chẳng phải diệt
mất vĩnh viễn. Vậy nên phải biết là Như Lai thường trụ, không có biến dị.
Vì sao vậy? Vì chân tính của Tam Bảo chẳng bị sự ô nhiễm của những cấu
bẩn.
Lại nữa, này thiện nam tử ! Ví như đêm
không trăng, sao Tuệ xuất hiện. Ánh sáng sao ấy sáng chói, xuất hiện chốc
lát lại biến mất. Chúng sinh thấy sao ấy rồi sinh ra tư tưởng chẳng tốt
lành. Các Bích Chi Phật cũng lại như vậy, xuất hiện ở đời không Phật,
chúng sinh thấy rồi đều cho là Như Lai chân thật. Sau khi những vị ấy diệt
họ đều sinh tư tưởng ưu bi mà thân Như Lai thật chẳng diệt độ như mặt
trời, mặt trăng kia không có diệt mất.
Lại nữa, này thiện nam tử ! Ví như mặt trời
mọc thì mọi sương mù đều tan. Kinh điển Ðại Niết Bàn vi diệu này cũng lại
như vậy, xuất hiện ở đời, nếu có chúng sinh một lần nghe Kinh rồi thì có
thể diệt trừ hết tất cả những tội nghiệp ác vô gián. Cảnh giới thậm thâm
Ðại Niết Bàn đó chẳng thể nghĩ bàn, khéo nói tính vi mật của Như Lai. Do ý
nghĩa đó nên các thiện nam tử, thiện nữ nhân.v.v... nên đối với Như Lai
sinh tâm thường trụ, không có biến dị, Chánh pháp chẳng đoạn, tăng bảo
chẳng diệt. Vậy nên cần phải tu nhiều phương tiện, siêng học Kinh điển đó
thì người này chẳng bao lâu sẽ được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Vậy
nên Kinh này gọi là sự thành tựu của vô lượng công đức, cũng gọi là Bồ Ðê
chẳng thể cùng tận. Do chẳng cùng tận nên được xưng là Ðại Bát Niết Bàn;
có ánh sáng thiện nên giống như ngày mùa hạ; thân vô biên nên gọi là Ðại
Niết Bàn.
PHẨM BỒ TÁT
PHẦN XVI:
Lại nữa, này thiện nam tử ! Như trong ánh
sáng thì ánh sáng mặt trời, mặt trăng là trên hết, tất cả những ánh sáng
đã chẳng thể bì kịp. Ánh sáng Ðại Niết Bàn cũng lại như vậy, đối với ánh
sáng của các Khế kinh, tam muội, là tối thù thắng, ánh sáng sở hữu của các
Kinh, tam muội đã chẳng thể bì kịp. Vì sao vậy? Vì ánh sáng của Ðại Niết
Bàn có thể vào những lỗ chân lông của chúng sinh. Chúng sinh tuy không có
tâm Bồ Ðề mà có thể vì họ tạo tác nhân duyên Bồ Ðề. Vậy nên lại gọi là Ðại
Bát Niết Bàn.
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Như đức Phật đã nói,
ánh sáng Ðại Niết Bàn vào với lỗ chân lông của tất cả chúng sinh, chúng
sinh tuy không có tâm Bồ Ðề mà có thể vì họ tạo tác nhân Bồ Ðề, thì ý
nghĩa này chẳng vậy. Vì sao vậy? Thưa đức Thế Tôn ! Vì người phạm bốn
trọng cấm, làm ngũ nghịch tội và Nhất xiển đề mà ánh sáng vào thân, tạo
nhân Bồ Ðề thì bọn như vậy cùng với người trì tịnh giới, tu tập các thiện
có gì sai khác? Nếu không sai khác thì đức Như Lai cớ sao nói ý nghĩa của
bốn y (nương)? Thưa đức Thế Tôn ! Lại như đức Phật nói rằng, nếu có chúng
sinh nghe Ðại Niết Bàn, chỉ một lần Kinh đến tai thôi thì được đoạn trừ
các phiền não thì sao ở trên đức Như Lai lại nói, có người ở chỗ hằng hà
sa số Phật phát tâm Bồ Ðề mà nghe Ðại Niết Bàn chẳng lý giải được nghĩa
của Kinh ấy. Nếu chẳng giải được nghĩa thì làm sao có thể đoạn tất cả
phiền não?
Ðức Phật dạy rằng :
- Này thiện nam tử ! Trừ Nhất xiển đề, kỳ
dư chúng sinh nghe Kinh này rồi thì đều có thể tạo tác nhân duyên Bồ Ðề,
ánh sáng của âm thanh pháp vào lỗ chân lông thì nhất định sẽ được Vô
Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Vì sao vậy? Vì nếu có người có thể cúng
dường cung kính vô lượng chư Phật thì mới được nghe Kinh Ðại Niết Bàn, còn
người bạc phước thì chẳng được nghe. Sở dĩ vì sao? Vì người đức lớn mới có
thể được nghe việc lớn như vậy, còn hạng phàm phu hạ liệt thì chẳng được
nghe. Cái gì là lớn? Là thâm mật tạng của chư Phật, là Như Lai tính đó !
Do ý nghĩa này nên gọi là việc lớn !
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Sao gọi là người chưa
phát tâm Bồ Ðề mà được nhân Bồ Ðề?
Ðức Phật bảo ngài Ca Diếp rằng :
- Nếu có người nghe Kinh Ðại Niết Bàn này
mà nói rằng, ta chẳng cần phát tâm Bồ Ðề, bài báng Chánh pháp thì người đó
liền ở trong mơ, thấy hình dáng La sát, trong lòng kinh sợ. La sát nói
rằng : “Hừ ! Này thiện nam tử ! Ông nay nếu chẳng phát tâm Bồ Ðề thì ta sẽ
giết ngươi”. Người đó kinh hoàng thức dậy, liền phát tâm Bồ Ðề. Người đó
sau khi mạng chung, nếu sinh tại ba đường và tại cõi người, trời lại tiếp
tục nhớ nghĩ tâm Bồ Ðề thì phải biết người này là Ðại Bồ tát Mahatát vậy.
Do ý nghĩa đó nên sức uy thần của Ðại Niết Bàn này có thể khiến cho người
chưa phát tâm Bồ Ðề tạo tác nhân Bồ Ðề. Này thiện nam tử ! Ðó gọi là Nhân
duyên Bồ Ðề phát tâm, chẳng phải không nhân duyên. Do ý nghĩa đó nên Ðại
Thừa Diệu Ðiển là lời nói chân thật của Phật. Lại nữa, này thiện nam tử !
Ví như trong hư không khởi lên mây mưa lớn trút xuống đại địa, cây khô,
núi đá, vùng cao, gò đống... thì nước mưa chẳng trụ lại được mà tuông chảy
vào ruộng thấp, vũng, ao... tràn đầy, lợi ích không lường cho tất cả chúng
sinh. Kinh điển Ðại Niết Bàn vi diệu này cũng lại như vậy, mưa xuống mưa
pháp lớn thấm nhuần khắp chúng sinh. Chỉ Nhất xiển đề mà phát tâm Bồ Ðề
thì không có điều này. Lại nữa, này thiện nam tử ! Ví như hạt giống cháy,
tuy gặp mưa ngọt hàng trăm ngàn vạn kiếp nhưng nhất định chẳng nảy mầm.
Mầm nếu mọc ra thì không có điều đó. Bọn Nhất xiển đề cũng lại như vậy,
tuy nghe Kinh điển Ðại Bát Niết Bàn vi diệu như vậy, nhưng nhất định chẳng
thể phát mầm tâm Bồ Ðề, nếu có thể phát thì không có điều đó. Vì sao vậy?
Vì người đó đoạn diệt tất cả thiện căn như hạt giống cháy kia nên chẳng
thể lại nảy sinh mầm rễ Bồ Ðề. Lại nữa, này thiện nam tử ! Ví như viên
ngọc sáng đặt trong nước đục. Do uy đức của ngọc nên nước liền lắng trong.
Nếu ném vào đó bùn ứ thì chẳng thể làm cho trong được. Kinh điển Ðại Niết
Bàn vi diệu này cũng lại như vậy, đặt những chúng sinh phạm năm tội vô
gián, bốn pháp trọng cấm khác vào trong nước đục còn có thể lắng trong,
phát tâm Bồ Ðề. Ném vào trong đó bùn ứ Nhất xiển đề thì trăm ngàn vạn năm
cũng chẳng thể khiến cho lắng trong, dấy khởi tâm Bồ Ðề được. Vì sao vậy?
Vì Nhất xiển đề đó đoạn diệt các thiện căn, chẳng phải Bồ Ðề khí vậy. Giả
sử người đó đã hàng trăm ngàn vạn năm thính thọ Kinh Ðại Niết Bàn như vậy
cũng nhất định chẳng thể phát tâm Bồ Ðề. Sở dĩ vì sao? Vì không có thiện
tâm vậy.
