Vượt Luân Hồi Vào Tịnh
Ðộ
Thích Phổ Huân
---o0o---
Chương I
Quay cuồng trong sinh tử
Ngày
đó, một ngày xa xưa lắm, những người vô minh say ngủ như chúng ta, trải
qua không biết bao nhiêu biên cõi thế giới. Mỗi lần đi vào một cõi, mỗi
lần phải tranh đấu sống còn; nhưng nào đâu có chết mà phải tranh đấu, vì
ta đã ở ngay trong biển sanh tử! Và mỗi giọt nước của biển là một cõi,
nên sự sanh tử chỉ là bọt nước lăn tăn gợn lên gợn xuống; nhưng ta lại
cho là thật, chắc vì nơi ấy quá khổ, quá vui!
Trong những
chặng đường lặn hụp mang đủ dạng hình tâm thức, ta đã kinh qua bao lần
sinh tử và cuối cùng một ngày đã đến với chúng ta!!
Không gian,
thời gian quay cuồng trong sinh tử.
...Có kiếp
ta là vị vua anh minh hiền đức trị vì đất nước giàu mạnh. Chung quanh
còn có những cận thần thông tuệ, trung tín thờ vua, giúp vua giải quyết
mọi vấn đề trong, ngoài cung điện một cách trôi chảy. Hạnh phúc hơn,
Hoàng hậu phu nhân vừa xinh đẹp nhân đức lại thông minh sáng suốt, là
nguồn vui sáng lạn xóa tan nỗi bất bình phiền muộn một khi vua được phu
nhân giải bày an ủi.
Hai vị chăn
dân hiền đức như vậy, chắc chắn sanh ra quả vị ngọt ngào thơm mát. Thật
đúng! Hoàng Thái tử người con cả, kế đến hai cô công chúa, ba vị như ba
bông hoa rực rỡ của cung điện vàng.
Cuộc sống
an bình thịnh vượng của triều đình lan tỏa khắp thôn làng dân giả, khiến
nhà nhà hạnh phúc ái mộ những con người đức cao, giàu phúc đã ban rải
cho dân chúng một đời sống an ninh hạnh phúc ấm no.
Rồi thời
gian trôi qua, vị vua anh minh này già đi; tất cả những vẽ đẹp cùng thời
với vua theo đó suy sụp. Ba đóa hoa đẹp của điện vàng cũng không còn như
ngày đầu mới nở. Họ đã có gia đình, có con, đã cằn cỗi theo thời gian
năm tháng.
Trước khi
nhắm mắt, vua tuy hài lòng đã để lại mọi thứ cho vương triều đất nước,
nhưng sự thương yêu say đắm vẫn không sao khỏi vấn vương. Thế là hai mắt
nhắm đi, tưởng đâu rũ bỏ, nào ngờ thần thức nhà vua hãy còn mang theo
bao nỗi tiếc thương!.
Do phước
báu hãy còn đầy, thần thức lại tái sanh làm vua, nhưng vào quốc vương
khác, bởi vì kiếp trước xa nữa, vua dệt nên say đắm ái nghiệp ở đất nước
đó nhiều hơn, nên nghiệp lực khiến vua không trở về được nơi triều đình
vừa bỏ xác.
Ðây là vấn
đề nhân quả tinh tế, phức tạp khó thể nghĩ bàn, chúng ta vì chỉ hạn
cuộc nhìn thấy một đời hiện báo nên có nghi ngờ thắc mắc. Tỉ dụ một
người mắc nợ ít, họ sẽ không lo thanh toán trả trước, mà phải giải quyết
món nợ nhiều hơn, dù nợ ít mới mượn hay đã mượn lâu.
Vậy chỉ là
lần lượt thanh toán; nên khi sanh ở chỗ này chỗ kia khiến tìm cách gắn
bó giao lưu, đó là cách giải quyết ân oán day dưa cũ mới.
Nơi tái
sanh này cũng ngai vàng điện ngọc, khiến vua chẳng thấy xa lạ gì. Vua
này thân cận với triều đình A, tiền kiếp vừa rồi, do tình thâm luyến ái
vẫn còn đầy ở đó, và hai bên thường thâm giao qua lại.
Cứ thế thời
gian trôi qua, kẻ say ngủ sắm vai vua cũng khá nhiều. Ðây do thiện
nghiệp tạo ra trong quá khứ, nên hưởng quả lành mang được thân vua nhiều
lần như vậy.
Cho đến một
kiếp, trong cơn hấp hối, vì quá nặng tình, nặng của; thần hồn (thần
thức) nhà vua ra đi mang đầy thương ái nhớ nhung, nhớ người tiếc của!
Vua có thể không tham tiếc của cải ở một vài kiếp, nhưng trải nhiều kiếp
làm vua, tâm thức càng dệt thêm niềm thương yêu sâu đậm. Và thế cho đến
kiếp đây, vua chết đi không còn nhẹ nhàng êm ái nữa.
Cảnh tượng
ra đi thật bi thương; vua ghì tay ôm hoàng hậu, hướng mắt về công chúa,
cận thần, khiến họ không dằn được xúc động tạo nên âm thanh nức nở nghẹn
ngào thảm thiết ...
Thần hồn
nhà vua vừa thoát ra thể xác đã quay lại gào to: Không không, trẩm đâu
có chết, trẩm còn đây mà! Nhưng cảnh tượng nào đâu thay đổi, họ càng gào
khóc to hơn, và xác chết nhà vua phải rung chuyển theo sự lay động ghì
kéo khóc than của người thân quyến...
Thân Trung
Ấm người chết vì chứng kiến cảnh đau thương như vậy, càng tăng thêm bi
lụy, đến nỗi không chịu nhìn lại xác chết kia là vật giả tạm, mà bây giờ
thần thức đã thoát ra khỏi nó.
Cho đến khi
kim quan nhà vua đặt vào lòng đất, Thân Trung Ấm vẫn chẳng tin mình chỉ
là dòng ý thức sống mượn tạm thân ngũ ấm thô kệch này.
Sau khi bị
nghiệp lực chi phối, không thể cưỡng lại và hãy còn ít phước báo, lần
tái sanh này tuy không được làm vua, vẫn làm được thân quan lớn, quan
thừa tướng trung tín của triều đình; triều đình mà kẻ say ngủ say đắm
nhất trong quá khứ. Vị quan thần này lại phải đấu tranh bám vào chức vị,
hầu được thời gian cơ hội ngắm người, nhìn vật mà quan thần đã sống
trong tiền kiếp qua!
Thời gian
lại tiếp tục trôi, vị thần già nua bấy giờ chuẩn bị ra đi, bỏ lại tất cả
niềm thương tiếc. Trong niềm tiếc thương địa vị tài danh vật chất, lão
thần có lần nhen nhúm phóng tâm ước ao mình sẽ được lên ngôi trị vì
thiên hạ; nực cười thay, ước mơ đó đã thành tựu từ lâu và không những
một lần trị vì thiên hạ, mà đã nhiều lần! Mĩa mai hơn, điện ngọc cung
vàng nơi tiền thân làm vua của lão thần, vẫn hiện hữu đó, và nếu lão
thần nhận ra điều này, thì sự kinh hồn hoảng sợ của việc tái sanh, sẽ
làm lão chết đi không thốt nên lời!
Nghiệp thức
say ngủ của kẻ lang thang trong giòng sanh tử, bây giờ tái sanh làm vị
quan nhỏ, cai quản một thị trấn cách triều đình hơn 10 dặm. Giờ đây hiếm
có cơ hội nhìn ngắm điện vàng, cung phi, mỹ nữ ...Giấc mơ vị quan nhỏ
chỉ làm sao, thu đạt được nhiều bạc tiền, lấy lòng triều đình hưởng ân
hưởng phước vua ban.
Tái sanh
làm quan như vậy nhiều kiếp, rồi có một kiếp vì quá say mê sắc dục, muốn
thỏa dục tình, cưỡng ép thường dân, hiếp kẻ thế cô chẳng còn liêm sĩ.
Hành động như thế ngày càng làm dân oán hận, cho đến lúc chính người vợ
của y phải điều tra sự thật, vì tai tiếng và ghen tức. Biến cố, hậu quả
của vị quan tham sắc, lạm quyền đưa đến đổ vỡ tan nát gia đình; để rồi
chỉ còn sống trên tước vị bằng màu sắc hào nhoáng chết lạnh, hợp theo
tâm hồn cô lạnh của y.
Chuyện lại
không đơn giản như vậy, cùng lúc có người trình đến vương triều, tội
trạng lạm quyền hà hiếp lương dân - cuối cùng y bị truất phế tước vị,
thành kẻ lang thang vô định, rồi chết đi trong oán giận, sân hờn.
Kiếp này kẻ
say ngủ sanh vào gia đình bần cùng nghèo đói, đó là quả báo nghiệp tội
phung phí tiền của, cậy quyền ép uổng sát phạt người thế cô. Quả báo làm
hắn đau khổ hơn, khi phải sống một nơi không xa nhà vị quan huyện giàu
có; để chứng kiến cảnh giàu sang dư tiền lắm của đối lại cảnh khổ, thiếu
ăn thiếu mặc mà hắn phải đương đầu. Tình cảnh như thế giết lần tinh thần
thể chất của hắn, và rồi chết đi trong mê mờ ngu muội oán giận cuộc đời.
Lần này kẻ
say ngủ sắm vai kiếp sống lang thang vất vưởng, làm kẻ ăn mày thường bị
người xua đuổi hà hiếp mà chính hắn không hiểu vì sao bất hạnh vậy.
Làm kẻ ăn
xin đói khổ, trải qua nhiều kiếp, kẻ say ngủ tự nhận được điều gì oái
oăm của kiếp sống! Ðiều đó khiến cho tánh chất hung hăng thô lỗ tự giảm
dần; rồi cảm thương cho mình bất hạnh; suy nghĩ vì sao phải đến nỗi này!
Ðau xót cảm động thương hại chính mình đến xúc động tột cùng, rồi lâm
bệnh chết đi trong cô đơn lạnh lẽo .
Dù thần hồn
đã hối lỗi nhận hiểu số phận mình, nhưng nghiệp nhân quá khứ vô tư nào
đâu thiên vị. Hắn tái sanh nhiều lần làm kẻ bất tài yếu đuối, sống thiếu
thốn lo âu. Nhiều kiếp lại sanh làm thân nữ, phải trả quả báo, bị người
hiếp đáp, làm nhục, nhưng không đau đớn bằng kiếp súc sanh, cầm thú bị
người đánh đập giết ăn.
Trong kiếp
súc sanh, hắn phải đau khổ qua cảnh phân chia lìa đám xa bầy, thường khi
trốn lánh, mất ăn bỏ ngủ. Kiếp thú đầu tiên lãnh chịu là kiếp nai, thỏ,
loài thú không chỉ làm mồi cho con người, còn là món ngon của thú dữ. Ðó
là những hành nghiệp mà kẻ say ngủ tạo nhân khiếp đảm tổn hại đến người
và vật. Nhưng cũng có kiếp mang thân thú dữ như: hỗ, báo, sư tử do vì
tập khí quá hung hăng dữ tợn của hành nghiệp quá khứ.
Dù thế,
song hành với nhân quả báo ứng, kiếp thú dữ như vậy vẫn phải sợ hãi
trước đám thợ săn hung tợn, vui đùa với lằn tên mũi đạn xuyên qua máu
thịt của bất cứ loài thú nào bị săn đuổi. Ðôi khi thú càng dữ, thợ săn
chuyên nghệ càng thích trổ tài lùng bắt. Kẻ say ngủ tưởng rằng với sức
mạnh chúa sơn lâm chẳng còn lo sợ, nhưng rồi cũng bị phân thây lột da,
cho loài người thưởng thức. Cũng không phải chỉ có loài người làm hại,
loài thú dữ vẫn phải đau khổ do thiên họa trời đất, lắm lúc đành phải
mang thân đói khát chết đi.
Xuống lên
sanh tử không một cõi nào mà kẻ say ngủ không trải qua; mỗi lần trải
qua, lại không một đau khổ nào không nếm đủ. Những tưởng, tuyệt đối cõi
người toàn sung sướng, nào ngờ lắm khi đau khổ đến tột cùng; do con
người là chúng sanh có hiểu biết, có suy nghĩ, phân biệt nhận thức nên
đau khổ càng gia tăng. Loài súc sanh ngây dại sống thiếu tiện nghi,
nhưng vì không trí thông minh như người, nên không nhận thức, và vậy đau
khổ chỉ là thô kệch từ thân xác mà phần tinh thần lại rất ít cảm nhận!
Kẻ say ngủ
mãi bị quả báo thiện ác đáp đền tương xứng.
Ðến nay,
thế giới văn minh khoa học, dù được tái sanh làm người, nhưng do nghiệp
báo hãy còn nên phải làm việc nặng nhọc khổ thân, rồi quả báo hiện đến
phải ra đi với nghề đã chọn (sanh nghề tử nghiệp). Nhiều kiếp có khi làm
đến giám đốc, hoặc viên chức cao cấp trong chính phủ; chức vụ này nào có
xa lạ gì với quan tước triều đình mà hắn đã từng thọ nhận trong quá khứ.
Dù được làm Tổng Thống, hay Thủ Tướng lại có khác gì ngôi vua. Nhưng
tổng thống, thủ tướng thời nay so ra, sao được sung sướng, uy quyền bằng
lãnh chúa ngày xưa!
Do vô minh
say đắm cùng tánh chất tham sân khiến hắn không dừng nghiệp ác. Cậy
quyền lực địa vị cao, gian xảo đoạt lợi cho mình, thỏa mãn dục vọng hả
hê. Cứ thế phải bị quả báo trở lại làm kẻ lang thang vô gia cư, trong
một xã hội giàu có dư thừa vật chất.
Ðau khổ đọa
đày vạn kiếp mới có một kiếp tĩnh ngộ, tái sanh làm con người mới. Nhưng
không được bao lâu lại rơi vào biển tham đắm. Tham đắm nhỏ, dần dần biến
thành như quả núi dìm hắn xuống tận địa ngục, rồi trở lên sanh vào loài
thú, rồi bỏ kiếp thú, chịu quả báo tật quyền ăn xin cùng khổ ở cõi
người, đến khi hết, lại vô minh tạo nên nhân ác khác ...
Quả báo dội
ngược vào thân đã là khổ, nhưng quả báo dày xéo tinh thần còn khủng
khiếp hơn! Vì đương sự có giàu nghèo mặc kệ, một khi đối diện thì đau
khổ tột cùng. Như là: đau khổ bất lực, vô phương bảo vệ người mình
thương quý; vô phương thay thế nỗi đau khổ cho người mình thương!
Thực tế đó,
là hình ảnh cha mẹ, chồng vợ con cái trong gia đình phải đối diện cảnh
chia ly đột ngột không như ý muốn. Cảnh trạng có thể được xem đau khổ
nhất khi mái ấm gia đình bắt đầu gầy dựng, thì phải chịu đựng biến cố
người vợ xinh đẹp bất ngờ chết đi (bất đắc kỳ tử); chết đi đang lúc quá
trẻ - hình ảnh ngược lại, đau thương cho người chồng gương mẫu chỉ sống
được vài năm; và không biết bao nhiêu nước mắt cho những đứa con còn thơ
dại lại từ biệt ra đi quá sớm - khủng khiếp hơn có khi cả gia đình ra đi
một lượt để lại đương sự nỗi đau nghiến nát tinh thần.
Như vậy,
như vậy đó! Toàn là khổ! Có được bao nhiêu vui!
Rồi một
thoáng suy tư đau khổ kiếp người, kẻ say ngủ không còn ham muốn gì nữa
trên cõi đời này! Vì bao cố gắng dành giựt cho bản thân mình cuối cùng
chẳng hưởng được chi, so với công sức lao tâm lao lực từ bao nhiêu năm,
và có lẽ từ bao nhiêu kiếp như vậy. Hắn thấm thiết nỗi đau chia ly cách
biệt người thương, thì còn ý nghĩa gì mọi tiện nghi vật chất là vật vô
tri vô giác.
Sống mà
không người thương, không người đồng tình, sống như vậy còn buồn tẻ hơn
loài vật, còn có bầy có loại.
Nhưng vật
chất cũng là mối suy tư lo lắng giải quyết sự sống, vì dù hắn đã từng
được thương yêu, nhưng nỗi ám ảnh đói nghèo đã làm chết hắn bao nhiêu
kiếp qua! Ðến đây kẻ say ngủ không còn dám suy nghĩ nữa những oái oăm
nghiệt ngã cuộc đời. Lần kiếp này nghiệp thức đưa hắn vào một thế giới
(tâm trạng) nửa say nửa tĩnh.
Hắn không
tìm được một giải đáp cho cuộc đời, trong khi bao câu hỏi trong đầu cứ
tuôn ra. Dù rằng nỗi khổ trong kiếp này không thấm gì cái khổ trong quá
khứ. Tất nhiên hắn không thể có Túc Mệnh Thông biết được quá khứ kiếp,
nhưng lực cảm thế nào khiến hắn nhìn cái khổ của người chung quanh rồi
linh cảm rằng mình từng đau khổ vậy. Hắn thấy cái đau của người mất cha,
mất mẹ, mất vợ, mất chồng, mất anh chị em. Cái đau đổ vỡ hạnh phúc vợ
chồng, cái đau anh chị em bất hòa, cái đau cha mẹ không dạy được con
mình, cái đau của người con không thể phân trần với cha mẹ, cái đau tình
bạn hiểu lầm, cái đau thương hóa thành hận. Cái đau của mọi người phải
gánh chịu một phần tử bất chánh trong gia đình, xã hội, cái đau của kẻ
bất chánh không có người cảm thông, cái đau của người tù ngục, và cái
đau của tất cả mọi người chịu đựng nỗi khổ trần gian này.