Lại nữa, này thiện nam tử ! Ví như cây
thuốc tên là Dược Vương, ở trong các thuốc, nó là tối thù thắng. Nếu hòa
nó với cao sữa, hoặc mật, hoặc váng sữa, hoặc nước lã, hoặc nước uống,
hoặc làm thành bột, hoặc thành hoàn, rồi hoặc dùng bôi vết thương, xông hơ
thân thể, tra vào mắt, hoặc nhìn thấy thuốc hay ngửi mùi thuốc... có thể
diệt tất cả mọi thứ bệnh của chúng sinh. Cây thuốc như vậy chẳng tác khởi
ý niệm này : “Tất cả chúng sinh hoặc lấy rễ ta, chẳng nên lấy lá, hoặc lấy
lá thì chẳng nên lấy rễ, hoặc lấy thân thì chẳng nên lấy vỏ, hoặc lấy vỏ
thì chẳng nên lấy thân”. Cây đó tuy lại chẳng sinh ý niệm đó nhưng mà có
thể trừ diệt tất cả bệnh khổ. Này thiện nam tử ! Kinh điển Ðại Niết Bàn vi
diệu này cũng lại như vậy, có thể trừ ác nghiệp, bốn Ba-la-di, năm tội vô
gián của tất cả chúng sinh và các ác sở hữu hoặc ở bên trong hay bên
ngoài. Những người chưa phát tâm Bồ Ðề thì nhân đó được phát tâm Bồ Ðề. Vì
sao vậy? Vì diệu Kinh điển này là vua trong các Kinh như cây thuốc kia là
vua trong các thuốc. Nếu có người tu tập Kinh Ðại Niết Bàn này và người
chẳng tu, hoặc chỉ nghe có danh tự của Kinh điển đó thôi mà nghe rồi kính
tín thì tất cả trọng bệnh phiền não sở hữu đều trừ diệt hết. Nhưng chỉ
chẳng thể khiến cho bọn Nhất xiển đề an trụ ở Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh
Giác như cây diệu dược kia tuy có thể trị khỏi đủ thứ trọng bệnh nhưng mà
chẳng thể trị được người nhất định chết. Lại nữa, này thiện nam tử ! Như
người tay bị thương cầm nắm thuốc độc thì độc sẽ theo vào, nếu người không
bị thương thì độc chẳng vào. Bọn Nhất xiển đề cũng lại như vậy, không có
nhân Bồ Ðề như không có vết thương thì độc chẳng được vào. Cái gọi là vết
thương tức là nhân duyên của Bồ Ðề vô thượng. Ðộc tức là đệ nhất diệu lạc.
Toàn vẹn không vết thương thì gọi là Nhất xiển đề. Lại nữa, này thiện nam
tử ! Ví như Kim cương không gì có thể hủy hoại mà có thể phá hoại tất cả
mọi vật, chỉ trừ mai rùa và sừng dê trắng. Kinh điển Ðại Niết Bàn vi diệu
này cũng lại như vậy, đều có thể dừng yên vô lượng chúng sinh ở đạo Bồ Ðề,
chỉ chẳng thể khiến cho bọn Nhất xiển đề kiến lập nhân Bồ Ðề. Lại nữa, này
thiện nam tử ! Như cỏ răng ngựa, cây Ta-la-xí, cây Ni-ca-la tuy chặt cành
thân nhưng vẫn tiếp tục sinh ra như cũ, chẳng như cây Ða-la, chặt rồi,
chẳng sinh ra nữa. Những chúng sinh đó cũng lại như vậy, nếu được nghe
Kinh Ðại Niết Bàn này, tuy phạm bốn trọng cấm, năm tội vô gián nhưng còn
có thể sinh nhân duyên Bồ Ðề. Bọn Nhất xiển đề thì chẳng như vậy, tuy được
thính thọ Kinh điển vi diệu này nhưng mà chẳng thể sinh ra nhân Bồ Ðề đạo.
Lại nữa, này thiện nam tử ! Như cây Khư đà
la, cây Trấn đầu ca bị chặt rồi, chẳng sinh ra nữa. Bọn Nhất xiển đề cũng
lại như vậy, tuy được nghe Kinh Ðại Niết Bàn này nhưng mà chẳng thể phát
khởi nhân duyên Bồ Ðề. Lại nữa, này thiện nam tử ! Ví như mưa lớn nhất
định chẳng trụ ở hư không. Kinh điển Ðại Niết Bàn vi diệu này cũng lại như
vậy, mưa pháp vũ khắp nơi, nhưng đối với Nhất xiển đề thì chẳng thể trụ
được. Nhất xiển đề này khắp thân thể kín mít giống như Kim Cương, chẳng
dung nạp ngoại vật.
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Như đức Phật đã nói kệ
:
Chẳng thấy, thiện chẳng làm
ØChỉ
thấy ác đáng làm
Chỗ này đáng kinh sợ Như đường ác
nguy nan.
Thưa đức Thế Tôn ! Lời nói như vậy có những
nghĩa gì?
Ðức Phật dạy rằng :
- Này thiện nam tử ! Chẳng thấy nghĩa là
chẳng thấy Phật tính. Thiện tức là Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Chẳng
làm là nói lên việc chẳng thể gần gũi bạn lành. Chỉ thấy là thấy không
nhân quả. Ác là gọi sự bài báng Kinh điển Ðại Thừa Phương Ðẳng. Ðáng làm
là gọi Nhất xiển đề nói không có Phương Ðẳng. Do ý nghĩa này nên bọn Nhất
xiển đề vô tâm hướng đến thiện pháp thanh tịnh. Cái gì là thiện pháp? Ðó
là Niết Bàn vậy. Hướng đến Niết Bàn là gọi sự có thể tu tập hạnh hiền
thiện mà Nhất xiển đề không có hạnh hiền thiện. Vậy nên chẳng thể hướng
đến Niết Bàn. Chỗ này đáng sợ là gọi sự bài báng Chánh pháp. Ai nên kinh
sợ? Ðó là bậc trí giả. Vì sao vậy? Vì người bài báng pháp thì không có
lòng thiện và phương tiện. Ðường ác nguy hiểm là gọi các hành vậy.
Ngài Ca Diếp nói rằng :
- Như đức Phật đã nói thì :
Sao gọi thấy sở tácØSao
gọi được pháp lành?
Chỗ nào chẳng bố úy? Như đường vua
phẳng bằng?
Những nghĩa này là sao?
Ðức Phật dạy rằng :
- Này thiện nam tử ! Thấy sở tác là phát lộ
các ác. Từ cõi sinh tử những việc ác đã làm đều phát lộ ra hết, cho đến
không chỗ đến. Do ý nghĩa đó nên gọi là chỗ không sợ. Ví như con đường du
hành chính của vua người. Trong đường ấy, đạo tặc đều chạy trốn hết. Phát
lộ như vậy thì tất cả các ác đều diệt hết, không còn. Lại nữa, chẳng thấy
sở tác là gọi sự tạo tác mọi ác mà chẳng tự thấy của Nhất xiển đề, là lòng
kiêu mạn của Nhất xiển đề. Tuy làm nhiều điều ác nhưng ở trong việc đó,
Nhất xiển đề không kinh sợ. Do ý nghĩa đó nên chẳng được Niết Bàn ví như
con vượn bắt vầng trăng trong nước. Này thiện nam tử! Giả sử tất cả vô
lượng chúng sinh cùng một lúc thành tựu Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác
rồi thì những vị Như Lai này cũng lại chẳng thấy có Nhất xiển đề kia được
thành Bồ Ðề. Do ý nghĩa đó nên gọi là chẳng thấy sở tác. Lại nữa, chẳng
thấy sở tác của ai? Là gọi chẳng thấy sở tác của Như Lai. Phật vì chúng
sinh nói có Phật tính mà bọn Nhất xiển đề lưu chuyển trong sinh tử chẳng
thể thấy biết. Do ý nghĩa đó nên gọi là chẳng thấy sở tác của Như Lai.
Lại, Nhất xiển đề thấy ở Như Lai rốt ráo Niết Bàn, cho đó là vô thường
chân thật giống như đèn tắt thì dầu mỡ đều hết. Vì sao vậy? Vì người đó
nghiệp ác chẳng tổn giảm vậy. Nếu có Bồ tát khi tạo tác nghiệp thiện đều
hồi hướng về Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác mà bọn Nhất xiển đề tuy hủy
báng, phá hoại, chẳng tin, nhưng các Bồ tát còn cố thí cho, muốn cho họ
cùng chung thành tựu đạo Vô thượng. Vì sao vậy? Vì pháp của chư Phật vậy.
Làm ác chẳng liền thọ Ø
Như sữa liền thành cao
Giống tro phủ trên lửa Người ngu khinh đạp
vào.
Nhất xiển đề thì gọi là không mắt. Vậy nên
chẳng thấy đạo A la hán, như A la hán chẳng đi trên đường ác hiểm sinh tử.