Hắn tự
không biết nguyên nhân nào lại cảm xúc như vậy, dù hiện thời hắn chưa
nhận thức được điều gì là tôn giáo tín ngưỡng. Chỉ một điều mà hắn cho
rằng, có lẽ vì quá khổ đau trong quá khứ, nên không thể tiếp tục nữa!
Tìm kiếm và định đoạt.
Mọi việc
theo nhà Phật đều có nhân duyên; hắn bắt đầu nghiên cứu tìm hiểu vấn đề
tâm linh. Vấn đề làm thế nào có thể giải đáp bao câu hỏi trong đầu hắn;
cũng không phải tuyệt đối là tôn giáo, mà có thể bất kỳ việc gì ở thế
gian khả dĩ mang lại an tâm cho đời sống hiện tại, và tất nhiên phải
siêu việt tư duy của con người trong thế giới hữu hạn bằng ngôn ngữ thế
gian. Hắn muốn nói, điều đó phải thỏa mãn cả hai mặt siêu hình và thực
tại. Cuối cùng tín ngưỡng mà hắn ngừng lại để bắt đầu tìm học là đạo
Phật. Vì hắn thấy rằng, đạo Phật không hẳn là một tôn giáo, cũng không
phải là triết học, cũng không phải là bất cứ tên gì thế gian có thể đặt
cho!
Hắn hiểu,
tôn giáo tín ngưỡng chỉ để xoa dịu nỗi đau khổ khi con người bất lực
không cứu được mình, và nếu con người có thể hiểu rõ con người, hiểu rõ
nguồn gốc khổ đau thì con người đã vượt qua tôn giáo.
Nói một
cách khách quan hơn, nếu con người là chánh nhân, nạn nhân cần xoa dịu,
thì con người cũng là chánh nhân giải quyết những nguyên nhân đã làm con
người thành nạn nhân. Cho nên con người không thể cầu cạnh một ai, nếu
con người không nhìn thấy được chính con người. Ðiều nữa đấng tối cao
hay thần linh cao cả là chỗ quy về, chỗ núp bóng theo ý nghĩa tôn giáo
thì quá trừu tượng cao xa, mà xưa nay chưa thấy xuất hiện để mọi người
thiết lập được cụ thể mà hành động theo.
Triết học
cũng vậy, cũng là sản phẩm của con người, nhưng lại không giải quyết
được thực tế hiện hữu sự đau khổ của nhân sinh; có chăng chỉ để làm đẹp
cho đời bằng thú vui cao sang chữ nghĩa, hay nếu có cũng chỉ xoa dịu cho
những tâm hồn trí thức, trong khi đa số con người trên trái đất là hàng
bình dân.
Trong đạo
Phật hắn không thấy như vậy, nghĩa là không có cầu cạnh một đấng thần
linh hay đấng tối cao nào như định nghĩa của tôn giáo, và sự tôn kính,
lễ lạy hiện bày ở nơi chùa chiền chỉ là việc tri ân, mến đức đối với một
người học trò kính một bậc Thầy là đức Phật, đơn giản vậy thôi. Tất
nhiên, tiếp theo hiểu rằng, nếu học trò đó tạo lỗi gây ác nghiệp, thì
việc lạy lục cúng bái cũng thành vô ích! Trừ khi song hành với việc lễ
bái sám hối, học trò nguyện sẽ không làm ác nữa và từ đó sẽ làm việc
thiện đây mới ý nghĩa và hoàn toàn có ích.
Nói về
triết lý, nếu đạo Phật được xem như một nền triết học, thì nền triết học
này phải xuất phát từ trực giác trí tuệ do công phu tu hành, nên kết quả
sẽ đưa đến an lạc giải thoát, chứ không là nghiên cứu theo lý trí (giác
quan) phân biệt, để kết quả vẫn mãi là kiến thức, và nhất là kiến thức
quá xa mờ trừu tượng không thể đưa mọi tầng lớp con người diệt được khổ
hưởng được vui.
Ðó là nhận
thức đầu tiên hiểu về đạo Phật, tuy nhiên những vấn đề siêu hình, huyền
diệu và nhiệm mầu trong những con người tu sĩ đắc đạo, cũng như nơi thờ
phượng tri ân Phật mà hắn chắc chắn rằng phải có. Do vì từ một con người
hoàn toàn trong sạch thanh tịnh tâm, tất nhiên sẽ khác hẳn một con người
nhiễm ô, bất tịnh. Từ sự khác biệt bên trong giữa Tịnh và Nhiễm, sẽ hiển
bày tạo thành mỗi thế giới khác nhau. Và nếu thế giới bên trong nội tâm
đã khác, nên thế giới bên ngoài cũng khác. Cụ thể tỉ dụ, lối sống của
mỗi người, mỗi trình độ khác nhau chênh lệch, là do bên trong của họ
chẳng đồng. Ðiều này mới thấy lối sống các vị chứng đạo, người thường
không thể hiểu được.
Về mặt hình
thức lễ nghi cúng kiến của đạo Phật, trông nhìn như tôn giáo mà chẳng
phải, đó chỉ là phương tiện tùy duyên tiếp nhận phù hợp với mọi căn cơ.
Nhưng điểm chính vẫn lấy nền tảng của từ bi và trí tuệ làm chuẩn, cho
nên dù thấy rềnh rang nghi lễ nhưng không xa rời thực tế, là phá vọng
hiển chân, là chỉ bày sự vật vô thường, đời sống giả tạm, chúng sanh đau
khổ, và giải thoát an vui. Có lẽ rõ ràng hơn, trong nhà Phật hay nói:
Tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên, nghĩa là người hành đạo giải
thoát phải biết tùy duyên khi tiếp cận với người và cảnh, nhưng khi tùy
duyên như vậy lý tưởng giải thoát, giới học người tu sẽ không bao giờ
thay đổi (bất biến).
Ðại khái
hiểu được vậy là do hắn học hỏi từ kinh sách Phật, từ những người tu
hành nghiêm cẩn nói ra; điều đó làm hắn cảm thông chấp nhận như một lối
sống đáng tín ngưỡng hành theo, mà không phải là tín ngưỡng phản lại
chánh tín, chánh tư duy.
Hắn lại
thấy, không những đạo Phật đáp lại được hoài nghi thắc mắc của hắn mà
còn vô số giải đáp khác mà hắn chưa bao giờ nghĩ ra. Ngoài ra còn nhiều
điều lạ, hắn phải đam mê đeo đuổi.
Ðiểm độc
đáo nhất, khi vị giáo chủ là Phật Thích Ca cũng chẳng cần ai đeo đuổi
ngợi ca; điều này sẽ không xãy ra ở đạo giáo khác! Vị Giáo chủ Thích Ca
chỉ tự cho mình là người chỉ đường hướng đạo! Ðây là điều mà hắn vô cùng
kính phục. Hắn thầm suy nghĩ đến một đoạn kinh Phật dạy: "Hãy đến
đây: người Kãlãma, không nên chấp nhận điều gì chỉ vì nghe nói lại
(tỉ như nghĩ rằng ta đã nghe điều này từ lâu) không nên chấp
nhận điều gì chỉ vì tập tục cổ phong truyền lại như thế (tỉ như nghĩ
rằng điều này đã được truyền lại từ bao nhiêu thế hệ). Không nên chấp
nhận điều gì chỉ vì có lời đồn đãi như vậy (tỉ như tin lời người
khác mà không suy xét). Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì điều ấy đã
được ghi chép trong kinh sách. Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì mình
đã ức đoán như vậy. Không nên chấp nhận điều gì mình suy diễn như vậy.
Không nên chấp nhận điều gì theo bề ngoài. Không nên chấp nhận điều gì
chỉ vì điều ấy hợp với thành kiến mình. Không nên chấp nhận điều gì chỉ
vì điều ấy hình như có thể chấp nhận được (tỉ như nghĩ rằng điều này
phải được chấp nhận). Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì nghĩ rằng vị
tu sĩ thốt ra điều nầy đã được ta kính trọng từ trước (và như vậy
lời nói phải được chấp nhận).
Một vị Giáo
chủ khai sáng chủ trương đạo mình, lại khước từ những người nhẹ dạ tin
theo, khước từ người vị nễ tin theo, khước từ tất cả dù là chân đế (chân
lý, pháp giải thoát) nếu người tin theo chân lý mà không tư duy suy xét
điều đó đúng hay sai, để thực hành phù hợp lý trí tư duy với chánh pháp,
không tổn hại người và chính mình.
Quả thật là
lời dạy cụ thể chân như, không một vết chấm dị đoan mê tín.
Và tất
nhiên tiếp theo, Ngài dạy phải ứng xử thế nào với thắc mắc nghi ngại để
thiết lập niềm tin.
"Tuy
nhiên, khi tự các con hiểu rõ rằng - những điều nầy không hợp luân lý;
những điều nầy đáng được khiển trách, những điều nầy bị các bực thiện
trí thức cấm đoán, nếu thực hiện những điều nầy sẽ bị phá sản và phiền
muộn - thì hẳn các con phải từ bỏ, không làm điều ấy.
"Khi các
con hiểu rõ rằng - những điều nầy hợp luân lý; những điều nầy không bị
khiển trách, những điều nầy được các bực thiện trí thức tán dương, nếu
thực hiện những điều nầy sẽ được an vui hạnh phúc - thì hẳn các con phải
hành động đúng như vậy."
Ðiều nữa vị
Giáo chủ lại dạy rằng không phải chỉ duy có Ngài là bậc siêu việt, mà ai
ai cũng sẽ siêu việt như Ngài nếu hành động theo đúng chân lý. 'Ta là
Phật đã thành các ngươi là Phật sẽ thành' hay "Tất cả chúng sanh
đều có Phật tánh" (nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh).
Ngoài việc
hắn khâm phục, kính mộ như vậy, lại có những vấn đề khiến hắn phải suy
nghĩ, lo ra. Ðấng Ðại Giác có lần dạy đệ tử Ngài, bằng cách đặt vấn đề
dẫn dụ: "lá cây trong tay Như Lai và lá cây trong rừng, số lá nào
nhiều hơn?" Tất nhiên câu trả lời - lá cây trong rừng, số nhiều hơn
không thể đếm được. Ðấng Ðại Giác liền dạy: Cũng vậy những gì Như Lai
chỉ dạy các ông như số lá trong tay Như Lai, và những gì Như Lai hiểu
biết ví như lá trong rừng.!
Ðây là vấn
đề hắn phải hoang mang! Thế thì làm sao, chừng nào thành Ðấng Toàn Giác?
Trong khi chỉ có lá cây trong tay Như Lai mà hàng đệ tử Phật từ xưa đến
nay, có ai học hiểu hết đâu? Dù đã có nhiều vị chứng đắc từ thời Phật
đến nay, thì bậc cao nhứt chỉ là quả vô sanh (A La Hán)! Vậy lời Phật
dạy các người là Phật sẽ thành, thì chừng nào mới thành!!?
Khó hiểu
như thế, nhưng hắn vẫn thầm kính phục Ðấng Toàn Giác, vì đã là Ðấng Toàn
Giác thì không bao giờ nói sai, dù sai một li hào mảy may cũng không có!
Hắn hứa với lòng mong sao tìm được câu trả lời này!
Ðiều nữa
làm hắn giựt mình, khi Như Lai cũng đem tỉ dụ so sánh dạy các đệ tử
"Ðất trong tay Như Lai so với đất đại địa, bên nào nhiều hơn ?" Cũng
vậy, những người sanh được cõi trời và trở lại cõi người ví như đất
trong tay Như Lai, và số còn lại rơi vào đường khổ dữ (địa ngục, ngạ
quỷ, súc sanh) như đất đại địa. Hắn phải toát mồ hôi; nhìn lại mình đang
may mắn thọ thân người, và sự may mắn hơn là nghe được ‘bí mật’ này!
Một thoáng
hiện qua hắn chợt nghi ngờ lời Phật dạy! Tại sao người trên quả địa cầu
tính từ ngày Phật nhập diệt đến nay chỉ có tăng chớ đâu giảm; đến nỗi
các nước đông dân phải báo động kế hoạch hóa gia đình, chỉ sanh một đến
hai con. Thế, cớ sao Phật dạy, sanh trời, người ít như đất trên tay!
Thắc mắc
thoáng qua thì giải đáp chợt xuất hiện; nhìn qua khung cửa sổ trước bàn
kinh sách nơi hắn đang ngồi suy tư, một đàn kiến nối nhau bao quanh
khung cửa tạo nên một vòng giây màu nâu đỏ, xê dịch chuyển động nhịp
nhàng. Lượng kiến quá nhiều khó đếm được bao nhiêu con! Bất giác hắn
cười lên. Thôi đúng rồi, Phật dạy quả không sai. Chỉ lấy số kiến đem so
với người cũng đã hơn rồi, huống chi còn vô số loài khác. Vì kiến ở đâu
không biết, nhưng nếu có vật ngọt mồi ngon vứt bỏ, tức thì chẳng bao lâu
kiến xuất hiện. Rồi không phải chỉ có ở khung cửa sổ nhà hắn, mà khắp cả
đất nước nơi nào cũng có. Lại nữa, không phải chỉ có quốc gia hắn đang
ở, mà các nước Việt Nam, Thái Lan, Miến Ðiện, Nhật Bản, Nam Dương, Hoa
Kỳ, Pháp, Ðức v.v...đều có kiến, hay nói đúng hơn tất cả phần đất trên
cõi Ta Bà này hầu như đều có.
Tích chuyện
xưa, Ngài Xá Lợi Phất chỉ cho ông Cấp Cô Ðộc xem một đàn kiến, đã chịu
nghiệp kiến chết đi sống lại trải mấy thời Phật vẫn còn!
Hắn nhóm
người đứng dậy, thầm đọc bài kệ "uống nước", mà hắn đã nghe quý vị tu sĩ
thường dạy:
Phật quán nhất bát thủy,
Bát vạn tứ thiên trùng
Nhược bất trì thử chú
Như thực chúng sanh nhục
Án phạ tất ba ra ma ni sa ha
Phật nhìn một bát nước
Tám vạn tư vi trùng
Nếu không trì chú nầy
Như ăn thịt chúng sanh
Cả vi trùng
nữa! Thật là Phật tế nhị chẳng nói thẳng ra, không khéo mình sẽ sanh vào
thế giới vi trùng; và nơi đó số lượng làm sao đếm được! Vì có thấy đâu
mà đếm!? Dùng kiếng hiển vi thì chỉ thấy phạm vi quá nhỏ; thế tính được
bao nhiêu vi trùng trong một hồ bơi!!!
Ôi! Phật là
đấng siêu việt không sai.
Sung sướng
thay, may mắn thay làm được kiếp người! Một kiếp chúng sanh quá ít oi
như đất trên tay Phật!
Hắn bắt đầu
tìm hiểu, thực hành tu học theo từng bước, mong thành đạt con đường mà
Phật dạy tất cả chúng sanh đều có Phật tánh.
Trước hết
hắn phải quy y ba ngôi Tam Bảo là Phật Pháp Tăng, chính thức bước vào
ngôi nhà giải thoát.
Nếu không
quy y thì chỉ là học hiểu theo tâm niệm của người nghiên cứu, hay ngưỡng
mộ tầm thường thôi.
Hắn hiểu,
nền tảng quy y Tam Bảo là xây dựng tâm tưởng mình vào một lý tưởng giải
thoát, cứu độ chúng sanh. Có quy y thì tất cả hành động thiện sẽ không
dính mắc theo kết quả lời lỗ vay mượn; gọi đúng theo nhà Phật chỉ là
phước báo hữu lậu. Phước báo đó tất phải vô thường, chưa nói, đôi khi
phản lại hành động thiện ban đầu, do vì thọ báo sung sướng người ta hay
dễ sanh tâm tham đắm ô trược, để rồi trôi lạc vào vòng đau khổ, lại mãi
chạy vòng vòng mà không biết nguyên nhân, chưa Quy Y Tam Bảo. Ðó là hình
ảnh chính kẻ say ngủ đã ngụp lặn từ vô thủy đến nay.
Quy y Tam
Bảo, mọi hành động tự nó chiêu cảm vào tánh thức giải thoát, kết nạp
mình vào dòng ý niệm duyên khởi xây dựng chủng tử thiện pháp, và thanh
tịnh được mọi hành động hướng về kết quả siêu việt của chân thiện mà nhà
Phật gọi là phước báo vô lậu vậy.
Không nên
hiểu một cách hạn cuộc, tầm thường là quy y Tam Bảo thì trở thành con
Phật và đệ tử của Thầy A, Thầy B, Chùa C, Chùa D v.v...Như vậy sẽ tạo
nên phân biệt cố chấp, vô tình đánh mất tánh chất giải thoát, thanh tịnh
của sự quy y, và lý pháp nhiệm mầu siêu xuất của pháp giải thoát - khiến
người hiểu Phật pháp nhìn thấy buồn cho, cũng như chính bản thân mình
khó uống được hương vị giải thoát của Tam Bảo. Trong khi, nên hiểu, Phật
là sự giác ngộ tự tánh của mình, Pháp là dòng sống thánh thiện của chánh
lý thiện pháp, và Tăng là thể hiện sự thanh tịnh của con người khi tỉnh
ngộ dòng pháp chân lý kia. Nhưng dù nghe quy y đơn giản rõ ràng như vậy,
ta vẫn không thể tìm được và tự mình biết được để giữ cho dòng ý thức
lưu mãi hiểu biết này, do đó ta phải chính thức cầu xin quy y trên hình
thức, qua lời thống thiết tác bạch, được chứng minh bằng lời kinh pháp,
cùng với vị Thầy là đại diện pháp thân thanh tịnh chứng minh cho. Nói
đúng hơn nếu không có sự xuất hiện của Ðấng toàn giác ta sẽ trôi lăn mãi
trong vòng sinh tử, và hẳn nhiên không bao giờ biết Tam Bảo là gì, nói
chi đến quy y! Do đó mà nói làm người là khó, lại nghe được Phật pháp
còn khó hơn. Nhưng hiểu thêm ra, được quy y nương tựa Tam Bảo còn khó
hơn nữa, bởi vì nhiều người đã nghe Phật pháp mà chưa thể quy y.