Vì không mắt nên bài báng Phương Ðẳng, chẳng muốn tu tập như A la hán
siêng tu từ tâm. Bọn Nhất xiển đề chẳng tu theo Phương Ðẳng cũng lại như
vậy. Nếu người nói rằng : “Ta nay chẳng tin Kinh điển của Thanh Văn, chỉ
tín thọ Ðại Thừa và đọc tụng giải nói. Vậy nên ta nay tức là Bồ tát. Tất
cả chúng sinh đều có Phật tính. Do Phật tính nên trong thân chúng sinh đã
có mười lực, ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Lời nói của ta chẳng
khác lời nói của Phật. Ông nay cùng ta đều đã phá vô lượng những phiền não
ác như đập vỡ cái bình nước. Do phá được kết sử nên liền có thể được thấy
Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác”. Người đó tuy đã diễn nói như vậy nhưng
lòng người ấy thật chẳng tin có Phật tính chỉ vì lợi dưỡng nên thuận theo
lời văn mà nói thôi. Người nói như vậy gọi là người ác. Người ác như vậy
thì chẳng mau chóng chịu quả báo như sữa thành cao sữa. Ví như vị sứ thần
của vua giỏi khả năng đàm luận, khéo léo phương tiện, vâng mệnh đi sứ nước
khác thì thà mất thân mạng, nhất định chẳng trốn tránh lời dạy bảo của
vua. Bậc trí giả cũng vậy, ở trong phàm phu, chẳng tiếc thân mạng, cốt để
tuyên nói Ðại Thừa Phương Ðẳng, mật tạng của Như Lai, tất cả chúng sinh
đều có Phật tính. Này thiện nam tử ! Có Nhất xiển đề hóa làm hình dáng La
hán trụ ở chỗ trống mà bài báng Kinh điển Phương Ðẳng Ðại Thừa. Những
người phàm phu thấy thế rồi đều cho là A la hán chân thật, là Ðại Bồ tát
Mahatát. Bọn ác Tỳ kheo Nhất xiển đề này trụ ở chỗ A lan nhã, phá hoại
pháp A lan nhã, thấy người khác được lợi, lòng sinh ra ganh ghét mà nói
lên rằng : “Kinh điển Ðại Thừa Phương Ðẳng sẵn có đều là lời nói của thiên
ma Ba Tuần”. Chúng cũng nói, Như Lai là pháp vô thường và hủy diệt chánh
pháp, phá hoại chúng Tăng. Chúng lại nói lên lời này : “Lời nói của Ba
Tuần chẳng phải lời nói thiện thuận”. Làm ra sự tuyên nói pháp tà ác này,
người làm ác đó chẳng thọ quả báo liền như sữa thành cao sữa, như tro phủ
trên lửa, người ngu khinh đạp vào. Người như vậy là chỉ cho Nhất xiển đề.
Vậy nên ông phải biết là, Kinh điển Ðại Thừa Phương Ðẳng vi diệu nhất định
thanh tịnh, như ngọc ma ni ném vào nước đục, nước liền được lắng trong.
Kinh điển Ðại Thừa cũng lại như vậy. Lại nữa, này thiện nam tử ! Ví như
hoa sen được sự soi sáng của mặt trời không hoa nào chẳng nở ra. Tất cả
chúng sinh cũng lại như vậy. Nếu được nghe thấy mặt trời Ðại Niết Bàn thì
người chưa phát tâm đều phát tâm làm nhân Bồ Ðề. Vậy nên ta nói ánh sáng
Ðại Niết Bàn đã vào lỗ chân lông thì nhất định là nhân duyên vi diệu. Nhất
xiển đề kia tuy có Phật tính mà bị sự ràng buộc của vô lượng tội cấu,
chẳng thể được ra như con tằm ở trong kén. Do nghiệp duyên đó nên chẳng
thể được sinh diệu nhân của Bồ Ðề mà lưu chuyển sinh tử không có cùng rồi.
Lại nữa, này thiện nam tử ! Như hoa Ưu bát
la, hoa Bát đầu ma, hoa Câu vật đầu, hoa Phân đà lợi ở trong bùn ứ mà
chẳng bị sự nhiễm bẩn của bùn ứ. Nếu có chúng sinh tu học Kinh điển Ðại
Niết Bàn vi diệu thì cũng lại như vậy, tuy có phiền não nhưng nhất định
chẳng bị sự nhiễm bẩn của phiền não đó. Vì sao vậy? Vì biết sức tính tướng
của Như Lai vậy. Này thiện nam tử ! Ví như có đất nước nhiều gió mát mẻ,
nếu gió chạm vào những lỗ chân lông của thân chúng sinh thì có thể trừ tất
cả hơi nóng phiền não xông lên. Kinh điển Ðại Thừa Ðại Niết Bàn này cũng
lại như vậy, vào khắp tất cả lỗ chân lông của chúng sinh, vì họ tạo tác
nhân duyên vi diệu của Bồ Ðề, trừ Nhất xiển đề. Vì sao vậy? Vì chẳng phải
là pháp khí vậy !
Lại nữa, này thiện nam tử ! Ví như vị lương
y giải được tám thứ thuốc giảm tất cả bệnh tật mà chỉ chẳng thể trừ được
bệnh A tát xà. Tất cả Khế kinh, thiền định tam muội cũng lại như vậy, có
thể trị được tất cả những bệnh phiền não, tham dục, sân nhuế, ngu si, có
thể nhổ những mũi tên độc phiền não mà chẳng thể trị kẻ phạm bốn trọng
cấm, năm tội vô gián. Này thiện nam tử ! Lại có vị lương y vượt hơn tám
thứ y thuật, có thể trừ mọi bệnh khổ sẵn có của chúng sinh mà chỉ chẳng
thể trị được bệnh nhất định chết (ắt chết). Kinh điển Ðại Thừa Ðại Niết
Bàn cũng lại như vậy, có thể trừ tất cả phiền não của chúng sinh an trụ họ
ở nhân duyên vi diệu thanh tịnh của Như Lai, người chưa phát tâm thì khiến
họ được phát tâm. Nhưng chỉ trừ bọn Nhất xiển đề nhất định chết.
Lại nữa, này thiện nam tử ! Ví như vị lương
y có thể dùng diệu dược trị liệu những người mù khiến cho họ thấy mặt
trời, mặt trăng, tinh tú, những ánh sáng, tất cả sắc tượng mà chỉ chẳng
thể trị cho người mù bẩm sinh. Kinh Ðại Niết Bàn, điển Ðại Thừa này cũng
lại như vậy, có thể vì người Thanh Văn, Duyên Giác khai phát tuệ nhãn,
khiến cho những người ấy an trụ ở vô lượng vô biên Kinh điển Ðại Thừa,
người chưa phát tâm như là kẻ phạm bốn trọng cấm, năm tội vô gián đều có
thể khiến cho họ phát tâm Bồ Ðề. Nhưng chỉ trừ bọn Nhất xiển đề mù bẩm
sinh. Lại nữa, này thiện nam tử ! Ví như vị lương y giỏi lý giải tám y
thuật, trị được tất cả bệnh khổ của chúng sinh với đủ thứ phương dược, tùy
bệnh cho thuốc như là : uống thuốc thổ độc ra, xoa thân, nhỏ mũi, hoặc
xông hơ, hoặc rửa ráy, hoặc thuốc hoàn, hoặc thuốc tán... Tất cả các thuốc
mà người bần ngu chẳng muốn uống. Vị lương y nghĩ thương liền đem người
này về nhà mình, cưỡng ép cho uống thuốc. Nhờ sức của thuốc nên bệnh hoạn
của hắn được khỏi. Người phụ nữ sinh khó, nhi y (?) chẳng ra, nếu uống
thuốc này thì nhi y liền ra, cũng khiến cho đứa trẻ yên vui, không bệnh
hoạn. Kinh Ðại Niết Bàn, điển Ðại Thừa này cũng lại như vậy, chỗ đến của
Kinh này, như Kinh đến nhà thì có thể trừ vô lượng phiền não của chúng
sinh, người phạm bốn trọng cấm, năm tội vô gián chưa phát tâm thì đều
khiến cho họ phát tâm, chỉ trừ Nhất xiển đề.
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Phạm bốn trọng cấm và
năm tội vô gián thì gọi là Cực trọng ác (ác rất nặng) ví như cắt đứt đầu
cây Ða la thì chẳng sống lại. Những người đó chưa phát tâm Bồ Ðề thì làm
sao có thể cùng tạo tác nhân Bồ Ðề?
Ðức Phật dạy rằng :
- Này thiện nam tử ! Những chúng sinh này,
nếu ở trong mơ, mơ thấy rơi vào địa ngục, chịu những khổ não liền phát
sinh lòng hối hận rằng : “Thương thay ! Ta đã tự rước lấy tội này ! Nếu ta
nay được thoát khỏi tội đó thì nhất định sẽ phát tâm Bồ Ðề ! Những điều
thấy của ta hôm nay rất là cực ác !” Từ đó thức dậy rồi, người đó liền
biết Chánh pháp có đại quả báo. Như đứa trẻ kia dần dần lớn lên, thường
tác khởi ý nghĩ này : “Vị thầy thuốc này rất giỏi, khéo lý giải phương
dược. Ta xưa ở trong thai mà ông cho thuốc mẹ ta. Mẹ nhờ dùng thuốc nên
thân thể được yên ổn. Do nhân duyên đó nên mạng ta được an toàn. Lạ thay!