Vậy ai cũng
nên quy y Tam Bảo, là việc đầu tư kho báu đời này và mai sau.
Sau khi
được quy y Tam Bảo, kẻ say ngũ giờ đây phần nào thức tĩnh. Hắn bắt đầu
học kinh, ngồi thiền, niệm Phật.
Việc đầu
tiên mà hắn phải giải quyết để từng bước, bước vào pháp giải thoát. Ðó
là năm giới của người học Phật
Giới đầu
tiên, không sát sanh
Hắn suy tư
lại dòng sống ngút ngàn của một chúng sanh trong sanh tử, phải chịu mọi
khổ đau phiền não từ thân đến tâm. Dù sanh trong hoàn cảnh nào, dù mang
hình thù chi chúng sanh đó cũng phải chịu mọi khổ đau thân tâm như vậy.
Chúng sanh
hình thù càng lớn sự đau khổ càng nhiều, nhưng chúng sanh càng nhỏ ai
lại biết cái đau khổ ra sao! Sự đe dọa của ngoại cảnh xúc tác vào thân
thì thân nào chẳng đau đớn. Bộ óc nhỏ lớn ra sao cũng không ngoài cảm
thọ khổ vui, nên dù lớn dù nhỏ sự cảm thọ khổ vui không khác; nghĩa là
con vi trùng vẫn có thế giới của nó và trong thế giới đó nó vẫn đau khổ
qua sự tranh dành miếng ăn, tránh né sự đe dọa tánh mạng, không khác gì
con voi hay khủng long là loài động vật lớn hơn nó gấp bao triệu lần
không tính được!
Như thế
người học Phật hiểu rằng, bất cứ loài chúng sanh nào đều có sự xúc tác
đến hoàn cảnh sinh tồn, đều đang trôi nổi trong một dòng sống ngút ngàn
sinh tử và tất nhiên dòng sống ấy phải là đau khổ.
Do thế
người học Phật chắc chắn đã biết, Phật dạy Khổ là chân lý
.
Nhưng khổ
có riêng ai không! Hẳn nhiên không của riêng ai - điều đó chỉ cho tất cả
chúng sanh đang lặn hụp vậy.
Ðừng nói là
chúng sanh ở cõi Ta Bà này khổ thôi, mà cả cõi trời cũng còn trong vòng
khổ.
Vậy ra
chúng sanh đang khổ, lẽ nào lại gây thêm khổ, như phải cướp đi sinh mạng
chúng sanh.
Chúng ta
chưa nói đến khổ về tinh thần, chỉ nói đến cái khổ thể chất mà thôi.
Một số
người không học đạo giải thoát, vẫn biết thương người mến vật, huống gì
người đang học Phật và đã quy y Tam Bảo! Do đó bằng cách nào phải trải
lòng từ bi đến tất cả.
Thật ra
phạm nghiệp sát sanh là do ta không đủ trí huệ nhận thấy, nên có sự phân
biệt người vật, để rồi xem thường sự sống của chúng, biến thành phẩm vật
cung dưỡng cho ta.
Với cái
nhìn của bậc giác ngộ, chắc chắn các Ngài đã nghe và thấy sinh hoạt tất
cả các loài chúng sanh. Như các vị Bồ Tát vì lòng từ bi, thị hiện vào
loài người mang đủ hình dạng để cảm hóa cứu khổ chúng ta, không lẽ nào
các Ngài lại không thị hiện vào loài súc sanh là hạng chúng sanh đang
cần giải thoát hơn con người!.
Lòng từ bi
cứu khổ của Bồ Tát chắc chắn không thể làm ngơ được. Ðộ bằng cách nào
thì chúng ta chẳng rõ.
Loài người
so với súc sanh hầu như hoàn toàn sung sướng hơn. Nói rằng hầu như chớ
không tuyệt đối, vì vẫn có một ít con vật có đời sống sướng hơn cả một
số người. Hình ảnh này hiện đang xảy ra nơi các nước giàu có văn minh.
Loài chó
mèo ở đây (Úc Ðại Lợi) có con được may mắn săn sóc không kém một con
người là bao; chúng cũng được Bác sĩ chẩn bệnh khi đau ốm, cũng được
chọn lựa thực phẩm rẽ tiền hay đắc tiền từ nơi siêu thị, và nhất là loài
chó thỉnh thoảng phải dẫn ra ngoài bách bộ để thư thả thần kinh; sợ ở
nhà ăn uống ngủ nghỉ dinh dưỡng quá thành bệnh!
Ở nhà, có
nhà riêng trong vườn, (doghouse) nhưng một vài chủ quá cưng cho ngủ luôn
trong nhà. Khi chúng chết lại được chôn cất đàng hoàng nơi nghĩa trang
dành riêng, một cách có hình thức thủ tục; và nghi thức hạ kim quan cũng
trang nghiêm giống như người vậy. Người chủ cũng nhỏ lệ tiếc thương dựa
đầu vào người bên cạnh ngậm ngùi, thương tiếc!
Hình ảnh
như vậy không phải là cách bày vẽ lập dị của những người giàu có đơn độc
thiếu tình thương với người mà mượn loài vật làm vui. Ðiều này cũng phần
nào đúng, đối với những lão niên ở một mình tìm vật hủ hỉ làm bạn, tuy
nhiên tự con vật đó đã thể hiện một sự gần gũi thông minh cảm tính như
người.
Chắc chắn
người sống ở xứ văn minh không lạ gì các chú chó hướng dẫn người mù đi
lại qua đường. Và chuyện chó trung thành với chủ, nghe qua ai lại không
cảm động! Rõ ràng loài chó có thế giới riêng của nó, và có thể phần nào
‘hội nhập’ cảm nhận được thế giới loài người. Thế thì các chú chó may
mắn được gần gũi và đối xử phần nào giống người vậy, chắc chắn phải có
sự liên hệ trong vòng luân hồi nhân quả mà giáo lý nhà Phật đã dạy.
Người và
vật cảm hiểu được nhau, tức có nguyên nhân; minh chứng cụ thể, ta thấy
các con vật trong đoàn xiết (circus). Nếu không, làm gì con người có thể
thuần hóa được chúng một cách phi thường vậy!.
Bây giờ mới
thấy rõ, sáu nẻo luân hồi Trời, Người, A Tu La, Ðịa ngục, Ngạ quỷ, Súc
sanh là những chặng đường mà một chúng sanh có thể sanh lên sanh xuống.
Vậy thì tránh sát sanh hại vật là điều tự nhiên, khi thế giới loại vật
ấy, một thời ta cũng từng trải qua; được như thế cũng là cách ngừng lại
sự ân oán trả vay, vay trả.
Giới
không được trộm cắp:
Sự sống cần
nên hài hòa trung dung, cần nên chia xẻ xây dựng, kiến tạo môi trường
sống hòa bình thịnh vượng. Từ xưa đến nay đó là nền tảng; như thế mới
mang đến cuộc sống an vui gia đình hạnh phúc.
Một cá nhân
nếu giữ được tâm rộng lượng chia xẻ với mọi người, cá nhân đó sẽ được
người thương mến, và theo luật nhân quả sẽ chẳng bao giờ thiếu thốn dù
sống bất cứ nơi đâu. Xã hội và quốc gia có được nhiều con người như vậy,
nhất là được con người đó lãnh đạo chắc chắn quốc gia ấy không thể nào
yếu kém được.
Ngược lại
là cướp đi sự hài hòa trung dung tức gây mất mát đau khổ cho người khác.
Người không học Phật cũng chẳng bao giờ làm điều này huống chi người
muốn giải thoát.
Thử nhìn
lại con người mình qua nhu cầu thọ hưởng đời sống vật chất đầy đủ; nhưng
nếu phương diện nào đó bị khuyết điểm, thường hay tiêu hao, không thể
đầy đủ như người khác, thì ta có thể đoán biết rằng trong những đời sống
quá khứ ta đã không rộng rãi với ai, hoặc đã phạm giới trộm cắp. Dù rằng
ta vẫn được phước báo ấm no như ngày nay, do tạo thiện nghiệp quá khứ,
nhưng bên cạnh vẫn phải chịu ảnh hưởng của những tác nghiệp trộm cắp đời
trước. Do đó nên cẩn thận, chớ tưởng rằng việc lấy cắp một vật gì, không
ai thấy, không tổn thương ai sẽ không có quả báo.
Giới
không được Tà dâm
Người cư sĩ
tại gia, chỉ tìm hạnh phúc nơi gia đình chồng vợ của mình, tránh liên hệ
gây khổ đau phá vỡ hạnh phúc gia đình mình và người khác. Như vậy hợp
cách với tinh thần luân lý, và xã hội đất nước nào cũng vui mừng khi
thấy hạnh phúc của mỗi gia đình được tôn trọng. Ðó là kết quả sanh ra
những con dân ưu tú thông minh hạnh phúc.
Sự bất
chánh giao du với người khác không phải là chồng vợ mình, chẳng những
hậu quả phải cư xử lén lút không tự nhiên, mà hậu quả còn ảnh hưởng đến
đứa con của hai người. Vì sự ra đời của đứa bé hẳn có liên hệ đến cả hai
vợ chồng, nhưng đây lại không phải vợ chồng (chính thức) nên đứa bé sẽ
không như ý mơ ước của hai người!
Giới
không nói dối
Nhân cách
của một người được điểm lên bằng hành động và lời nói. Cũng thế sự hủy
hại thanh danh tư cách của mình cũng từ đây. Lời nói dù ít hay nhiều đều
có ảnh hưởng, nhất là cá nhân nào có quyền hạn thì tác dụng lời nói sâu
nặng hơn và kết quả sẽ tương ứng.
Phật dạy
"nói năng trong chánh pháp, im lặng trong chánh pháp", điều đó cho thấy,
lời nói để tạo ra chánh pháp không phải là dễ.
Ðời sống
một ngày, bắt đầu từ khi thức giấc cho đến về phòng nghỉ lại, ta đã phát
ra rất nhiều âm thanh. Những âm thanh nầy có khi vô tình cũng khi cố ý
tạo ra không ít phiền não đau buồn đến người khác. Ngay đến con vật cũng
hoảng hồn khiếp vía khi ta la hét đuổi xua chúng! Và chắc chắn rằng
không ai lại chịu đựng sống chung với người thường hay thốt ra những lời
cay cú, cộc cằn, gay gắt.
Nếu như con
vật còn cảm được âm thanh im diệu, êm tai, thì con người làm sao không
hạnh phúc khi được sống chung với người khẩu hòa, ái ngữ!
Nói năng
trong chánh pháp, căn bản trước tiên là không nói dối, rồi sau đó mới
trong sạch được ngữ ngôn của mình, cuối cùng mới phát được lời hay ý
đẹp.
Hậu quả và
lợi ích không nói dối đã quá rõ ràng mà ai cũng có thể nhận ra. Nhận
định thêm về hậu quả, là ngay trong đời này mọi người sẽ xa lánh ta; ta
không còn uy tín với ai dù với một đứa bé.
Mất uy tín
rồi khó mà lấy lại, đây là niềm đau lớn, lớn hơn cả nạn nhân bị ta nói
dối. Nếu ta bỏ xứ đi nơi khác, thì, do thói quen ta dễ tái phạm và đây
lại là hậu quả do ta xem thường sự quan trọng của lời nói. Phương cách
diệt trừ nói dối, là nhận định được lợi ích của sự thành thật thế thôi!
Không nói
dối được người quý mến; lại có người tìm đến xin kết bạn mà chẳng cần
tìm bạn, đó là lợi ích nhỏ nhứt và sơ khởi. Không nói dối nên có uy tín,
vì có uy tín, đến đâu làm gì cũng được người giúp đỡ, ủng hộ. Không nói
dối ảnh hưởng đến thành viên trong gia đình, nên các con cháu, em út đều
noi theo. Và quan trọng hơn hết, đã thực hành phần nào nói năng trong
chánh pháp; lợi ích này mới là lợi ích vĩnh hằng cho con đường thoát khổ
đời sau.
Giới
không uống rượu
Ðây là giới
cuối cùng trong năm giới, và đó là căn bản của người đang quy hướng vào
con đường học Phật. Giới đây xem ra thật quan trọng, dù thực tế nhận
thấy, hành động uống rượu không gây tổn thương ai; nhưng một khi đã phạm
vào giới này đến mức say sưa, thì lý trí, tâm bình tiêu mất, từ đó là
tác nhân phá hết bốn giới trên.
Tuy nhiên,
người cư sĩ học Phật hiểu vậy, vẫn khó tránh phạm, chỉ vì đang sống
trong thế giới văn minh hiện đại ngày nay. Nhưng giáo pháp của Phật là
dòng suối, tuôn chảy vào mọi hang cùng ngõ hẽm, nên dù hoàn cảnh nào
người học Phật cũng có giải pháp hóa giải tiến tu.
Chúng ta
phải hiểu qua tinh thần học đạo Ðại Thừa, phải "Tùy duyên bất biến, bất
biến tùy duyên". Khi người cư sĩ vì liên hệ với công việc, phải xả giao
qua tiếng chào ly rượu, đó chẳng phải kẹt chấp gì; điều quan trọng chỉ
cần ghi nhận, định vị được vị trí con người của mình đang là người học
Phật, thì hành động xã giao kia sẽ có giới hạn và chấm dứt ngay khi việc
đã dừng. Nếu không ý thức được như thế, chỉ còn cách xin thọ nhận bốn
giới trên; tuy nhiên chân lý vẫn là chân lý, nghĩa là dù không thọ giới
"không uống rượu", tác động của nó vẫn làm hư hại bốn giới trên, lẽ đó
tốt hơn nên ý thức về việc uống rượu, cho dù có thọ giới hay không thọ
giới.
Giới không
uống rượu còn phải hiểu, những gì làm đê mê, kích thích mất đi lý trí,
tâm tánh sáng suốt... những thứ như vậy không được dùng.
Khi đã hiểu
qua căn bản năm giới, kẻ lang thang say ngủ cảm nhận được tương đối về
những gì Phật dạy.
Hắn cố gắng
xây dựng cho mình cách sống của người tĩnh thức. Không chỉ đọc sách
nghiên cứu Phật pháp như bước đầu, mà thực hành là điều then chốt. Cuộc
sống của hắn bây giờ phải gắn liền với Phật pháp, dù phải làm việc chi.
Hẳn nhiên công việc sát sanh không thể có được.
Việc thực
hành Phật pháp đầu tiên là Thiền, vì Thiền giúp sống trong chánh niệm ở
mỗi động tác. Ðây đã mang đến kết quả, mà trước kia chưa tĩnh thức hắn
hay miên man nghĩ ngợi đủ thứ trong khi làm việc, do thế công việc không
thể đạt đúng chất lượng yêu cầu.
Từ đây sự
kiện nào xảy ra hắn thường bình tĩnh, không phải phản ứng tức thời,
không lo lắng bồn chồn vội vã. Ngay đây hắn đã thực hành áp dụng giáo lý
Nhân duyên; rằng tất cả đều có nguyên nhân và nên dò theo nhân duyên mà
xử lý. Khi xử lý phải sáng suốt nhẹ nhàng theo chánh niệm, tức áp dụng
vào việc quán xét vấn đề trong Thiền học. Vì thiền là tư duy, là định
tâm không vướng mắc nên xử lý vấn đề cũng cần định tâm, tức cố gắng đứng
ngoài vấn đề để quán sát. Ðứng ngoài vấn đề mới thấy vấn đề, nhưng không
có nghĩa không hội nhập, mà là hội nhập chẳng kẹt chấp.
Trải qua
nhiều năm như vậy, cuộc sống và con người của hắn đã thay đổi phần nào,
tuy nhiên hắn vẫn còn băn khoăn. Ðiều lo nghĩ của hắn là hoài bão muốn
xây dựng một đời sống toàn thiện, một cuộc sống, có thể mọi người đều
thực hành được như hắn! Dù rằng hắn mới đạt được thật sơ cấp của an lạc.
Ðây nói lên Bồ Ðề tâm bộc phát thật mạnh trong người hắn.
Hắn nhận
thấy, người học Phật cũng đông mà người thể hiện sự an lạc chứng đạo thì
quá hiếm - tuy họ không nói ra nhưng người ta có thể thấy được, nhất là
hắn đang dò xét để tìm mà cũng chẳng thấy. Hay vì các vị hành đạo, chứng
đạo trong âm thầm! Nhưng tu Phật phải cứu độ chúng sanh, cứu chúng sanh
phải thể hiện cụ thể, ít ra ở con người đó một vài hành vi liễu đạo giải
thoát v.v...Thế là tìm một người còn khó gặp, thì thế giới hắn ước mong
toàn người giải thoát làm sao có được!
Hắn không
hoài nghi lời Phật dạy "tất cả chúng sanh đều có Phật tánh", nghĩa chính
xác là sẽ thành Phật. Nhưng đợi một người thành Phật quá lâu, trong khi
thời gian tạo nghiệp ác của nhiều người chưa duyên học Phật càng chất
chồng thêm.
Nhìn vào
thế giới, con người lại đủ hạng lớp; số người già với trẻ nít tương đối
nhiều hơn so với hạng bắt đầu hiểu biết và bậc trung niên. Vậy vấn đề
làm sao có phương pháp tu nào để mọi trình độ, tất cả lớn nhỏ đều có thể
thực hành! Vấn đề, làm sao tạo được cảnh thuận cho người phát được Bồ Ðề
tâm, hay đúng hơn hoàn cảnh, nơi đâu không bị chướng duyên cho việc tu
đạo.
Nhìn lại
các tông phái tu Phật thịnh hành nhất hiện này là, Thiền tông, Mật tông
và Tịnh độ tông - cho đến nay trong ba tông này vẫn không thấy được
nhiều người đắc đạo; đó là ba tông thịnh hành tương đối được hầu hết
Phật tử có thể hiểu được và thuận duyên tu theo.