Mẹ ta chịu khổ não lớn, hoài bão thân ta đủ đầy mười tháng. Sau khi sinh
ra rồi, chỗ khô con nằm, chỗ ướt mẹ nằm, trừ khử đại tiểu tiện bất tịnh
của con, rồi cho bú mớm, nuôi dưỡng lớn lên, hộ trì thân ta. Do ý nghĩa
này nên ta phải đền ơn mẹ. Phải nuôi dưỡng, hầu hạ, bảo vệ thuận theo cúng
dường”. Người phạm bốn trọng cấm và năm tội vô gián, khi sắp mạng chung
nghĩ đến Kinh Ðại Niết Bàn Ðại Thừa này thì tuy rơi vào địa ngục, súc
sinh, ngã quỉ hoặc lên trời hay ở trong loài người mà như vậy Kinh điển
cũng vẫn vì người đó tạo tác nhân Bồ Ðề, trừ Nhất xiển đề ! Lại nữa, này
thiện nam tử ! Ví như vị lương y và con của vị lương y với sự hiểu biết
thâm áo vượt hơn các thầy thuốc, giỏi biết chú thuật vô thượng trừ độc.
Nếu rắn ác độc như rồng hay rắn đầu tam giác thì họ dùng những chú thuật
chú vào thuốc làm cho hay thêm. Rồi họ dùng thứ thuốc hay này bôi giày da.
Ðem giày da này chạm vào các loài trùng độc thì độc của chúng bị tiêu tan,
chỉ trừ một thứ độc tên là Ðại Long. Kinh Ðại Niết Bàn, điển Ðại Thừa này
cũng lại như vậy, nếu có chúng sinh phạm bốn trọng cấm, năm tội vô gián
thì đều có thể tiêu diệt, khiến cho họ trụ ở Bồ Ðề như giày da bôi thuốc
có thể tiêu diệt mọi thứ độc, khiến cho người chưa phát tâm sẽ phát tâm,
an trụ ở đạo Bồ Ðề Vô thượng. Chính là thuốc uy thần của Kinh Ðại Niết Bàn
Ðại Thừa kia khiến cho các chúng sinh sinh ra an vui, chỉ trừ bọn Nhất
xiển đề Ðại Long.
Lại nữa, này thiện nam tử ! Ví như có người
đem thuốc độc mới chế ra dùng bôi vào cái trống lớn. Rồi ở trong mọi
người, đánh trống phát ra tiếng, tuy người không có lòng muốn nghe, nhưng
đã nghe tiếng trống đều chết. Chỉ trừ một người chẳng chết ngang (ngược).
Kinh điển Ðại Niết Bàn Ðại Thừa này cũng lại như vậy, ở tại khắp nơi nơi,
trong các chúng sinh mà có người nghe tiếng thì tham dục, sân nhuế, ngu si
sẵn có đều tiêu diệt hết. Trong số chúng sinh ấy tuy có kẻ không có lòng
suy nghĩ đến nhưng lực nhân duyên của Kinh Ðại Niết Bàn này có thể diệt
phiền não mà phiền não kết của họ tự diệt. Người phạm bốn trọng cấm và năm
tội vô gián nghe Kinh này rồi cũng tạo tác nhân duyên Bồ Ðề vô thượng, rồi
dần dần đoạn dứt phiền não, chỉ trừ bọn Nhất xiển đề chẳng chết ngang. Lại
nữa, này thiện nam tử ! Ví như đêm tối mọi sự tạo tác kinh doanh, tất cả
đều ngưng, nếu có việc chưa xong thì cần phải đợi đến sáng ngày mai. Người
học Ðại Thừa, tuy tu học Khế kinh, tất cả các định, nhưng cần phải đợi mặt
trời Ðại Thừa Ðại Niết Bàn để nghe lời dạy vi mật của Như Lai nay, rồi
nhiên hậu mới sẽ kiến tạo nghiệp Bồ Ðề, an trụ ở Chánh pháp. Giống như
trời mưa thấm nhuần, thêm tăng trưởng tất cả những giống loại thành tựu
quả trái để trừ hết đói kém, hưởng thụ nhiều an vui, thịnh vượng, vô lượng
pháp vũ của Như Lai Bí Tạng cũng lại như vậy, có thể trừ diệt hết tám thứ
nhiệt bệnh. Kinh này ra đời như những quả trái kia, có nhiều sự lợi ích an
lạc cho tất cả, có thể khiến cho chúng sinh thấy được tính Như Lai như
trong Pháp Hoa, tám ngàn Thanh Văn được thọ ký biệt, thành tựu quả trái
lớn. Như mùa thu gặt hái, mùa đông tàng trữ rồi lại không việc làm, bọn
Nhất xiển đề cũng lại như vậy, đối với các thiện pháp không kinh doanh,
tạo tác cái gì cả. Lại nữa, này thiện nam tử ! Ví như vị lương y nghe con
của người khác bị sự nắm giữ của loài phi nhân liền đem diệu dược ra và
sai một sứ giả, dặn bảo rằng : “Ông mang thuốc này cho người kia. Người
kia nếu gặp những quỉ thần ác thì nhờ lực của thuốc này nên đều sẽ tránh
đi xa. Nếu người chậm trễ thì ta sẽ tự sang, nhất định chẳng để cho người
đó chết oan uổng vậy. Nếu người bệnh kia được thấy sứ giả và uy đức của ta
thì các khổ sẽ tiêu trừ, được niềm vui yên ổn”. Ðiển Ðại Thừa, Kinh Ðại
Niết Bàn này cũng lại như vậy. Nếu Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà
di và những ngoại đạo, có người có thể thọ trì Kinh điển như vậy mà đọc
tụng thông lợi, lại vì người khác phân biệt giảng nói, hoặc tự ghi chép
hay khiến bảo người khác ghi chép... những việc ấy đều là nhân duyên Bồ
Ðề. Hoặc người phạm bốn trọng cấm và tội ngũ nghịch, hay người bị sự nắm
giữ ác độc của tà quỉ mà nghe Kinh điển này thì những ác sẵn có đều tiêu
diệt hết như thấy vị lương y thì ác quỉ tránh đi xa. Ông phải biết người
này là Ðại Bồ tát chân thật. Vì sao vậy? Vì tạm được nghe (được nghe qua)
Kinh Ðại Niết Bàn này mà cũng đã sinh ra ý niệm Như Lai thường trụ vậy.
Tạm được nghe mà còn được như vậy huống gì ghi chép, thọ trì, đọc tụng,
trừ Nhất xiển đề, những người còn lại ấy đều là Ðại Bồ tát. Lại nữa, này
thiện nam tử ! Ví như người điếc chẳng nghe được âm thanh. Bọn Nhất xiển
đề cũng lại như vậy, tuy chúng lại muốn nghe Kinh điển vi diệu này nhưng
mà chẳng được nghe. Sở dĩ vì sao? Vì không có nhân duyên vậy. Lại nữa, này
thiện nam tử ! Ví như vị lương y mà tất cả y phương (phương cách làm thuốc
trị bịnh) không phương nào chẳng thông đạt, lại kiêm thêm rộng biết vô
lượng chú thuật. Vị lương y đó diện kiến mà nói lên rằng : “Ðại vương nay
nhất định có bệnh chết!” Vị vua ấy đáp rằng : “Khanh chẳng thấy việc trong
bụng của ta thì sao mà nói rằng, ta nhất định có bệnh chết”. Vị thầy thuốc
liền đáp rằng : “Nếu vua chẳng thấy tin thì nên uống thuốc hạ xuống !”
Sau khi đã hạ xuống rồi, nhà vua tự nghiệm xem, rồi vua chẳng chịu uống.
Bấy giờ, vị lương y dùng sức chú thuật khiến cho chỗ kín của nhà vua sinh
ghẻ lở cùng khắp, lại gồm thêm nước máu lẫn trùng chảy ra. Vua thấy thế
rồi phát sinh rất sợ hãi, khen vị lương y rằng : “Giỏi thay ! Giỏi thay !