Tuy vậy đặc
biệt hơn, là Tông Tịnh độ; kết quả của việc tu theo pháp môn này thật kỳ
diệu, người hành pháp môn đó trước khi chết hiện tướng an lạc nhẹ nhàng,
có khi còn sanh hiện tượng siêu nhiên không giải thích được. Nhưng siêu
nhiên hơn hết là ai tu cũng được, từ tu sĩ cho đến cư sĩ và thực hành
được ở bất cứ nơi nào dù sơn dã hay thị thành. Với hai pháp tu Thiền,
Mật vẫn là tuyệt diệu pháp môn không khác Tịnh độ, nhưng phổ cập vào
nhân gian vào thế giới nhiễm tịnh bất đồng trong thời đại ngày nay, thì
không thể nào so sánh và làm được như tông Tịnh Ðộ. Ðơn giản chỉ vì đòi
hỏi hành giả tối thiểu một căn cơ từ bậc trung trở lên, và hoàn cảnh
phải hoàn toàn thuận duyên cho hành giả. Và tất nhiên hành giả nào thực
hiện và chứng đạo được, một trong hai Tông Thiền, Mật ngay xã hội rộn
ràng này, đó là điều mừng lớn, không chỉ riêng vị hành giả kia mà chung
cả hàng Phật tử mọi tông phái.
Nói riêng
Mật tông, có điểm tương đồng như Tịnh độ, vừa tự lực nhiếp Thân, Khẩu, Ý
thanh tịnh, vừa nhờ vào thần chú chư Phật gia bị, tuy nhiên vì vừa dùng
chú vừa nhiếp ba nghiệp, hành môn này sâu thẩm hơn, có công năng chứng
được định giới, ngay trước khi xả bỏ thân, và cũng vì sâu thẩm vậy, cần
phải có Thầy hướng dẫn tu nếu là cư sĩ, còn tu sĩ thì phải sống một nơi
thích hợp mới dễ hành. Ðiểm tương đồng đó là vừa dụng công tự lực, vừa
có tha lực chư Phật gia bị nhiếp thọ cho.
Thiền thật
thịnh hành và hầu như căn bản nói về thiền, Phật tử không xa lạ. Ðặc
biệt pháp tu đây phần lớn nhờ vào tự lực. Hành giả phải xả bỏ ngã chấp
và pháp chấp, rồi thanh lọc thân tâm, nhận ra đâu là vọng đâu là chơn;
thấy được tánh chân như, bản lai diện mục của các pháp. Hành giả đi vào
được định và an lạc ngay tại đây. Tuy nhiên hành giả phải tiếp tục quán
chiếu tự tâm cho đến rỗng rang không còn kẹt chấp bất cứ điều gì, kể cả
điều mà hành giả đang quán chiếu. Chừng ấy hành giả sẽ lần lần diệt được
hẳn bản ngã đắc quả Tu Ðà Hoàn nhập vào dòng Thánh - từ đây lại tiếp
tục đi lên cho đến diệt hết cả Tư hoặc, vô minh hoặc, trần sa hoặc, Hành
giả sẽ đắc quả vô sanh (A La Hán).
Ðại khái
như vậy, nếu đi sâu vào chi tiết thế nào của niềm an lạc định tâm, không
ai nói được, trừ khi vị đó đạt được kiến thức của Sơ quả Tu Ðà Hoàn
(Thánh Tăng), nghĩa là có chứng có thấy mới nói hết được.
Như thế
pháp tu Thiền, so ra thật khó hơn Tịnh Ðộ nhiều lắm, vì hầu như tự lực,
bắt buộc diệt phá hết kiến hoặc, tư hoặc
-
tuy nhiên người tu Thiền cơ bản dù chưa được chứng quả, kể cả Sơ quả,
vẫn được phước báo an lạc, định tâm sơ cấp, chừng mất đi hưởng quả lành
vào cõi Nhân, Thiên.
Kết lại,
vấn đề sáng tỏ, chỉ có Pháp tu Tịnh Ðộ thật dễ dàng cho con người hiện
nay, và đó cũng là cánh cửa hoài bão, hé mở cho kẻ say ngủ đang tìm kiếm
một pháp môn tu.
Bấy lâu hắn
đã nghe qua kinh A Di Ðà; không những thế, có lần còn đọc kinh này hộ
niệm cho người mất. Nay làm hắn phải suy nghĩ về vấn đề lớn lại xuất
hiện trong kinh đây.
Hắn suy
nghĩ về một thế giới mà Phật dạy toàn vui, không một chút khổ! "Chúng
sanh cõi ấy không có những khổ, chỉ hưởng những vui" !
Tại sao lại
có một thế giới lạ lùng như thế!?
Suy ra,
việc gì cũng phải đối đãi, nhân duyên mới thành; hễ có vui tức có khổ,
nhờ khổ mới nhận ra vui - nếu không khổ ai lại biết vui, cũng như biết
vui là vì có khổ!
Nhưng, sự
kiện được tả trong kinh là chỉ toàn vui, và cảnh giới lạ lùng nầy, không
phải chỉ có trong một quyển kinh A Di Ðà, mà tiếp theo hai bộ nữa, là Vô
Lượng Thọ và Quán Vô Lượng Thọ.
Biết được,
xưa nay người tu cầu sanh về Cực Lạc căn cứ vào ba kinh này làm gốc.
Nhưng sự thật nữa, là các kinh khác thỉnh thoảng cũng nhắc về vị Giáo
Chủ của cõi Cực Lạc, luôn cả tên cõi đó; như kinh Pháp Hoa, Hoa Nghiêm,
Bảo Tích...
Hắn thật
bối rối! Tự nghĩ làm sao có một thế giới chỉ toàn là vui!
Lại suy
nghĩ, đó là lời của Ðấng Toàn Giác nói ra, Hắn giựt mình. Phật là đấng
vượt lên tất cả, Ngài không thể nào làm chúng sinh phải nghi ngại vấn đề
gì. Nếu vì vấn đề bất lợi nhiều hơn có lợi, chắc chắn Ngài không bao giờ
nói. Cả đời sống của Ngài là: nói năng như chánh pháp, im lặng như chánh
pháp. Ngài lại nói đúng thời đúng cơ của một chúng sanh, của một thế
giới. Và tuyệt đối một điều, việc làm của bậc Ðại giác chỉ có chư Phật
với nhau mới biết, chúng ta không thể suy lường biết được.
Ðến đây,
hắn im dịu phần nào những nghi ngại về một thế giới lạ lùng đó. Nhưng
vẫn chưa tin tuyệt đối! Hắn nghĩ tiếp, Phật cũng thường dạy, vạn pháp do
tâm tạo (Tam giới duy tâm, vạn pháp duy Thức) và truyền thuyết
kinh kể lại, các bậc đệ tử chứng đạo của Ngài đã cảm nhận mọi an lạc
giải thoát Niết Bàn tại thế, gọi là Hữu Dư Niết Bàn
- như vậy thế giới Ta Bà này lúc đó đã có Phật, đã có Bồ Tát Thánh Tăng,
nhưng cũng còn nhiều người chưa giác ngộ, còn các ngoại đạo, còn người
đau khổ...thì ở thế giới nào đó cũng phải như vậy; nếu khác hơn thì, chỉ
số người đau khổ không nhiều bằng đây thôi, có đâu lại toàn vui như gọi
là Cực Lạc!
Bất chợt
hắn hiểu rằng, Phật xuất hiện ở cõi Ta Bà này là tự thị hiện do lòng từ
bi, và đã thị hiện vào, thì đây không phải nơi trụ của Ngài; nên việc
khổ ở đây là hẳn nhiên rồi! Bằng chứng đó, là việc tự phát nguyện vào
cõi Ta Bà của Phật Thích Ca đã được chư Phật tán thán ca ngợi trong Kinh
Ðại Phương Tiện Phật Báo Ân như sau: -Thiện nam tử! Ngươi đến thế
giới Ta bà, nếu thấy Phật Thích Ca Mâu Ni, phải sinh lòng cúng dường
cung kính, nghĩ tưởng khó gặp, bởi cớ sao? - Vì Phật Thích Ca Như Lai đã
từng ở trong vô lượng trăm nghìn vạn ức A -tăng-kỳ kiếp, làm những việc
khổ hạnh khó làm, phát đại bi nguyện: "Khi tôi được thành Phật, sẽ ở
nơi cõi nước tệ ác, núi đồi gò đống, sành sỏi gai gốc, chúng sinh ở
trong đó, đủ mọi phiền não, ngũ nghịch, thập ác, tôi sẽ tu hành thành
Phật ở nơi đó, để làm những việc lợi ích, đoạn trừ tất cả khổ não cho
chúng sinh, khiến cho chúng sinh được tất cả vui, thành tựu pháp thân,
hết không còn sót."
Riêng cõi
Cực Lạc là cõi Phật, là cõi trụ của Ðấng Ðại Giác A Di Ðà, thì làm gì có
khổ! Hắn tự reo lên: Ðúng rồi, đúng rồi! Ðây là cõi nhiễm và kia là cõi
Tịnh. Ngài A Nan Thánh Tăng há không nói: nơi khổ ác thế gian con xin
nguyện vào trước để độ chúng sanh (ngũ trược
) ác
thế thệ tiên nhập).
Hắn bình
tỉnh để lòng lắng xuống, suy nghĩ
Tất cả
những cảnh tượng do tâm thức con người tạo ra, hay gọi là chiêu cảm
thành. Người mang tâm thức thấp sẽ sống với hoàn cảnh thấp tương hợp,
gọi là Y báo. Chẳng hạn chúng ta sống ở cõi Ta Bà nầy, cảnh trí lồi lõm
như tâm con người, tức tâm thiện, ác rối ren, tâm lao xao vọng động...
do đó hoàn cảnh thuận theo chẳng thể yên bình.
Ðiều mà con
người hoang mang, lo lắng, sợ hãi nhất cho đời sống là chiến tranh,
nhưng việc chiến tranh cũng do con người gây ra. Theo lời dạy trong
kinh, là lời của bậc chứng ngộ thông suốt các pháp cùng hiện tượng sinh
tử chúng sanh, thì trong vũ trụ có hằng hà sa số thế giới, trong đó có
vô số thế giới thanh tịnh. Nơi thế giới ấy hoàn toàn là những bậc vô
nhiễm, vô phiền não; vì do tâm thức các Ngài như thế (chánh báo), và vậy
thế giới các Ngài không có lồi lõm, thô kệch như thế giới chúng ta. Việc
này cũng dễ nhận hiểu, vì luật nhân quả duyên sanh, chớ không thể nào
tâm mọi người bình yên mà thế giới hỗn loạn chiến tranh được.
Nhìn xem
thế giới Ta Bà, ta cũng nên nghi vấn; tại sao vẫn có các vị chứng đạo
tại đây mà thế giới không thay đổi ?
Việc đã bàn
qua, là do các Ngài từ tâm nguyện đại bi thị hiện độ sanh; vì từ bi thị
hiện đi vào nên đây không phải nơi các Ngài chiêu cảm hóa hiện, nói rõ
hơn nơi không phải các Ngài an trụ. Tuy nhiên bản thân tâm thức các Ngài
không thấy khác ở bất cứ trụ xứ nào. Các Ngài đã vượt qua nhị biên
đối đãi, đã xô ngã bức tường Ngã, Pháp vi tế, nên các Ngài vẫn an nhiên
tự tại nơi Ta Bà này. Tuy vậy sự an lạc tự tại của các Ngài, chúng ta
khó thể nhận ra, vì các Ngài vẫn đóng tuồng đau khổ y như đau khổ của
chúng ta, như mang thân bệnh, chịu nóng lạnh v.v...
Các Ngài
diễn tuồng như vậy mục đích chỉ độ chúng sanh, tức phải sống như mọi
người, chớ không thể biến thân hóa hiện mà độ được.
Thấy rõ cõi
Ta Bà gồ ghề thô kệch, nguyên nhân chính là do tâm thức cộng nghiệp của
tất cả chúng sanh hiện hữu chiêu cảm thành. Và vì cộng nghiệp chiêu cảm
thành, nên một thiểu số không thể chiêu cảm biến đổi được một cộng
nghiệp quá lớn.
Nếu một
biệt nghiệp nào bằng tâm thức vô nhiễm, vô cấu, vô phân biệt đang đạt
thành ở cõi Ta Bà, cá nhân biệt nghiệp đó vẫn an lạc và có thể xem cõi
Ta Bà đây như là Tịnh Ðộ không khác, vì Tịnh hay Uế đều do tâm tạo ra.
Và tất nhiên chỉ đối với vị đó mà thôi, còn lại chúng sanh khác chưa
chứng đạo vẫn phải chịu đau khổ, chịu ảnh hưởng cảnh uế trược lồi lõm
của Ta Bà nên không thể nào xem đây là Tịnh Ðộ được.
Tỉ dụ cụ
thể, một vị tỉ phú giàu có, tài sản của ông có mặt khắp nước trên thế
giới, cho nên ông sẽ đầy đủ khoái lạc dù ông đến ở bất cứ nước nào, và
hẳn nhiên nơi ông đến, nơi ông ở, chỉ có mình ông vui sướng, còn lại
người khác vẫn cày bừa cật lực mới có ăn.
Thế thì cõi
Ta Bà này vẫn là cõi ô trược thật sự, vì một cộng nghiệp chúng sanh chưa
chứng đạo đang sống trên đó. Và trong số lượng người sống khổ ở thế giới
đây (Ta Bà), nếu một biệt nghiệp nào biết tu niệm, biết thực hành giáo
lý giải thoát cá nhân ấy sẽ bắt đầu đi vào an lạc ngay ở cõi này. Rồi
đến khi cá nhân ấy chết đi, tức khắc sẽ sanh về một thế giới thanh tịnh,
nơi ấy là cộng nghiệp của toàn tâm thức vô nhiễm, và cõi đó chắc chắn
không có lồi lõm, gồ ghề, chiến tranh máu đổ như thế giới phiền trược
chúng ta. Ðây là luật nhân quả rõ ràng vậy.
Hắn nhẹ
nhõm vui mừng hiểu được, và chấp nhận rằng, có một thế giới thanh tịnh
đang hiện hữu một nơi nào đó ở vũ trụ bao la nầy.
Lần mở
trang kinh A Di Ðà đọc lại, để lắng nghe Phật dạy Ngài Xá Lợi Phất về sự
hiện hữu phương tây có một thế giới tuyệt đẹp.
Trích trong "Ðức Phật và Phật pháp", Tác giả NARADA, dịch giả Phạm
Kim Khánh.
]
Kinh Hiền Ngu - Phẩm thứ bốn mươi ba. Thích Trung Quán dịch
Tỳ Ni nhật dụng thiết yếu - HT Thích Trí Quang dịch .
Tứ Diệu Ðế: Bài pháp đầu tiên Phật khai thị, từ đó hình thành Ba
ngôi Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng). Nghĩa của Pháp này: Khổ là
chân lý, Tập (nguyên nhân) là chân lý, Diệt (khổ bị
diệt hiện Niết Bàn) cảnh Niết Bàn an vui khi diệt trừ được nguyên
nhân khổ. Và Ðạo (Bát chánh đạo) là con đường hướng dẫn làm
thế nào để diệt khổ.
Kiến
hoặc, Tư hoặc: là những phiền não trược phiền sinh ra từ
thân, tâm; phiền não đó là do vọng tưởng sai lầm đã chấp chặt từ
nhiều đời quá khứ và ngay trong đời nay. Kiến hoặc: là
những thấy biết sai lầm: như thân kiến, biên kiến, kiến thủ, giới
cấm thủ kiến, Tà kiến. Tư hoặc: những phiền não sâu
đậm vọng chấp lâu đời: như Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi.
Hữu dư Niết Bàn: Hành giả đã đạt được cảnh an lạc giải thoát Niết
Bàn tự tâm (bên trong không còn phiền não), nhưng bên ngoài vẫn còn
mang xác thân ngũ uẩn. Chừng bỏ xác thân đi, sẽ đạt đến Vô dư Niết
Bàn tức thân tâm giải thoát. Các bậcA La Hán thời còn Phật đều được
Hữu Dư Niết Bàn.
Kinh Ðại-Phương-Tiện Phật-Báo-Ân. -HT.Thích Quảng Ðộ dịch,
Phẩm tự Thứ nhất
thêm về sự chiêu cảm và thành lập một thế giới, bằng sự hiểu biết cố
gắng của hắn.
Ngũ
trược: Năm thứ ô nhiễm ở thế gian như: Kiếp trược, kiến
trược, phiền não trược, chúng sanh trược, mạng trược.
Kiếp trược: Tuổi thọ giảm dần theo kiếp số, và con người
phải chịu đựng mọi phiền não trong những kiếp số nầy. Kiếp Tăng, con
người thọ đến 8 vạn 4 nghìn tuổi, và đến Kiếp Giảm, xuống đến còn 10
tuổi. Trong thời Giảm, càng thấp con người càng khổ.
Kiến trược: Nhận định thấy biết sai lầm, không phân biệt
được chánh pháp tà pháp.
Phiền não trược: Sự ô nhiễm của vọng tâm chất đầy mối
Tham, sân, si, mạn, nghi.
Chúng sanh trược: Hoàn cảnh của những chúng sanh phải chịu
khi xuất hiện ở cõi ô trược Ta Bà.
Mạng trược: Ô nhiễm trược phiền thân tâm khiến thân mạng
giảm lần
Nhị biên: hai nhận định về các Pháp Có và Không. Có là do nhân duyên
nên hiện hữu. Không, là vì do nhân duyên nên không có tự tính, thành
ra là Không.
---o0o---
Mục Lục
Chương I
|
Chương II
|
Chương III
Chương IV
|
Chương V
|
Chương VI
|
Chương VII
Chương
VIII
|
Chương IX
|
Chương X