Lời tâu trước của khanh, ta chẳng tin dùng, nay mới biết khanh đối với
thân ta tạo tác lợi ích lớn !” Rồi nhà vua cung kính vị thầy thuốc đó,
giống như cha mẹ. Ðiển Ðại Thừa, Kinh Ðại Niết Bàn này cũng lại như vậy,
đối với các chúng sinh có muốn hay không muốn đều có thể khiến cho phiền
não của họ tan vỡ, rơi rụng. Những chúng sinh này thậm chí ở trong mơ mà
mơ thấy Kinh này cũng cung kính cúng dường ví như vị đại vương cung kính
vị lương y. Vị đại lương y này biết nhất định chết thì nhất định chẳng trị
cho. Ðiển Ðại Thừa, Kinh Ðại Niết Bàn này cũng lại như vậy, nhất định
chẳng thể trị cho bọn Nhất xiển đề. Lại nữa, này thiện nam tử ! Ví như vị
lương y giỏi tám thứ thuốc, có thể trị liệu hết tất cả các bệnh, chỉ chẳng
thể trị được người nhất định chết. Các đức Phật, Bồ tát cũng lại như vậy
có thể cứu vớt trị liệu tất cả người có tội, chỉ chẳng thể trị được người
nhất định chết, bọn Nhất xiển đề. Lại nữa, này thiện nam tử ! Ví như vị
lương y giỏi biết tám thứ kinh thuật vi diệu, lại có thể thông đạt rộng
rãi qua tám thứ. Ông đem sự hiểu biết của mình dạy cho con trước : Hoặc
nước, hoặc đất, hang núi, thảo dược... đều khiến cho con nhận thức hiểu
biết. Như vậy ông dần dần dạy xong tám việc. Tiếp theo ông lại dạy những y
thuật tối thượng diệu khác. Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri cũng lại như
vậy, trước tiên dạy con mình, những Tỳ kheo.v.v... về phương tiện trừ diệt
tất cả phiền não, tu tập tịnh thân bằng tư tưởng chẳng kiên cố như là
nước, đất, hang núi... Nước là dụ cho thân thọ khổ như bọt nước. Ðất là dụ
cho thân chẳng bền như cây chuối. Hang núi là dụ cho ở trong phiền não tu
vô ngã tưởng. Do nghĩa đó nên thân gọi là vô ngã. Như Lai như vậy đối với
các đệ tử, rồi dần dần dạy họ học chín bộ kinh pháp, khiến cho họ giỏi
giang thông lợi. Nhiên hậu Phật mới dạy họ học Như Lai Bí Tạng, vì con
mình nên nói Như Lai Thường Trụ. Như Lai nói Kinh điển Ðại Thừa Ðại Niết
Bàn như vậy là vì những chúng sinh đã phát tâm và chưa phát tâm tạo tác
nhân duyên Bồ Ðề, trừ Nhất xiển đề. Như vậy này thiện nam tử ! Kinh điển
Ðại Thừa Ðại Niết Bàn này vô lượng vô biên, chẳng thể nghĩ bàn, chưa từng
có vậy ! Ông phải biết, đó tức là lương y vô thượng, là vua tối tôn tối
thắng trong mọi Kinh điển.
Lại nữa, này thiện nam tử ! Ví như chiếc
thuyền lớn từ bờ biển này đi đến bờ kia, rồi lại từ bờ bên kia quay về bờ
bên này. Như Lai Chánh Giác cũng lại như vậy, cỡi thuyền báu Ðại Niết Bàn
Ðại Thừa chu toàn qua lại tế độ chúng sinh. Ở tại khắp nơi nơi mà có người
nên độ, Như Lai đều khiến cho được thấy thân Như Lai. Do nghĩa này nên Như
Lai gọi là Vô thượng Thuyền Sư. Ví như có thuyền thì có thuyền sư mà có
thuyền sư thì có chúng sinh đi qua biển cả. Như Lai thường trụ hóa độ
chúng sinh cũng lại như vậy.
Lại nữa, này thiện nam tử ! Ví như có người
ở tại trong biển lớn, cỡi thuyền muốn đi qua. Nếu được gió thuận trong
chốc lát thì có thể qua được vô lượng do tuần. Nếu chẳng được thì tuy vào
trụ ở Kinh lâu hàng vô lượng năm nhưng chẳng lìa khỏi chỗ cũ, rồi có lúc
thuyền hư ngập nước mà chết. Chúng sinh như vậy ở tại biển lớn sinh tử ngu
si kia cỡi các hành thuyền (thuyền để đi), nếu gặp được Ðại Thuyền Niết
Bàn và gió mạnh thuận lợi thì có thể mau chóng đến bờ đạo Vô thượng. Nếu
chẳng gặp được, phải lưu chuyển lâu trong vô lượng sinh tử, đến khi bị hư
hoại bị rơi vào địa ngục, súc sinh, ngã quỉ. Lại nữa, này thiện nam tử !
Ví như có người chẳng gặp vua gió, trụ lâu ở biển cả liền suy nghĩ rằng :
“Chúng ta nay nhất định phải chết tại đây”. Khi nghĩ như vậy thì bỗng
nhiên gặp gió thuận lợi mà thuận theo đi qua biển. Người đó lại nghĩ rằng
: “Sướng thay ! Gió này chưa từng có vậy ! Nó khiến chúng ta yên ổn qua
được nạn biển cả”. Chúng sinh như vậy ở lâu trong biển cả sinh tử ngu si
chịu khốn khổ, tiều tụy, chưa gặp gió Ðại Niết Bàn như vậy thì liền sinh ý
niệm : “Chúng ta nhất định phải rơi vào địa ngục, súc sinh, ngã quỉ”. Khi
những chúng sinh suy nghĩ thế thì bỗng nhiên gặp gió Ðại Thừa Ðại Niết Bàn
mà thuận theo chiều gió thổi hướng vào đến Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh
Giác, mới biết được chân thật. Họ sinh ra tư tưởng đặc biệt lạ lùng mà
khen rằng : “Sướng thay ! Ta từ xưa đến nay chưa từng nghe thấy Như Lai vi
mật tạng như vậy !” Bấy giờ họ mới đối với Kinh Ðại Niết Bàn sinh ra niềm
tin thanh tịnh.
Lại nữa, này thiện nam tử ! Như con rắn lột
da là chết mất chăng?
- Không, thưa đức Thế Tôn !
- Này thiện nam tử ! Như Lai cũng vậy ! Ta
phương tiện thị hiện xả bỏ thân độc hại mà có thể nói rằng, Như Lai vô
thường, diệt mất sao?
- Không, thưa đức Thế Tôn !
-
Như Lai ở trong cõi Diêm phù đề này phương tiện xả thân như con rắn độc
kia bỏ đi lớp da cũ. Vậy nên Như Lai gọi là thường trụ. Lại nữa, này thiện
nam tử ! Ví như người thợ vàng bậc thầy được thỏi vàng ròng tốt thì tùy ý
tạo tác đủ thứ những đồ dùng. Như Lai cũng vậy, ở trong hai mươi lăm cõi
hữu đều có thể thị hiện đủ thứ sắc thân vì giáo hóa chúng sinh, cứu vớt
sinh tử. Vậy nên Như Lai gọi là Vô Biên Thân, tuy lại thị hiện đủ thứ
những thân nhưng cũng gọi là thường trụ không có biến dị.
Lại nữa, này thiện nam tử ! Như cây Am la
và cây Diêm phù, một năm ba lần biến đổi, có lúc sinh hoa màu sáng khoe
tươi, có lúc ra lá sum suê um tùm, có lúc điêu tàn rơi rụng giống như khô
chết. Này thiện nam tử ! Ý ông thế nào? Có phải là cây khô chết thật không
vậy?
- Không, thưa đức Thế Tôn !
- Này thiện nam tử ! Như Lai cũng vậy, ở
trong ba cõi thị hiện ba thứ thân, khi mới sinh, khi lớn lên, khi Niết Bàn
mà thân Như Lai chẳng phải vô thường !
Bồ tát Ca Diếp khen rằng :
- Hay thay ! Quả đúng như lời dạy của đức
Thánh ! Như Lai thường trụ không có biến dị !
- Này thiện nam tử ! Mật ngữ của Như Lai
thậm thâm khó hiểu. Ví như vị đại vương bảo các vị đại thần đem Tiên Ðà Bà
lại. Tiên Ðà Bà là một tên bao gồm bốn thứ, một là muối, hai là khí cụ, ba
là nước, bốn là ngựa. Như vậy là bốn vật đồng chung một tên. Người bề tôi
có trí khéo biết danh xưng này, nếu vua khi tắm đòi Tiên đà bà thì liền
dâng nước nếu vua khi ăn đòi Tiên đà bà thì liền dâng muối; nếu vua ăn rồi
khi muốn uống nước đòi Tiên đà bà thì liền dâng đồ đựng nước; nếu khi vua
muốn du hành đòi Tiên đà bà thì liền dâng ngựa. Như vậy là người bề tôi
trí tuệ giỏi hiểu bốn thứ mật ngữ của vị đại vương. Kinh Ðại Thừa này cũng
lại như vậy, có bốn vô thường mà vị đại thần trí Ðại Thừa cần phải giỏi
biết. Nếu Phật ra đời vì chúng sinh nói Như Lai Niết Bàn thì người bề tôi
trí tuệ phải biết đây là Như Lai kể là thường mà nói tướng vô thường là
muốn khiến cho Tỳ kheo tu vô thường tưởng. Hoặc Như Lai lại nói rằng,
chánh pháp sẽ diệt thì vị đại thần trí tuệ nên biết đây là Như Lai cho là
vui mà nói về tướng khổ là muốn khiến cho Tỳ kheo tu nhiều khổ tưởng. Hoặc
Như Lai lại nói rằng, ta nay bịnh khổ, chúng Tăng phá hoại thì vị đại thần
trí tuệ phải biết đây là Như Lai cho là có ngã mà nói tướng vô ngã là muốn
khiến cho Tỳ kheo tu vô ngã tưởng. Hoặc Như Lai lại nói rằng, cái gọi là
không thì chính là chánh giải thoát thì vị đại thần trí tuệ phải biết đây
là Như Lai nói Chánh Giải thoát, không có hai mươi lăm cõi hữu, muốn khiến
cho Tỳ kheo tu học không tưởng. Do nghĩa này nên chánh giải thoát đó gọi
là Không, cũng gọi là bất động. Gọi là Bất Ðộng là trong giải thoát không
có khổ. Vậy nên gọi là Bất Ðộng. Chánh giải thoát này là không có tướng,
gọi là vô tướng thì không có sắc, thanh, hương, vị, xúc.v.v... nên gọi là
vô tướng. Chánh giải thoát này thường trụ chẳng biến dị. Trong giải thoát
này không có vô thường, nhiệt não, biến dị. Vậy nên giải thoát gọi là
thường trụ, bất biến, thanh lương. Hoặc lại nói rằng, tất cả chúng sinh có
Như Lai tính thì vị bề tôi phải biết đây là Như Lai nói về thường pháp,
muốn khiến cho Tỳ kheo tu tập chánh thường pháp. Các Tỳ kheo này nếu có
thể thuận theo tu học như vậy thì phải biết người đó là chân đệ tử của ta,
giỏi biết vi mật tạng của Như Lai như người bề tôi trí tuệ của vị đại
vương kia giỏi biết ý của vua. Này thiện nam tử ! Như vậy vị đại vương mà
cũng có pháp mật ngữ như thế huống gì là Như Lai mà lại không có vậy? Này
thiện nam tử ! Vậy nên lời dạy vi mật của Như Lai khó có thể được biết,
chỉ có bậc trí giả mới có thể lý giải được Phật pháp thậm thâm của ta,
chẳng phải là điều có thể tin của hạng phàm phu thế gian vậy.
Lại nữa, này thiện nam tử ! Như cây
Ba-la-xa, cây Ca-ni-ca, cây A-thúc-ca gặp trời khô hạn chẳng sinh hoa trái
và những vật sống trên đất, trên nước đều khô héo hết, không có nước thấm
nhuần thì chẳng thể tăng trưởng. Tất cả các dược thảo không còn hiệu lực
nữa. Này thiện nam tử ! Kinh điển Ðại Thừa Ðại Niết Bàn này cũng lại như
vậy, sau khi ta diệt độ, có những chúng sinh chẳng thể cung kính, không có
uy đức. Vì sao vậy? Vì các chúng sinh chẳng biết vi mật tạng của Như Lai.
Sở dĩ vì sao? Vì các chúng sinh này bạc phước vậy. Lại nữa, này thiện nam
tử ! Chánh pháp của Như Lai sắp muốn diệt hết, bấy giờ có hạng Tỳ kheo làm
ác, chẳng biết vi mật tạng của Như Lai, lười biếng giải đãi, chẳng thể đọc
tụng, tuyên dương phân biệt chánh pháp của Như Lai, ví như tên giặc ngu si
xả bỏ chân bảo để gánh vác cỏ cây. Chẳng giải vi mật tạng của Như Lai nên
ở trong Kinh này giải đãi chẳng tinh cần. Thương thay ! Rất nguy hiểm cho
đời đương lai, rất là đáng sợ hãi ! Khổ thay ! Chúng sinh chẳng tinh cần
thính thọ Kinh điển Ðại Thừa Ðại Niết Bàn này ! Chỉ các vị Ðại Bồ tát mới
có thể đối với Kinh này chọn lấy nghĩa chân thật, chẳng chấp trước văn tự,
thuận theo chẳng nghịch mà vì chúng sinh diễn nói. Lại nữa, này thiện nam
tử ! Như người con gái chăn trâu bán sữa, vì muốn tham nhiều lợi nên gia
thêm hai phần nước đem bán cho người con gái chăn trâu khác. Người con gái
kia mua được sữa rồi lại gia thêm hai phần nước lại chuyển bán cho người
con gái ở gần thành. Người con gái gần thành đó mua được rồi lại gia thêm
hai phần nước lại chuyển bán cho người con gái ở trong thành. Người con
gái ở trong thành đó mua được sữa rồi lại gia thêm hai phần nước mà đem
đến chợ bán. Có một người, vì con cưới vợ nên cần gấp sữa tốt để cung cấp
cho khách mời, đến chợ muốn mua sữa. Người bán sữa này tìm nêu nhiều giá
trị của sữa. Nhưng người mua sữa đó nói rằng : “Sữa này nhiều nước thật
chẳng giá trị gì. Nhưng ngày hôm nay gặp lúc ta chiêu đãi tân khách nên
phải mua lấy thôi !” Lấy rồi trở về nhà, người ấy nấu sữa lên làm cháo mà
không còn vị sữa nữa. Tuy không còn vị sữa nhưng ở trong vị đắng, nó còn
hơn gấp ngàn lần. Vì sao vậy? Vì sữa là vị tối thắng trong các vị. Này
thiện nam tử ! Sau khi ta Niết Bàn, Chánh pháp chưa diệt, còn chừng tám
mươi năm, bấy giờ Kinh này ở cõi Diêm phù đề sẽ lưu bố rộng rãi. Khi đó,
sẽ có các ác Tỳ kheo sao chép sơ lược Kinh này, chia làm nhiều phần, có
khả năng diệt hết sắc hương mỹ vị của Chánh pháp. Những người ác này tuy
lại đọc tụng Kinh điển như vậy nhưng đã diệt trừ yếu nghĩa thâm mật của
Như Lai, chỉ an trí lời nói vô nghĩa văn vẻ trang nghiêm của thế gian mà
thôi. Phần sao chép trước đặt sau, phần sao chép sau đặt trước, phần trước
sau đặt vào giữa, phần giữa thì đặt ở trước sau... Ông phải biết, những ác
Tỳ kheo này là bạn bè của ma, nhận nuôi tất cả vật bất tịnh. Bọn chúng nói
rằng : “Ðức Như Lai cho phép ta nuôi nhận !” Như người con gái chăn trâu
gia thêm nhiều nước vào sữa, các ác Tỳ kheo cũng lại như vậy, dùng xen tạp
lời lẽ thế gian quyết định lầm lẫn Kinh này, khiến cho nhiều chúng sinh
chẳng được lời nói chân chánh, bản chép chân chính, sự chọn lấy chân chính
mà khen ngợi, cúng dường, cung kính. Những ác Tỳ kheo này vì lợi dưỡng nên
chẳng thể tuyên nói, lưu bố rộng rãi Kinh đó. Sự phân chia, lưu bố thiếu,
lời chẳng đủ như người con gái chăn trâu bần cùng kia đắp đổi bán sữa cho
đến khi nấu thành cháo mà không còn vị sữa nữa. Kinh điển Ðại Thừa Ðại
Niết Bàn này cũng lại như vậy, đắp đổi đến nỗi nhạt nhẽo, không còn có khí
vị nữa. Tuy Kinh này không khí vị nhưng còn hơn Kinh khác, vượt qua ngàn
lần như vị sữa kia đối với những vị đắng, nó thắng hơn ngàn lần. Vì sao
vậy? Vì Kinh điển Ðại Thừa Ðại Niết Bàn này đối với Kinh của Thanh Văn là
tối thượng thủ (đứng đầu) ví như sữa trâu là tối thắng trong các vị. Do
nghĩa đó nên gọi là Ðại Niết Bàn.
Lại nữa, này thiện nam tử ! Như thiện nam
tử, thiện nữ nhân .v.v... không có ai chẳng câu thân nam tử. Vì sao vậy?
Vì tất cả nữ nhân đều là chỗ sở trụ của mọi thứ ác. Lại nữa, này thiện nam
tử ! Như nước của muỗi của ve chẳng thể khiến cho đất đai này thấm nhuần,
dâm dục của người con gái ấy khó thỏa mãn cũng lại như vậy. Ví như đất
đai, tất cả làm thành hòn nhỏ như hạt cải mà số đàn ông nhiều như vậy cùng
một người đàn bà chung làm việc dâm dục còn chẳng thể đủ. Giả sử số đàn
ông nhiều như cát sông Hằng cùng với một người đàn bà chung làm việc dâm
dục thì cũng lại chẳng đủ. Này thiện nam tử ! Ví như biển cả mà tất cả
trời mưa, trăm sông, mọi dòng chảy đều rót về. Nhưng biển cả kia chưa từng
tràn đầy, phép của nữ nhân cũng lại như vậy. Giả sử tất cả đều là nam tử
chỉ cùng với một nữ nhân chung làm việc dâm dục mà cũng chẳng đủ. Lại nữa,
này thiện nam tử ! Như cây A thúc ca, cây Ba sấc la, cây Ca ni ca, mùa
xuân nở hoa bày ong hút lấy sắc hương mỹ vị, chẳng biết chán. Nữ nhân dâm
dục với nam tử cũng lại như vậy, chẳng biết chán đủ. Này thiện nam tử ! Do
nghĩa này nên các thiện nam tử, thiện nữ nhân.v.v... nghe được Kinh Ðại
Thừa Ðại Niết Bàn này thì thường nên chê trách thân tướng nữ nhân, cầu
được thân nam tử. Vì sao vậy? Vì điển Ðại Thừa này có tướng trượng phu,
gọi là Phật tính. Nếu người chẳng biết Phật tính này thì không có nam
tướng. Sở dĩ vì sao? Vì chẳng thể tự biết có Phật tính vậy. Nếu có người
chẳng thể biết Phật tính thì ta nói những người đó gọi là nữ nhân. Nếu
người có thể tự biết có Phật tính thì ta nói người đó là đại trượng phu.
Nếu có nữ nhân có thể biết thân mình nhất định có Phật tính thì phải biết
những người đó tức là nam tử. Này thiện nam tử ! Kinh điển Ðại Thừa Ðại
Niết Bàn gom tụ công đức vô lượng vô biên chẳng thể nghĩ bàn. Sở dĩ vì
sao? Vì nói lên bí mật tạng của Như Lai. Vậy nên thiện nam tử, thiện nữ
nhân, nếu muốn mau chóng biết mật tạng của Như Lai thì cần phải phương
tiện siêng tu học Kinh này !
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Ðúng vậy ! Ðúng vậy !
Ðúng như lời của đức Phật! Con nay đã có tướng trượng phu, được vào vi mật
tạng của Như Lai. Ngày hôm nay đức Như Lai bắt đầu giác ngộ cho con ! Nhân
đó con liền được quyết định thông đạt.
Ðức Phật dạy rằng :
- Hay thay ! Hay thay ! Này thiện nam tử !
Ông nay thuận theo pháp thế gian mà nói lên lời nói này !
Ngài Ca Diếp lại nói rằng :
- Con chẳng thuận theo pháp thế gian !
Ðức Phật khen ngài Ca Diếp rằng :
- Hay thay ! Hay thay ! Ông nay đã biết vị
pháp Vô thượng thậm thâm khó biết mà có thể được biết như con ong thu lấy
vị. Ông cũng như vậy đó ! Lại nữa, này thiện nam tử ! Như nước của con
muỗi chẳng thể thấm nhuần được đất đai này, đời đương lai Kinh này lưu bố
cũng lại như vậy, như sự thấm nhuần của nước con muỗi kia. Khi chánh pháp
sắp diệt thì Kinh này trước sẽ chìm mất vào trong đất này, ông phải biết
đó tức là tướng suy của Chánh pháp. Lại nữa, này thiện nam tử ! Ví như qua
khỏi mùa hạ, tháng đầu gọi là mùa thu, mưa thu mưa liên miên. Kinh điển
Ðại Thừa Ðại Niết Bàn cũng lại như vậy, được các vị Bồ tát ở phương Nam
kia sẽ lưu bố rộng rãi, tuông xuống mưa pháp cùng khắp cõi ấy. Chánh pháp
sắp diệt sẽ đến nước Kế Tân đầy đủ không khiếm khuyết, chìm mất vào trong
đất, hoặc có người tin, hoặc có người chẳng tin. Như vậy pháp vị cam lộ
của Kinh điển Ðại Thừa Phương Ðẳng đều chìm mất vào đất. Kinh này mất rồi
thì tất cả Kinh điển Ðại thừa khác đều diệt mất hết. Nếu người được Kinh
này đầy đủ không khiếm khuyết thì người đó là vua voi trong loài người.
Các Bồ tát.v.v... phải biết là chánh pháp vô thượng của Như Lai sắp diệt
chẳng lâu nữa.
Lúc bấy giờ, ngài Văn Thù Sư Lợi bạch đức
Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Nay ông Thuần Ðà này
còn có lòng nghi hoặc, nguyện xin đức Thế Tôn, một lần nữa phân biệt khiến
cho ông ấy được đoạn trừ.
Ðức Phật dạy rằng :
- Này thiện nam tử ! Lòng nghi ra sao? Ông
hãy nói đi ! Ta sẽ vì ông đoạn trừ cho !
Ngài Văn Thù Sư Lợi thưa rằng :
- Lòng ông Thuần Ðà hồ nghi về việc Như Lai
thường trụ ! Do được thấy biết lực Phật tính nên nếu thấy Phật tính mà là
thường thì khi trước chưa thấy nên là vô thường. Nếu trước vô thường thì
sau cũng nên vậy. Vì sao vậy? Vì như vật của thế gian trước không mà nay
có, đã có rồi trở lại không. Như vậy mọi vật đều là vô thường. Do nghĩa
này nên chư Phật, Bồ tát, Thanh Văn, Duyên Giác không có sai biệt.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn liền nói kệ rằng :
Trước có nay không
ØTrước
không nay có
Pháp có ba đời Không có điều đó.
Này thiện nam tử ! Do nghĩa này nên chư
Phật, Bồ tát, Thanh Văn, Duyên Giác cũng có sai biệt cũng không sai biệt.
Ngài Văn Thù Sư Lợi khen rằng :
- Hay thay ! Quả đúng như lời dạy của đức
Thánh ! Con nay mới hiểu được vấn đề các đức Phật, Bồ tát, Thanh Văn,
Duyên Giác cũng có sai biệt, cũng không sai biệt !
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Như lời đức Phật nói,
tính của chư Phật, Bồ tát, Thanh Văn, Duyên Giác không sai biệt, nguyện
xin đức Như Lai phân biệt diễn nói rộng rãi để cho tất cả chúng sinh được
lợi ích, an lạc !
Ðức Phật dạy rằng :
- Này thiện nam tử ! Hãy lắng nghe ! Lắng
nghe ! Ta sẽ vì ông diễn nói! Này thiện nam tử ! Ví như ông trưởng giả
nuôi nhiều trâu sữa có đủ thứ màu sắc thường sai một người chăn giữ, nuôi
dưỡng. Có thời gian, vì việc cúng tế, người đó vắt sữa của những con trâu
vào trong một cái đồ đựng. Người đó thấy sữa của các con trâu đồng một màu
trắng liền kinh ngạc lấy làm lạ : Màu sắc trâu đều khác mà cao sữa của
chúng đồng một màu? Người đó suy nghĩ : Như sữa này, tất cả đều là nhân
duyên nghiệp báo của chúng sinh khiến cho màu sữa là một. Này thiện nam tử
! Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ tát cũng vậy, đồng một Phật tính, giống như
sữa kia. Sở dĩ vì sao? Vì đồng hết lậu vậy ! Nhưng mà các chúng sinh nói
rằng, Phật, Bồ tát, Thanh Văn, Duyên Giác có sự sai biệt. Có những Thanh
Văn, người phàm phu nghi ngờ ở ba thừa tại sao có sai biệt? Thời gian lâu
về sau, những chúng sinh đó tự giải được là tất cả ba thừa đồng một Phật
tính, giống như người chăn trâu kia giác ngộ tướng sữa do nhân duyên
nghiệp. Lại nữa, này thiện nam tử ! Ví như quặng vàng đem luyện gạn bỏ cặn
bẩn, nhiên hậu nấu chảy thành vàng ròng, giá trị không lường. Này thiện
nam tử ! Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ tát cũng vậy, đều được thành tựu, đồng
một Phật tính. Vì sao vậy? Vì trừ hết phiền não như quặng vàng trừ hết
những cặn bẩn. Do nghĩa này nên tất cả chúng sinh đồng một Phật tính không
có sai biệt. Do Phật tính ấy nên trước nghe Như Lai mật tạng thì sau khi
thành Phật tự nhiên được biết như ông trưởng giả kia biết sữa một tướng.
Vì sao vậy? Vì đã cắt đứt vô lượng ức phiền não vậy.
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Nếu tất cả chúng sinh
có Phật tính thì Phật cùng chúng sinh có gì sai biệt? Nói như vậy thì có
nhiều lầm lỗi ! Nếu các chúng sinh đều có Phật tính thì vì nhân duyên gì
mà ngài Xá Lợi Phất dùng Tiểu Niết Bàn mà Bát Niết Bàn; người Duyên Giác ở
Trung Niết Bàn mà Bát Niết Bàn; người Bồ tát ở Ðại Niết Bàn mà Bát Niết
Bàn. Những người như vậy nếu đồng Phật tính thì vì sao chẳng đồng Như Lai
Niết Bàn mà Bát Niết Bàn?
- Này thiện nam tử ! Niết Bàn sở đắc của
các đức Phật Thế Tôn chẳng phải là cái sở đắc của Thanh Văn, Duyên Giác.
Do nghĩa này nên Ðại Bát Niết Bàn gọi là Thiện Hữu (hữu : có). Ðời nếu
không có Phật chẳng phải không có Nhị thừa được Nhị Niết Bàn?
Ngài Ca Diếp lại thưa rằng :
- Nghĩa đó ra sao?
Ðức Phật dạy rằng :
- Vô lượng vô biên atăngkỳ kiếp mới có một
đức Phật xuất hiện ở đời để khai thị tam thừa. Này thiện nam tử ! Như lời
nói của ông, Bồ tát và Nhị thừa không có sai biệt, ta trước ở trong Ðại
Niết Bàn mật tạng của Như Lai, đã nói nghĩa ấy. Các A la hán không có
“thiện hữu”. Vì sao vậy? Vì các A la hán đều được Ðại Niết Bàn này. Do
nghĩa đó nên Ðại Bát Niết Bàn có niềm vui rốt ráo. Vậy nên gọi là Ðại Bát
Niết Bàn.
Ngài Ca Diếp thưa rằng :
- Như lời nói của đức Phật thì con nay mới
biết nghĩa sai biệt và nghĩa không sai biệt. Vì sao vậy? Vì tất cả Bồ tát,
Thanh Văn, Duyên Giác vào đời vị lai đều sẽ về với Ðại Bát Niết Bàn, ví
như mọi dòng chảy đều về với biển cả. Vậy nên người Thanh Văn, Duyên Giác
đều gọi là thường, chẳng phải là vô thường. Do nghĩa này nên cũng có sai
biệt và cũng không sai biệt.
Ngài Ca Diếp thưa rằng :
- Sao gọi là tính sai biệt?
Ðức Phật dạy rằng :
- Này thiện nam tử ! Thanh Văn như sữa,
Duyên Giác như cao sữa, Bồ tát như váng sữa sống, chín, các đức Phật Thế
Tôn giống như đề hồ. Do nghĩa này nên trong Ðại Niết Bàn nói lên bốn chủng
tính mà có sai biệt.
Ngài Ca Diếp lại thưa rằng :
- Tính tướng của tất cả chúng sinh ra sao?
Ðức Phật dạy rằng :
- Này thiện nam tử ! Như con trâu mới sinh,
sữa và máu chưa riêng biệt, tính của phàm phu xen lẫn các phiền não cũng
lại như vậy.
Ngài Ca Diếp lại nói rằng :
- Thành Câu Thi Na có người Chiên đà la tên
là Hoan Hỷ. Ðức Phật thọ ký người này, do một lần phát tâm, sẽ ở trong số
một ngàn vị Phật của cõi này, mau chóng thành đạo Vô thượng Chánh Chân. Vì
lý do gì mà Như Lai chẳng thọ ký cho tôn giả Xá Lợi Phất, Mục Kiền
Liên.v.v... mau chóng thành Phật đạo?
Ðức Phật dạy rằng :
- Này thiện nam tử ! Hoặc có Thanh Văn,
Duyên Giác hay Bồ tát phát thệ nguyện rằng : “Ta sẽ mãi mãi hộ trì chánh
pháp, nhiên hậu mới thành Phật đạo Vô thượng !” Do phát nguyện mau nên cho
thọ ký mau.
Lại nữa, này thiện nam tử ! Ví như người
thương nhân có bảo vật vô giá đem đến chợ bán. Người ngu thấy rồi chẳng
biết vật quí, cười khinh chê. Người chủ bảo vật xướng rằng : “Chân bảo này
của ta giá trị vô số !” Nghe rồi người ngu lại cười và nói với nhau rằng :
“Ðây chẳng phải là chân bảo chỉ là ngọc pha lê !” Này thiện nam tử ! Thanh
Văn, Duyên Giác cũng lại như vậy. Nếu họ nghe mau thọ ký thì liền giải
đãi, khinh cười, chê thấp kém như người ngu kia chẳng biết được chân bảo.
Vào đời vị lai có những Tỳ kheo chẳng thể tinh cần tu tập thiện pháp, bị
sự bức bách của bần cùng, khốn khổ, đói khát, nhân đó mà xuất gia để nuôi
lớn thân mình, còn lòng chí thì khinh tháo, tà mạng, dua nịnh, quanh co.
Nếu họ nghe Như Lai thọ ký cho Thanh Văn mau chóng thì liền sẽ cả cười,
khinh mạn, hủy báng. Ông phải biết những người đó tức là hạng phá giới, tự
nói rằng mình được pháp hơn người. Do nghĩa này nên tùy theo sự phát
nguyện mau chóng nên cho thọ ký mau chóng, còn người hộ Chánh pháp được
thọ ký xa.
Bồ tát Ca Diếp lại bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Ðại Bồ tát sao gọi là
sẽ được quyến thuộc chẳng hoại?
Ðức Phật dạy rằng :
- Này Ca Diếp ! Nếu các Bồ tát siêng năng
gia thêm tinh tấn muốn hộ chánh pháp thì do nhân duyên này sẽ được quyến
thuộc chẳng thể trở hoại.
Bồ tát Ca Diếp lại bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Vì nhân duyên gì mà
chúng sinh bị môi miệng khô cháy?
Ðức Phật bảo ngài Ca Diếp rằng :
- Nếu có người chẳng nhận thức được Tam Bảo
thường còn thì do nhân duyên này mà môi miệng khô cháy như người miệng lở
chẳng biết sự khác biệt của sáu vị ngọt, đắng, cay, chua, mặn, nhạt. Tất
cả chúng sinh ngu si, vô trí chẳng nhận thức được Tam bảo là pháp trường
tồn. Vậy nên gọi là môi miệng khô cháy, Lại nữa, này thiện nam tử ! Nếu có
chúng sinh chẳng biết Như Lai là thường trụ thì phải biết người đó là mù
bẩm sinh. Nếu người biết Như Lai là thường trụ thì người như vậy tuy có
nhục nhãn nhưng ta nói người đó gọi là có thiên nhãn. Lại nữa, này thiện
nam tử ! Nếu có người có thể biết Như Lai là thường trụ thì phải biết
người này tu tập Kinh điển như vậy đã lâu. Ta nói những người đó cũng gọi
là có thiên nhãn. Người tuy có thiên nhãn mà chẳng thể biết Như Lai là
thường trụ thì ta nói những người ấy gọi là có nhục nhãn. Người đó thậm
chí chẳng nhận biết được chi tiết chân tay của thân mình, cũng lại chẳng
thể khiến cho người khác nhận biết. Do nghĩa đó nên gọi là nhục nhãn.
Lại nữa, này thiện nam tử ! Như Lai thường
vì tất cả chúng sinh mà làm cha mẹ. Sở dĩ vì sao? Vì tất cả chúng sinh đủ
thứ hình loại hai chân có, bốn chân có, nhiều chân có, không chân cũng
có.... Phật dùng một thứ âm thanh mà vì chúng nói pháp mà những chủng loại
kia khác nhau nhưng mỗi mỗi đều được giải thông và đều hoan hỷ nói rằng:
“Ðức Như Lai ngày hôm nay vì ta nói pháp. Do nghĩa này nên gọi là cha mẹ”.
Lại nữa, này thiện nam tử ! Như người sinh
đứa con mới mười sáu tháng tuổi, tuy lời nói chưa thể giải rõ mà người cha
mẹ kia muốn dạy con mình nói năng thì trước hòa đồng âm thanh của đứa con
ấy rồi dần dần dạy bảo nó. Lời nói của người cha mẹ đó có thể chẳng đúng
đắn sao?
- Thưa đức Thế Tôn ! Không vậy !
- Này thiện nam tử ! Các đức Phật Như Lai
cũng lại như vậy, tuy theo đủ chủng loại âm thanh của các chúng sinh mà vì
họ nói pháp, khiến cho họ an trụ ở chánh pháp của Phật. Tùy theo sự cần
thấy của họ mà thị hiện đủ thứ hình tượng. Như Lai đồng ngôn ngữ với những
chúng sinh kia như vậy mà có thể chẳng chánh sao?
- Thưa đức Thế Tôn ! Không vậy ! Vì sao
thế? Vì lời nói của đức Như Lai như tiếng rống Sư tử, thuận theo đủ thứ âm
thanh của thế gian mà vì chúng sinh khen nói diệu pháp.
KINH ÐẠI
BÁT NIẾT BÀN
- Quyển thứ
chín hết -
--- o0o ---
Mục Lục
01 |
02 |
03 | 04 |
05 |
06 | 07 |
08 |
09 | 10 |
11 |
12
13 |
14 | 15 |
16 |
17 | 18 |
19 |
20 | 21 |
22 |
23 | 24
25 |
26 | 27 |
28 |
29 | 30 |
31 | 32 |
33 |
34 | 35 |
36
--- o0o ---
|
Thư
Mục Tác Giả |
--- o0o ---
Vi tính: Thọ Huệ
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày:
01-2-2003